Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.2 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Mục lục
1. Cơ sở đề xuất giải pháp
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
1.3. Mục tiêu của giải pháp
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp
1.5. Phương pháp thực hiện
1.6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp
2.1. Quá trình hình thành nên giải pháp
2.2. Nội dung của giải pháp mới

Trang
1
3
3
4
5
5
6
6
6
6
8

2.2.1. Khảo sát phân loại đối tượng học sinh
2.2.2. Đề cao cái tâm trong công tác chủ nhiệm
2.2.3. Xây dựng hội đồng tự quản lớp
2.2.4. Xây dựng nề nếp lớp


2.2.5. Xây dựng nề nếp học tập
2.2.6. Quản lý lớp học bằng các biện pháp kỷ luật tích cực
2.2.7. Giáo dục đạo đức cho học sinh
2.2.8. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh
2.2.9. Nêu gương, khen thưởng
3. Hiệu quả của giải pháp
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp

8
12
12
13
14
18
21
22
23
23
23

3.2. Hiệu quả đạt được
3.3. Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
3.4. Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
4. Kết luận và đề xuất, khuyến nghị
4.1. Kết luận
4.2. Đề xuất, khuyến nghị

23
24
24

25
25
26

1


1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Trong thời đại hiện nay, cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, học sinh rất dễ bị lôi cuốn bởi những cái chưa hay đang
diễn ra trước mắt các em. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ nhỏ, nhất là trẻ lớp Một.
Luật giáo dục có nêu: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
2


sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng
tạo cơ sở cho học sinh phát triển học tiếp các bậc học tiếp theo vì vậy bên cạnh
việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kỹ năng cơ bản trong học tập,
lao động còn cần phải chú ý đến việc phát triển nhân cách cho học sinh, dạy học
sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh nghiệm thích ứng với môi
trường mới, yêu cầu mới. Trong đó giáo dục đóng vai trò quan trọng vì mọi kiến
thức, hành vi và phẩm chất đạo đức đều được hình thành ở nhà trường. Giáo
viên là người đại diện cho nhà trường trực tiếp giảng dạy và giáo dục học sinh;
giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục của nhà trường do đó đòi hỏi
người giáo viên không chỉ có trình độ, có năng lực phẩm chất đạo đức tốt, có

tâm huyết với nghề, yêu thương, tận tụy với học sinh mà còn phải có năng lực tổ
chức, điều khiển mọi hoạt động của lớp mình chủ nhiệm. Từ nhận thức trên, tôi
nhận thấy vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp rất cần thiết và quan trọng bởi vì
chỉ có giáo viên chủ nhiệm lớp mới có khả năng rèn luyện và xây dựng cho các
em ý thức học tập và rèn luyện một cách có nề nếp, có hiệu quả. Vì thế đòi hỏi
người giáo viên chủ nhiệm phải có phẩm chất của một nhà giáo, có tính độ
lượng, giàu lòng nhân ái, kiên trì, bền bỉ, sáng tạo bình tĩnh trong mọi công việc,
luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, là chỗ dựa vững chắc cho các em
trong bước đường học tập và phấn đấu trở thành con người phát triển toàn diện.
Trong thực tế, chủ nhiệm lớp là một công tác vô cùng khó khăn, phức tạp,
thành công cũng có, thất bại cũng không phải là hiếm. Bởi lẽ, mỗi tập thể lớp nó
có đặc thù riêng của lớp đó. Có lớp như thế này, có lớp như thế khác nào là lớp
có học sinh cá biệt về học tập, về đạo đức; nào là học sinh có hoàn cảnh gia đình
khó khăn về kinh tế; trẻ mồ côi… Trong đó, đối tượng học sinh làm cho thầy cô
giáo trăn trở nhiều nhất vẫn là lười học, chưa biết nghe lời. Bên cạnh đó, trong
lớp vẫn có những học sinh ngoan, biết tự lo cho bản thân mình, luôn có chí phấn
đấu đưa lớp hoàn thành những chỉ tiêu do nhà trường đề ra. Thực tế là như vậy
cho nên giáo viên chủ nhiệm cần phải có phương pháp chủ nhiệm như thế nào
để có hiệu quả cao nhất. Công tác chủ nhiệm của một giáo viên được xem là
thành công đồng nghĩa với việc giúp các em hoàn thiện mình hơn, xây dựng
3


được tập thể vững mạnh, đưa nhà trường ngày càng tiến lên. Trong giai đoạn
hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của người giáo
viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội, bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn
tại những tác động xấu đến học sinh, bởi sự mưu sinh của gia đình nên không ít
phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con em cho nhà trường. Chính vì những lý
do đó mà tôi đã dành rất nhiều thời gian, tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp
mình. Qua thực tế công tác, học tập tìm tòi và học hỏi nhiều ở các bạn đồng

nghiệp, tôi mạnh dạn trình bày đề tài:“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác chủ nhiệm ở Tiểu học” mà bản thân đã đúc rút được.
1.2. Tổng quan các vấn đề có liên quan đến giải pháp
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học là cầu nối giữa ba môi trường
giáo dục: Gia đình – Nhà trường – Xã hội. Giáo viên chủ nhiệm vừa là thầy cô
giáo vừa là một nhà quản lý vừa là cầu nối giữa nhà trường và Xã hội.
Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, gắn bó với người
giáo viên chủ nhiệm trong suốt quá trình công tác. Vì vậy đối với mỗi nhà giáo
trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này cần phải tích lũy cho mình một số
kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, cùng với sự tiến bộ của xã
hội, sự giao lưu văn hóa, kinh tế… rộng rãi thì vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vai
trò một giáo viên chủ nhiệm là vấn đề không hề cũ.
1.3. Mục tiêu của giải pháp
Kế hoạch chủ nhiệm phải dựa vào chỉ tiêu, kế hoạch của nhà trường, từ đó
giáo viên chủ nhiệm có kế hoạch xây dựng những nội dung cụ thể về các mặt
giáo dục học sinh như sau:
- Về đạo đức: Đưa các em vào kỷ cương, nề nếp, rèn luyện theo chủ đề,
“năm điều Bác Hồ dạy”. Giúp các em:
+ Biết kính trên nhường dưới.
+ Đoàn kết yêu thương giúp đỡ bạn.
+ kính trọng, vâng lời thầy cô giáo, người lớn tuổi.
+ Không nói tục, chửi thề.
+ Biết phân biệt phải trái, đúng sai.
+ Biết giúp đỡ những người gặp khó khăn.
….
- Về học tập: Yêu cầu mỗi học sinh khi đến lớp phải có đầy đủ sách giáo
khoa, đồ dùng học tập. Phải chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Tích cực, tự giác
trong học tập.
4



1.4. Những căn cứ đề xuất giải pháp
Hẳn ai trong mỗi chúng ta cũng đều biết, bản chất của quá trình giáo dục
là tổ chức toàn bộ cuộc sống, học tập, hoạt động của học sinh, tạo điều kiện
thuận lợi để học sinh phát triển và bộc lộ hết khả năng của mình.
Khác với các bậc học khác, người giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học là người
trực tiếp vừa “dạy” vừa “dỗ” và đảm nhiệm dạy hầu hết các môn học, là người
quản lý toàn diện một tập thể học sinh của một lớp và có nhiều thời gian gắn bó,
gần gũi với học sinh. Hơn nữa trình độ hiểu biết và vốn sống của học sinh Tiểu
học còn nhiều hạn chế vì thế các em rất cần có một người thường xuyên hướng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, dìu dắt. Do đó không thể phủ nhận vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm. Nó giống như một người chăm sóc cho hạt giống nảy mầm nên
hàng ngày, hàng giờ phải theo dõi từng sự thay đổi, từng bước phát triển của hạt
giống ấy sao cho chúng thành cây non mạnh khỏe làm tiền đề cho những bước
tiếp theo.
Công tác chủ nhiệm là hệ thống những kế hoạch, những biện pháp mà
người giáo viên đã đưa ra nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những
nhiệm vụ của mình do nhà trường, Đoàn, Đội đưa ra. Giáo viên chủ nhiệm
ngoài việc dạy đủ các môn theo qui định còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm
lớp. Để thực hiện tốt vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp ngoài việc có
trình độ chuyên môn còn phải có năng lực quản lý học sinh trong các hoạt động
giáo dục.
1.5. Phương pháp thực hiện
- Phương pháp chính: Tổng kết đúc rút kinh nghiệm.
- Phương pháp hỗ trợ:
+ Phương pháp điều tra, khảo sát.
+ Phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận, thực tiễn.
1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng
Đề tài này được áp dụng cho học sinh lớp 1A4 trường Tiểu học Trường

Sơn và có có thể áp dụng được cho tất cả học sinh Tiểu học.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
2.1. Quá trình hình thành nên giải pháp
5


Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có
mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và
người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội loài người. Giáo dục
là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình
thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn
trong xã hội. Giáo dục làm một việc vô cùng cần thiết là rèn luyện, biến đổi dần
dần tính cách con người, hướng người ta đến sự hoàn thiện của một nhân cách
tốt đẹp, xây dựng một xã hội với những con người có ích và hướng thiện. Chính
vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là sự
nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn của toàn Đảng, toàn dân ta nói
riêng. Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “Quốc sách hàng đầu”, là vô
cùng quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người , sự phát triển
của một thế hệ, sự hung thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt
động giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng
người”. Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế, thời đại công nghệ thông
tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục lại vô cùng cần thiết. Làm thế nào
để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự
nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm chung của toàn
xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là của người giáo
viên chủ nhiệm – người trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với các em học sinh.
Bởi vậy, người gần gũi nhất với các em học sinh, người luôn ở bên cạnh giải đáp
mọi khó khăn, thắc mắc của các em, người mà các em kính trọng và tin yêu
nhất, người mà được các em xem như “Mẹ hiền thứ hai” không ai khác chính là
người giáo viên chủ nhiệm.

Đầu năm học 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công
chủ nhiệm lớp 1A4 với tổng số 28 em, với 10 em nữ và còn lại là nam. Ngay sau
khi nhận lớp tôi nhận thấy có những thuận lợi, khó khăn như sau:
2.1.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu của nhà trường.
- Đa số học sinh lớp tôi nhà ở gần trường, ngoan ngoãn, lễ phép.
- Cơ sở vật chất khang trang, đảm bảo cho việc dạy và học.
6


- Ngay đầu năm học, trường đã tổ chức họp phụ huynh học sinh và lớp đã
bầu được Ban đại diện cha mẹ học sinh nhiệt tình, gắn bó với các hoạt động của
nhà trường, của lớp học.
- Học sinh có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
- Bản thân giáo viên chủ nhiệm nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học
sinh thân yêu.
2.1.2. Khó khăn
- Trong lớp có 1 em học sinh không có cha mẹ phải sống với ông bà nội
đã lớn tuổi, 3 em học sinh bố mẹ đã chia tay nhau, 3 em học sinh gia đình thuộc
diện nghèo.
- Một số phụ huynh chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc học của con
em mình.
- Lớp có số học sinh nam đông hơn số học sinh nữ (28/10).
- Một số học sinh chưa tích cực trong học tập, chưa mạnh dạn tham gia
các phong trào hoạt động tập thể.
- Một số em chưa biết chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập khi đến lớp.
Từ thực tế trên, ngay từ đầu năm học tôi đã tìm hiểu, nắm tình hình, hoàn
cảnh gia đình của từng em học sinh về các vấn đề liên quan đến đạo đức và ý
thức học tập và kết quả được ghi nhận như sau:


số
28

CHĂM HỌC, NGOAN NGOÃN
Số lượng

Tỉ lệ

18

64,3%

CHƯA CHĂM HỌC,
CHƯA NGOAN
Số lượng
Tỉ lệ
10

35,7%

Điều đáng nói ở đây là sĩ số học sinh tuy ít nhưng số học sinh chưa chăm,
chưa ngoan lại nhiều. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp tôi rất mong muốn học trò
của mình là những con ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này trở thành
những người công dân có ích cho xã hội.
2.2. Nội dung giải pháp mới
Sau khi tìm hiểu nắm được những nguyên nhân ảnh hưởng đến nề nếp
học tập cũng như sự phát triển nhân cách các em tôi đã thực hiện các biện pháp
7



để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp, góp phần xây dựng nền nếp học
tập cũng như sự phát triển nhân cách của các em như sau:
2.2.1. Khảo sát, phân loại đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học, dựa trên cơ sở nắm được đặc điểm tình hình của
lớp, nắm được đặc điểm tâm lý lứa tuổi, tâm sinh lý của các em, trực tiếp trao
đổi với phụ huynh về từng đối tượng học sinh và đồng thời nhận được những
thông tin từ phía phụ huynh tôi đã tiến hành phân loại đối tượng để từ đó vạch ra
những biện pháp, kế hoạch giáo dục riêng phù hợp cho từng đối tượng học sinh
trong lớp.
Học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn
Phát động phong trào “Lá lành đùm lá rách”, “Nuôi heo đất”, “Một miếng
2.2.1.1.

khi đói bằng một gói khi no” trong toàn lớp. Vận động phụ huynh, các mạnh
thường quân ủng hộ sách, vở, đồ dùng học tập cũng như thông tin tình hình khó
khăn của các em cho Ban giám hiệu nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội khuyến
học để được nhận những phần quà, những xuất học bổng giúp các em có điều
kiện học tập tốt hơn.
Với các biện pháp trên lớp đã xin được 1 xuất học bổng từ chi đoàn
trường, nhận được 1 chiếc cặp từ một cô giáo ủng hộ và 2 phần quà từ quỹ
khuyến học và nhận được rất nhiều sự đóng góp nhỏ từ các em học sinh trong
lớp lúc thì quyển vở, lúc thì cây bút chì, cục tẩy...

8


Cô Giang Bí thư chi đoàn trường đang trao tặng học bổng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn

Với những em bố mẹ đã ly dị hoặc sống với ông bà tôi luôn quan tâm, gần
gũi, yêu thương nhằm làm giảm bớt đi nỗi bất hạnh mà lẽ ra các em không đáng

phải gánh chịu vì với mặc cảm mình không có đủ cha mẹ như các bạn các em sẽ
rất dễ tủi thân và sẽ co mình lại nếu không có được sự quan tâm từ phía cô chủ
nhiệm – Người mẹ hiền thứ hai của các em.
2.2.1.2. Học sinh chăm ngoan, tích cực trong học tập
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn động viên, khuyến khích các em trả lời
những câu hỏi khó, làm thêm những bài tập ở dạng cao hơn so với chuẩn.
Thường xuyên tham khảo, sưu tầm những dạng bài tập mới, những dạng toán lạ
để các em tham khảo và luyện tập thêm. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh
cho các em tham gia giải toán, toán tiếng anh trên mạng mỗi khi có vòng mới
mở. Định hướng cho các em tham gia vào hội đồng tự quản lớp để các em có thể
phát triển hết khả năng của mình.
2.2.1.3. Đối với học sinh tiếp thu bài chậm
Trước tiên tôi đi vào tìm hiểu nguyên nhân, liên lạc với gia đình và người
thân xem vì sao các em tiếp thu chậm, chưa tích cực trong học tập. Phải chăng
do các em mới từ môi trường mẫu giáo, nơi mà hoạt động chủ đạo là vui chơi
9


sang môi trường Tiểu học nơi mà hoạt động chủ đạo là học tập và các em chưa
chuẩn bị tâm lí để sẵn sàng đi học? Hay do gia đình không quan tâm, phó mặc
cho cô giáo, cho nhà trường?… Bước tiếp theo tôi lập kế hoạch nhằm giúp đỡ
các em bằng những việc cụ thể như:
- Quan tâm sát sao hơn đến việc học hàng ngày của các em: thường xuyên
gọi các em đứng lên đọc bài, làm bài trên bảng.
- Nghiên cứu thiết kế bài giảng sao cho các đối tượng học sinh này được
tham gia nhiều hơn vào tiết học và cảm thấy mình cũng có những đóng góp
đáng kể vào việc xây dựng bài.
- Vào các tiết bồi dưỡng, phụ đạo buổi chiều dạy cho các em đọc, viết các
âm, vần mà các em chưa nhớ. Hướng cho các em so sánh số, làm tính qua trực
quan.

- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh giao bài cho các em rèn luyện
thêm ở nhà.
- Cho các em ngồi cạnh các bạn tiếp thu nhanh để được các bạn giúp đỡ
thêm dưới hình thức “Đôi bạn cùng tiến”, “Giúp nhau vượt khó”...

10


Các đôi bạn cùng tiến được thành lập nhằm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ

- Khen thưởng kịp thời mỗi khi các em có tiến bộ dù là rất nhỏ. Và điều
đặc biệt là không bao giờ chê bai, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu
hổ trước bạn bè.
2.2.1.4. Đối với học sinh chưa ngoan, hay nghịch ngợm trong lớp
Để giúp các đối tượng này chấp hành tốt nội qui của lớp đòi hỏi người
giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian. Đối với những học sinh này, tôi luôn phải
thật mềm mỏng, nhẹ nhàng, tạo sự gần gũi thân thiện. Khen ngợi kịp thời những
việc tốt mà các em đã làm được. Mạnh dạn cho các em tham gia một chức vụ
nào trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.

11


Với cách làm này, tôi đã giúp em Huy từ một học sinh hiếu động, ham chơi, ít
tập trung trong các giờ học trở thành một học sinh ngoan, mẫu mực.
Mặt khác tôi thường xuyên liên lạc, thông báo tình hình của các em với
phụ huynh để cùng nhau theo dõi, nhắc nhở tạo môi trường giáo dục chặt chẽ
hơn giữa nhà trường và gia đình.
2.2.2. Đề cao cái tâm trong công tác chủ nhiệm
Như chúng ta đã biết điều quan trọng nhất đối với giáo viên chủ nhiệm là

phải có tâm với học sinh, từ đó mới tìm ra cách giáo dục các em có hiệu quả.
Giáo viên chủ nhiệm cần đảm bảo quyền lợi chính đáng, thưởng phạt công
minh, kịp thời, công bằng với tất cả học sinh không được trù dập, phân biệt đối
xử với học sinh. Không có công thức nào chung nhất cho công tác chủ nhiệm,
nhưng trước tiên cần phải có tấm lòng nhiệt tình và phương pháp hợp lý thì sẽ
đem lại thành công. Phải thật sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình và tận tâm với
công việc. Phải gần gũi, yêu thương, tôn trọng học sinh. Mỗi giáo viên phải thực
sự là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo, được thể hiện qua tư tưởng, tác
phong, ngôn ngữ, cách làm việc và ứng xử hàng ngày.
Giáo viên chủ nhiệm là người thiết kế, tổ chức mọi hoạt động giáo dục ở
một lớp để thực hiện mục tiêu nội dung giáo dục toàn diện vì thế trong mọi hoạt
động giáo dục tôi thường hòa mình vào tập thể lớp, rút ngắn khoảng cách thầy
trò hơn để học sinh có thể xem tôi như một người thân gần gũi nhất có thể giúp
đỡ các em mọi lúc. Vào những buổi nghỉ giữa giờ tôi thường sưu tầm những câu
chuyện hay mang tính giáo dục, phù hợp với lứa tuổi để kể cho các em nghe.
Trong từng tiết dạy, tôi luôn suy nghĩ tìm ra giải pháp giúp các em khắc sâu bài
học một cách hiệu quả nhất. Thường xuyên quan tâm đến các em tiếp thu chậm,
hay quên, chữ viết chưa đúng... có những câu hỏi cho học sinh năng khiếu và
đặc biệt là những phần quà nhỏ, những “tràng pháo tay” dành cho tất cả các em
học sinh.
2.2.3. Xây dựng Hội đồng tự quản lớp
Muốn công tác chủ nhiệm tốt, người giáo viên phải xây dựng được Hội
đồng tự quản lớp tốt (trước đây gọi là ban cán sự lớp). Đối với lớp Một, để bầu
được một Hội đồng tự quản lớp đã là một chuyện không dễ nhưng làm thế nào
12


để Hội đồng tự quản ấy hoạt động có hiệu quả cũng có lắm khó khăn. Để Hội
đồng tự quản điều hành lớp tốt thì giáo viên chủ nhiệm phải hướng dẫn, đôn
đốc, rút kinh nghiệm thường xuyên, kịp thời.

Ngay từ tuần làm quen đầu năm, tôi và các em học sinh lớp mình chủ
nhiệm cũng tiến hành bầu chọn được một Hội đồng tự quản với các ban bệ khá
đầy đủ (Ban học tập, ban văn nghệ, ban thư viện, ban sức khỏe) và phù hợp với
khả năng của các em học sinh lớp 1. Tiếp đó tôi triển khai nhiệm vụ cụ thể cho
từng thành viên: Chủ tịch Hội đồng tự quản chịu trách nhiệm chung điều hành
toàn bộ hoạt động của lớp, có nhiệm vụ phân công, giao nhiệm vụ và đôn đốc
cho các phó chủ tịch, các trưởng ban sau mỗi giờ học sau đó sẽ báo cáo đầy đủ
tình hình cho cô giáo. Các phó chủ tịch phụ trách việc theo dõi, đôn đốc giúp đỡ
các bạn thực hiện các nhiệm vụ được phân công phụ trách. Ví dụ: Nếu phụ trách
về học tập thì hàng ngày cùng với ban học tập kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng
học tập, việc học tập của các thành viên trong lớp. Các trưởng ban (Ban học tập,
ban văn nghệ, ban thư viện, ban sức khỏe...) có chức năng giao nhiệm vụ, theo
dõi, hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên trong ban thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh
giá kết quả các hoạt động liên quan. Đã có không ít những tình huống dở khóc
dở cười diễn ra: nào là chủ tịch, phó chủ tịch nhầm nhiệm vụ của các ban, các
ban lại làm nhiệm vụ của Phó chủ tịch, có em lại không thích chức danh này
thích chức danh khác,... nhưng với quyết tâm phải xây dựng cho bằng được Hội
đồng tự quản lớp cuối cùng Hội đồng tự quản lớp tôi cũng đã đi vào hoạt động
và hoạt động khá hiệu quả và đã trở thành cánh tay đắc lực cho tôi trong việc ổn
định các nề nếp, điều hành một số hoạt động.
2.2.4. Xây dựng nề nếp lớp
Đây là công tác đóng vai trò quan trọng, có thể quyết định đến chất lượng
học tập và phong trào của lớp vì lớp học có trật tự, kỷ luật, có nề nếp tốt thì học
sinh mới tiếp thu bài tốt được. Để đạt được điều này tôi đã thực hiện như sau:
- Ngay từ buổi đầu nhận lớp, tôi cho các em học sinh tìm hiểu về “Nội quy
học sinh”, “Năm điều Bác Hồ dạy” vì các em học sinh lớp Một chưa biết đọc
nên tôi dạy các em đọc theo lối truyền khẩu, sau đó giải thích cho các em hiểu
từng ý, từng điều.
13



- Đưa ra những yêu cầu thi đua cụ thể giữa các tổ, các cá nhân để các em
cùng thi đua, phấn đấu. Hàng tuần có tổng kết rút kinh nghiệm và khen thưởng
cho các em thực hiện tốt.
- Cùng với các em học sinh lớp xây dựng cây nội quy để cả lớp cùng nhau
thực hiện tốt các nội quy mà lớp đã đề ra.
- Luôn đề cao vai trò của Hội đồng tự quản vì các em này chính là những
thầy cô giáo nhỏ của lớp.
2.2.5. Xây dựng nề nếp học tập
2.2.5.1. Nề nếp học tập trên lớp
Khi bắt đầu cắp sách đến trường, hầu hết các em học sinh đều chưa có ý
thức về nề nếp trong học tập. Mọi môn học đối với các em là hoàn toàn mới mẻ,
khác hẳn với lớp mẫu giáo, gây nhiều lúng túng cho các em trong mỗi giờ học.
Đến lớp các em được rèn nhiều kỹ năng như nghe, nói, đọc, viết. Tất cả
các kỹ năng đó được rèn luyện thường xuyên sẽ trở thành thói quen, thành nề
nếp trong học tập.
Ví dụ: Trong giờ học vần khi nào học sinh đánh vần, đọc trơn, phân tích
tiếng hay luyện viết, luyện nói đều theo hiệu lệnh của giáo viên
- Khi đánh vần giáo viên chỉ thước theo chiều thẳng đứng.
- Khi đọc trơn giáo viên để thước nằm ngang chân chữ.
- Khi phân tích vần, tiếng giáo viên khoanh tròn vần hoặc tiếng cần phân
tích.
Tất cả những việc ấy cần có một nề nếp tốt nếu không sẽ ảnh hưởng tới
chất lượng của một giờ học.
Trên thực tế khi đi học vẫn còn có nhiều em quên mang sách vở, đồ dùng
học tập... vì vậy các em không thể hoạt động học tập cùng bạn làm ảnh hưởng
đến không khí học tập của cả lớp. Do đó việc hình thành nề nếp học tập, tạo thói
quen cho học sinh giờ nào việc nấy là việc làm cần thiết không thể thiếu được.
Trong những giờ học ở lớp, để đảm bảo không khí “học mà vui, vui mà
học” tôi rất chú trọng hướng dẫn học sinh các nề nếp: giơ tay phát biểu, chú ý

nghe giảng hay ý thức tham gia trò chơi học tập v.v...

14


Xây dựng nề nếp đưa bảng con

Nề nếp ngồi viết, đưa bút báo hiệu đã hoàn thành bài

Để dạy một tiết học đủ thời gian 35 – 40 phút có chất lượng và đảm bảo
được không khí học tập của cả lớp thì phải đưa các em vào nề nếp học tập ngay
từ đầu năm học là điều vô cùng cần thiết.
2.2.5.2. Rèn nề nếp chuẩn bị ở nhà
Rèn nề nếp học tập ở nhà là một phần rất quan trọng trong vấn đề hình
thành nề nếp học tập cho học sinh lớp một.
15


Hiện nay, tuy học sinh lớp một đã được học 2 buổi/ngày, toàn bộ bài vở
các em đã được hướng dẫn và làm hết trên lớp nhưng vẫn cần rèn cho các em có
nề nếp buổi tối về nhà biết ngồi vào góc học tập của mình để xem lại phần bài
vừa học trong ngày và cùng với sự hướng dẫn của bố mẹ, tự soạn sách vở và đồ
dùng học tập cho ngày hôm sau.
Hàng ngày thực hiện đều đặn như vậy đồng thời với việc trong giờ truy bài
đầu giờ các cán bộ lớp sẽ kiểm tra sự chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập của
từng bạn để báo cáo với cô giáo kịp thời nhắc nhở những bạn còn vi phạm. Lâu
dần sẽ hình thành cho các em có nề nếp thói quen học tập ở nhà, biết tự ngồi vào
bàn học mỗi buổi tối mà không cần phải có sự nhắc nhở của bố mẹ. Và đây cũng
là một nề nếp rất cần thiết cho các em khi đã học lên các lớp trên.
Để thực hiện tốt nề nếp này, ngay từ đầu năm học ở tuần lễ đầu tiên tôi đã

phát cho mỗi em một thời khóa biểu, hướng dẫn các em mang về dán vào góc
học tập. Đồng thời trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi yêu cầu phụ huynh
phối hợp với tôi trong việc hướng dẫn các em chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập
cho ngày hôm sau. Để học sinh không quên việc chuẩn bị sách vở cho ngày hôm
sau, bao giờ cuối mỗi tiết học tôi cũng yêu cầu các em về nhà xem lại bài vừa
học, sau đó chuẩn bị sách vở cho ngày hôm sau (cùng với sự giúp đỡ của bố mẹ
vì các em chưa biết đọc chữ). Khi đến lớp, qua sự kiểm tra của các bạn trong
Hội đồng tự quản về việc chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập, tôi nắm được cụ
thể việc chuẩn bị hàng ngày của từng em. Với các biện pháp vừa nêu trên kết
quả học sinh lớp tôi đã thực hiện rất tốt việc mang đầy đủ sách vở, đồ dùng học
tập khi đến lớp.
2.2.5.3. Rèn nề nếp giữ gìn sách vở đồ dùng học tập
Rèn nếp giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập cũng là một trong những công
việc quan trọng trong việc dạy dỗ các em.
Đối với các em lớp một, đa số các em chưa thực sự có ý thức trong việc
giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập. Nhiều quyển sách đã được bố mẹ bao bìa
cẩn thận nhưng qua tay các em chúng đã bị bong bìa, rách trang, quăn mép... Đồ
dùng học tập tuy có nhưng vì chưa cẩn thận nên hay bị hỏng hoặc mất...
Ngay trong từng tiết học nề nếp học tập cũng ảnh hưởng tới việc giữ gìn
sách vở đồ dùng học tập, cụ thể là học sinh cần có đầy đủ sách vở đồ dùng học
16


tập của từng môn, thực hiện giờ nào việc nấy theo hướng dẫn của giáo viên, có
nếp khi sử dụng sách vở, cách giơ tay phát biểu, cách đặt tay khi viết để sách vở
không bị quăn mép...
Như vậy, học sinh có giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập tốt thì mới luôn
có đủ sách vở và đồ dùng học tập phục vụ cho tiết học. Ngược lại có nề nếp học
tập trong mỗi tiết học cũng giúp học sinh có ý thức và thói quen trong việc giữ
gìn sách vở và đồ dùng học tập.

Thực tế cho thấy, học sinh lớp một ở độ tuổi lên 6, các em còn non nớt, lần
đầu tiên cắp sách đến trưởng còn nhiều bỡ ngỡ. Hơn nữa đa số các em được bố
mẹ chiều chuộng: bế hoặc dẫn vào tận chỗ ngồi, dỗ dành con vào lớp,... Các em
chưa có tính tự lập trong học tập việc đi học phụ thuộc vào bố mẹ. Ví dụ: Bố mẹ
soạn đồ dùng sách vở, thậm chí còn làm hộ con những việc mà thầy cô giao cho
các em. Còn những gia đình không quan tâm thì sách vở, đồ dùng học tập của
các em luôn thiếu. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng học tập ở trên lớp, kết
quả kém, đồng thời còn làm nề nếp không khí học tập của lớp cũng lộn xộn... Từ
những cơ sở thực tế và những vấn đề cần thiết đã nêu để xây dựng cho học sinh
lớp có nề nếp học tập tốt, tôi nhận thấy giáo viên phải kết hợp chặt chẽ với cha
mẹ học sinh kiên trì và thường xuyên uốn nắn, nghiêm túc để các em thực hiện
tốt các nề nếp đã đưa ra. Từ đầu năm học, trong từng môn học tôi hướng dẫn kĩ
càng về sách vở, đồ dùng học tập cho từng môn. Các em có thể nhận biết các
loại sách vở qua bìa sách và nội dung học của từng ngày. Dùng que tính nhựa
kẹp vào ngay trang vừa học để tránh lật nhiều quăn mép sách và đỡ mất thời
gian; cầm sách đúng cách để không bị bẻ gáy... Đồ dùng học tập của các em tôi
yêu cầu ở học kì I, mỗi em có 2 bút chì đã gọt đầu, tẩy, thước kẻ sang giữa học
kỳ I có thêm 2 cây bút mực, giấy thấm hoặc khăn lau bút. Hướng dẫn thật kỹ
cách sử dụng bút khi viết, không được ấn mạnh sẽ gãy ngòi (bút chì), tòe ngòi
(bút mực) hoặc sẽ rách vở, không tỳ tay làm quăn mép vở.
2.2.6. Quản lý lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực
Để quản lý và giáo dục học sinh trong giờ học chính khóa, giáo viên chủ
nhiệm lớp có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp giáo
dục kỷ luật tích cực. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người quản lý giáo dục học sinh
17


toàn diện một lớp, là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý
của hiệu Trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm
lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế

hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của học sinh. Vì vậy giáo viên chủ
nhiệm lớp phải biết phối hợp với các giáo viên bộ môn quản lý học sinh trong
học tập, lao động. Giáo viên chủ nhiệm lớp cũng là người phối hợp với các tổ
chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác dạy học – giáo dục
học sinh trong lớp mình phụ trách.
Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm lớp cần phải kết hợp nhiều phương
pháp giáo dục mà trong đó biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong các giờ học
chính khóa là hết sức cần thiết.
Giáo dục kỷ luật tích cực là giáo dục kỷ luật dựa trên nguyên tắc vì lợi ích
tốt nhất của học sinh, không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần học sinh,
có sự thỏa thuận giữa giáo viên và học sinh , phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
từng học sinh.
Trong thực tế có nhiều biện pháp giáo dục kỷ luật đối với học sinh tại các
giờ học chính khóa. Những biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực tôi đã áp dụng
trong lớp học đó là:
- Thay đổi cách cư xử trong lớp học, tạo ra sự tương tác tích cực giữa thầy
và trò trong các giờ học chính khóa, làm cho học sinh tiếp thu bài một cách thoải
mái nhất.
- Quan tâm đến những khó khăn của học sinh trong giờ học. Đó có thể là
khó khăn về tiếp thu bài, về cách trả lời câu hỏi của giáo viên, về mức độ viết
bài mà giáo viên yêu cầu, về tốc độ làm bài tập tại lớp.v.v...
- Tăng cường sự tham gia của học sinh trong việc xây dựng nội dung bài
học. Đây là biện pháp rất có hiệu quả nhằm động viên, khuyến khích học sinh
học tập. Vì thế, tôi vận dụng nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác nhau để
thu hút học sinh tham gia vào bài học mới một cách sôi nổi và hào hứng.
- Tổ chức các hoạt động học tập đa dạng vì nếu giờ học diễn ra với các
hình thức học tập khác nhau sẽ tạo được bầu không khí thoải mái, kích thích ý
thức học tập của học sinh.
* Thay đổi cách cư xử trong lớp học
18



- Thay đổi cách cư xử là dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu
gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy học sinh có thái độ cư xử, hành vi đúng đắn
trong quá trình học tập trên lớp. Muốn thay đổi cách cư xử trong lớp học chúng
ta cần:
* Đối với bản thân giáo viên:
+ Quan tâm chăm sóc bản thân mình.
+ Thường xuyên ghi chép nhật ký để nhìn nhận, đánh giá các vấn đề đã
được thực hiện trong quá trình thay đổi các biện pháp giáo dục kỷ luật mà mình
đã áp dụng trong các giờ học chính khóa.
* Đối với lớp học:
+ Xây dựng các quy tắc và nội quy học tập rõ ràng, nhất quán nhằm thống
nhất trong tập thể lớp cách học trong các giờ học chính khóa.
+ Học sinh phải hiểu được cách cư xử của mình là chưa đúng trong giờ
học để từ đó tự mình tìm cách khắc phục.
+ Không sử dụng các hình phạt mang tính bạo lực trong giờ học.
+ Phải công bằng, khoan dung, tránh gây căng thẳng làm ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học mới của các thành viên trong lớp.
+ Không đơn điệu và máy móc trong mọi trường hợp vi phạm quy tắc và
nội quy lớp học.
+ Không phạt học sinh vì những lỗi do ngoại cảnh khách quan tác động
làm ảnh hưởng đến quá trình dạy và học của cả thầy lẫn trò.
* Quan tâm đến những khó khăn của học sinh trong học tập
- Giáo viên lớp hiểu được những trở ngại trong học tập và những khó khăn
trong đời sống của học sinh khiến học sinh có cách cư xử chưa đúng trong giờ
học và có cách thức ứng xử, giúp đỡ các em khắc phục.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp tìm hiểu nhưng trở ngại trong học tập và những
khó khăn về hoàn cảnh gia đình, những tổn thương về sức khỏe, tâm lí do bị
hiểu nhầm, bị đánh đập, bị lạm dụng... để chia sẻ và giúp các em tháo gỡ sẽ giúp

họ không cần dùng đến sức mạnh mà vẫn giáo dục học sinh có kết quả. Để tìm
hiểu nguyên nhân và trợ giúp học sinh giải quyết những khó khăn cần lưu ý một
số điểm sau:
+ Tránh đối đầu với học sinh.
+ Lắng nghe và chú ý xem xét vấn đề từ phía học sinh, biều lộ sự cảm
thông.
+ Cần tránh “lên lớp” hoặc đưa ra những từ chỉ trích.
+ Cần giúp các em hiểu rõ vấn đề và tìm ra những giải pháp phù hợp.
19


* Tăng cường sự tham gia của học sinh trong việc xây dựng nội dung bài
học.
Giáo viên chủ nhiệm lớp hiểu đươc thế nào là sự tham gia của học sinh.
Xác định được lợi ích sự tham gia của học sinh trong việc xây dựng nội dung bài
học.
- Sự tham gia của học sinh trong các giờ học chính khóa là các em được
cung cấp thông tin, bày tỏ ý kiến, tranh luận, nêu thắc mắc, được trình bày
những sáng kiến học tập của bản thân v.v..
- Ý kiến của học sinh được giáo viên lắng nghe và tôn trọng, cùng nhau
giải quyết nhằm làm cho học sinh tiếp thu bài học một cách tốt nhất.
* Để tăng cường sự tham gia của học sinh trong việc xây dựng nội dung
bài học, giáo viên nên chú ý:
+ Giáo viên nên tham khảo các tài liệu liên quan đến quyền trẻ em (Công
ước Quốc tế về Quyền trẻ em, Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, Luật
giáo dục...) để hiểu và có thể vận dụng một cách linh hoạt trong các giờ học
chính khóa nhằm đảm bảo quyền học tập của học sinh.
+ Khuyến khích học sinh mỗi khi các em có những ý hay, sáng kiến tốt
trong học tập.
Như vậy, có thể có nhiều biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong giờ học

chính khóa. Các biện pháp có sự tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Trong quá
trình áp dụng, tôi thường lựa chọn các biện pháp phù hợp với đối tượng học
sinh lớp mình để áp dụng.
2.2.7. Giáo dục đạo đức cho học sinh
Giáo dục đạo đức là một công việc mà bất kỳ giáo viên chủ nhiệm nào
cũng phải làm. Để làm tốt công tác này bản thân tôi đã:
- Ngay từ đầu năm học, sau khi tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh, phải
có sổ công tác giáo viên chủ nhiệm để lên kế hoạch, theo dõi diễn biến quá trình
học tập và rèn luyện của từng em, hàng tuần, hàng tháng có sơ kết, tổng kết đánh
giá rút ra những mặt ưu, tồn của từng thành viên mà có biện pháp khắc phục.
Quan trọng nhất là trong các tiết sinh hoạt tập thể cuối tuần, tôi cho lớp tự nhận
xét, đánh giá trong tuần, chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu của lớp. Nêu rõ những
cá nhân, tổ điển hình cụ thể sau đó phân tích những nguyên nhân, đánh giá
những mặt tốt, mặt chưa tốt cần khắc phục. Từ đó có cơ sở để tuyên dương
20


những học sinh chăm ngoan, nhắc nhở phê bình một cách tế nhị những học sinh
còn mắc khuyết điểm.
- Truyền thụ tri thức kết hợp bồi dưỡng niềm tin, xây dựng thế giới quan
nhân sinh cho các em. Trí dục và đức dục luôn gắn liền với nhau. Như vậy yêu
cầu giáo viên là một người giàu tri thức, phải có một uy tín tuyệt đối, một phẩm
chất đạo đức chuẩn mực, lòng nhẫn nại, độ lượng, đức hy sinh vị tha yêu lao
động, yêu trẻ phải là tấm gương mẫu mực để các em lắng nghe, theo dõi, ngắm
soi và bắt chước... Điều đó phải thể hiện trong mối quan hệ giữa giáo viên và
học sinh thông qua việc thăm hỏi gia đình học sinh, với đồng nghiệp, với công
việc thể hiên trong cách ăn mặc, đi đứng, nói năng...
- Khai thác triệt để các khả năng tiềm tàng của nội dung các môn học để
giáo dục đạo đức cho học sinh. Ví dụ: Thông qua dạy môn Tiếng Việt giáo dục
các em tình yêu quê hương, yêu trường lớp, yêu bạn bè, yêu thiên nhiên...

- Giáo dục đạo đức cho các em qua Hoạt động Đội Thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh, sao nhi... Trẻ em vốn tính ham chơi, say mê các trò chơi, vấn đề
chủ yếu trong các trò chơi là phải hướng học sinh thấy được cái hay, lẽ phải, cái
đúng, cái đẹp biết phê phán cái xấu, cái sai.
- Ngoài các hoạt động có tính thường xuyên như chào cờ hàng tuần, tổ
chức các phong trào thi đua... tôi đã xây dựng các hoạt động ngoài giờ lên lớp
theo chủ đề, chủ điểm. Nhờ đó khi tham gia các hoạt động, các em hòa mình
vào sự vận động chung của đất nước, cảm nhận được nhịp đập của đời sống
phong phú, sôi động của xã hội và khi đó sẽ tạo nên một quá trình giáo dục
thống nhất. Tổ chức các hoạt động nề nếp như: Nói lời hay, làm việc tốt, giúp đỡ
nhau trong phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, “Giúp nhau cùng tiến bộ”...
-Thưởng xuyên giữ mối liên hệ chặt chặt chẽ với gia đình học sinh và các
lực lượng xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh của lớp mình chủ
nhiệm.
2.2.8. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh
* Đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp
- Luôn kết hợp với cô giáo chủ nhiệm lớp theo dõi, động viên quá trình
học tập, sinh hoạt của học sinh.
21


- Quan tâm hỗ trợ các phong trào: Trang trí lớp, Vui Trung thu cùng các
em học sinh, phong trào 20/11,...
- Nắm rõ hoàn cảnh gia đình, địa chỉ của từng em để kịp thời thăm hỏi,
giúp đỡ.
- Có kế hoạch khen thưởng cho những học sinh có tiến bộ, tích cực tham
gia các phong trào,...
* Đối với từng phụ huynh học sinh
- Phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc rèn luyện các nề nếp.
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm qua trò chuyện trực tiếp,

điện thoại để kịp thời nắm bắt và thông báo tình hình học tập và rèn luyện của
con em mình.
2.2.9. Nêu gương, khen thưởng
Trẻ nhỏ rất thích được khen và học sinh lớp một cũng thế. Nắm được tâm
lý này của các em nên ngay từ đầu năm học tôi đã đề xuất với Ban đại diện cha
mẹ học sinh về việc các em học sinh trong lớp có tiến bộ trong học tập hay rèn
luyện hoặc đạt giải trong các phong trào thi đua:
- Mỗi tuần tặng 1 cây bút chì hay 1 cục tẩy cho học sinh đạt thành tích cao
nhất tổ.
- 1 hộp bút chì màu cho học sinh đạt giải trong 1 phong trào.
- 3 quyển vở cho học sinh học tập, rèn luyện có tiến bộ trong tháng.
Ngoài ra trong từng tiết học, tôi và các em học sinh trong lớp thường
xuyên có những tràng pháo tay khen tặng các bạn ngoan, tích cực trong học tập,
làm được việc tốt, nói được những lời hay, nhất là với những em học sinh tiếp
thu chậm, cá biệt mỗi khi các em có tiến bộ.
Qua các hình thức động viên, khen thưởng như trên tôi thấy học sinh lớp
tôi rất phấn khời và nỗ lực thi đua trong các hoạt động ở trường lớp.
3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
3.1. Thời gian áp dụng
Áp dụng những giải pháp tôi đã nêu ra ở trên cho học sinh lớp tôi vào
năm học 2015 - 2016 và từ đầu năm học 2016 - 2017 đến nay.
3.2. Hiệu quả đạt được
22


Sau quá trình áp dụng các giải pháp trên thì tình hình đạo đức và ý thức
học tập đạt được như sau:
CHĂM HỌC, NGOAN NGOÃN
Sĩ số
28


Số lượng
26

Tỉ lệ
92,8%

CHƯA CHĂM HỌC,
CHƯA NGOAN
Số lượng
Tỉ lệ
2
7,2%

Với kết quả đạt được như trên tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình
đã đạt được kết quả tốt. Đa số học sinh lớp tôi chủ nhiệm có ý thức tổ chức kỷ
luật cao. Biết phê bình và tự phê bình, thi đua học tập rất sôi nổi ngay trong từng
giờ học.
Đa số học sinh trong lớp đã có tinh thần tự giác, tự học cao. Các em mạnh
dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Các bạn trong Ban
tự quản, nhóm trưởng thực sự năng động hơn.
- Các em đã biết chuẩn bị đầy đủ bài vở đồ dùng học tập trước khi đến lớp
mà không cần có sự nhắc nhở của bó mẹ.
- Tích cực tham gia các cuộc thi, các phong trào của lớp, của trường.
- Các em có tinh thần đoàn kết giúp dỡ nhau trong học tập. Ý thức chấp
hành nội quy của trường tốt.
3.3. Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
Các giải pháp này có thể áp dụng cho tất cả học sinh Tiểu học nhất là đối
với học sinh lớp một.
3.4. Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp

Qua quá trình làm công tác chủ nhiệm, với những thành quả đã đạt được,
tôi rút ra được bài học như sau:
Người giáo viên phải nắm và am hiểu sự phát triển tâm sinh lý của học
sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. Mỗi con người đều có hoàn cảnh, có tâm
sự, có tình cảm, tính tình khác nhau cho nên việc am hiểu tất cả các em trong
một lớp và tìm biện pháp thích hợp cho từng em quả là không đơn giản.
Người giáo viên phải thật sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng, toàn vẹn
từ nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng
xử hàng ngày đây là cách giáo dục dựng nhân cách tác động đến nhân cách.

23


Giáo viên chủ nhiệm cần phải có lý tưởng nghề nghiệp đúng đắn, phải
thực sự am hiểu và nắm bắt sâu sát chủ trương đường lối giáo dục của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
Kế hoạch của giáo viên phải thể hiện nội dung và biện pháp cụ thể, kịp
thời.
Giáo dục học sinh không dùng lệnh một cách máy móc.
Tôn trọng ý kiến học sinh, tuyên dương động viên kịp thời, nêu gương
điển hình để các em tiến bộ hơn.
Phải thưởng phạt nghiêm minh, nội quy phải được các em tự xây dựng bên
cạnh những điều nhà trường đã quy định và luôn nắm vững thông tin hai chiều
về học sinh của mình để có biện pháp giáo dục đúng đắn.
Giáo viên phải không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, phải có tay
nghề cao, có lòng yêu nghề mến trẻ, xem học sinh như con em của mình cùng
chia sẻ những khó khăn trong học tập của các em, từ đó giúp các em ngoan hơn,
học giỏi hơn.
Tóm lại, để làm tốt công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
không chỉ là người giáo viên dạy giỏi về văn hóa mà còn phải quan tâm đến sự

phát triển ở học sinh về các giá trị đạo đức, thẩm mĩ, thể chất... Do vậy theo tôi
hai cái cốt lõi không thể thiếu ở người giáo viên chủ nhiệm lớp đó là “cái tài”
của một nhà tâm lý và “cái tâm” của một nhà giáo dục. Khi kết hợp nhuần
nhuyễn, hòa quyện hai yếu tố này thì người giáo viên nói chung, người giáo
viên chủ nhiệm nói riêng đã có thể làm tốt chức trách của mình trong thời đại
mới ngày nay và hơn thế làm thăng hoa nhân cách của mình trong lòng bao thế
hệ đồng nghiệp và học trò yêu dấu.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ những kinh nghiệm thực tế trong công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy học
sinh tôi đã có nhiều chuyển biến tốt. Tuy nhiên vẫn còn một vài em cũng chưa
khắc phục hết nhưng sai sót, nhưng chất lượng các môn học đạt kết quả cao hơn
so với đầu năm, tỉ lệ học sinh chậm giảm. Để giúp cho công tác chủ nhiệm tốt
đòi hỏi người giáo viên không những học hỏi về kiến thức chuyên môn, tổ chức
cho các em hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể, rèn luyện kĩ năng sống
ch các em... mà còn phải giỏi về công tác chủ nhiệm. Công tác chủ nhiệm tốt là
24


nền tảng là động cơ thúc đẩy cho mọi hoạt động dạy và học đạt được chất lượng
cao, có như vậy mới góp phần bồi dưỡng và đào tạo thế hệ ttrẻ trở thành những
người công dân có ích cho nước nhà.
4.2. Đề xuất, khuyến nghị
4.2.1. Đối với nhà trường
- Có tiêu chí đánh giá riêng cho giáo viên làm công tác chủ nhiệm và cần
linh hoạt khi đưa kết quả của lớp chủ nhiệm vào xét thi đua của giáo viên.
- Tổ chức các hội thảo, các chuyên đề về công tác chủ nhiệm để giáo viên
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
4.2.2. Đối với giáo viên
- Phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo về mọi mặt.

- Không ngừng nâng cao tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ của Đảng ta về đổi mới căn bản, toàn diện về
giáo dục đào tạo và thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua.
- Cần có năng lực sư phạm như năng lực giao tiếp, năng lực cảm hóa,
thuyết phục, xây dựng uy tín, năng lực sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy
học; năng lực sử dụng ngôn ngữ, giải quyết các tình huống sư phạm...
4.2.3. Đối với phụ huynh
- Không coi việc giáo dục con em là việc riêng của giáo viên.
- Luôn quan tâm phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để nắm rõ tình hình
học tập và rèn luyện của các em.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút được sau nhiều năm làm
công tác chủ nhiệm lớp. Rất mong được sự góp ý của hội đồng các cấp và các
anh chị đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Bà Rịa Vũng Tàu, ngày 6 tháng 1 năm 2017
Người viết
Lê Thị Đào Nguyên

25


×