Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

sử dụng các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối để phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.13 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
---------------------------------

TIỂU LUẬN
SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI
HỐI ĐỂ PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

1


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới các giao dịch tài chính phái sinh nói chung và
giao dịch ngoại hối phái sinh nói riêng không còn xa lạ đối với các
chủ thể tham gia thị trường, mà còn được coi là “một ngành công
nghiệp”. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối phái sinh vừa
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, vừa phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho
chính mình và đầu cơ kiếm lời. Do đó, thị trường ngoại hối phái sinh
toàn cầu phát triển cả về quy mô giao dịch, chủ thể tham gia, sản
phẩm ngoại hối phái sinh truyền thống và sản phẩm phái sinh ngoại
lai.
2


Tại Việt Nam hiện nay thị trường ngoại hối phái sinh ngày càng hoàn
thiện và phát triển mạnh mẽ hơn. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của các công cụ ngoại hối phái sinh ngoại hối đối với
doanh nghiệp là phòng vệ rủi ro tỷ giá hối đoái khi mà rủi ro trong


môi trường xuất nhập khẩu ngày càng phức tạp hơn.Tuy nhiên, ở
Việt Nam các nghiệp vụ này chỉ mới xuất hiện trong những năm gần
đây và mới chỉ được áp dụng ở một số ngân hàng thương mại lớn.
Do vậy, để có thể tìm hiểu sâu hơn việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá trên
thế giới, từ đó góp phần vào việc phòng ngừa rủi ro cho các doanh
nghiệp Việt Nam, em xin lựa chọn nghiên cứu đề tài: “SỬ DỤNG
CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI ĐỂ
PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT
NHẬP KHẨU VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
Do khả năng còn nhiều hạn chế nên tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất
mong nhận được sự góp ý của cô. Xin cảm ơn cô Mai Thu Hiền đã gợi ý đề tài và
cung cấp kiến thức giúp em hoàn thành tiểu luận này.

Chữ viết tắt:
CCPSTT
XK
NK
NHTM

Công cụ phái sinh
tiền tệ
Xuất khẩu
Nhập khẩu
3


NHNN
XNK
HD
DN

VN

Ngân hàng thương
mại
Ngân hàng nhà nước
Xuất nhập khẩu
Hợp đồng
Doanh nghiệp
Việt Nam

I. Tổng quan về các công cụ ngoại hối phái sinh trên thị
trường ngoại hối
Trên thị trường ngoại hối có 5 nghiệp vụ kinh doanh phổ biến là :
giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, tương lai và quyền chọn, trong đó,
nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ gốc, còn các nghiệp vụ khác là
4


phái sinh, tức được bắt nguồn từ nghiệp vụ giao ngay. Nghiệp vụ
giao ngay được gọi là nghiệp vụ gốc bởi vì tỷ giá áp dụng cho các
hợp đồng giao ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu
trên thị trường, trong khi đó, 4 nghiệp vụ phái sinh còn lại áp dụng tỷ
giá không được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị
trường, mà được bắt nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi
suất giữa hai đồng tiền. Sau đây, chúng ta đi vào nghiên cứu cụ thể
từng loại hợp đồng ngoại hối phái sinh đó.
1. Hợp đồng ngoại hối kỳ hạn.
1.1. Khái niệm
Hợp đồng ngoại hối kỳ hạn là hợp đồng trong đó hai bên cam kết sẽ
mua bán một lượng ngoại tệ theo một mức tỷ giá xác định tại ngày

kí hợp đồng và việc thanh toán sẽ được thực hiện trong tương lai.
1.2. Đặc điểm hợp đồng kỳ hạn
- Tỷ giá được áp dụng trong hợp đồng này là tỷ giá kỳ hạn, bao gồm
tỷ giá kỳ hạn mua vào và tỷ giá kỳ hạn bán ra. Tỷ giá kỳ hạn này
được tính dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay của hợp đồng.
- Chủ thể tham gia vào hợp đồng kỳ hạn:
Các hợp đồng kỳ hạn được ký kết và giao dịch giữa các ngân hàng
và khách hàng, hay giữa hai ngân hàng với nhau. Giao dịch kỳ hạn
không diễn ra trên sở giao dịch, mà giống như giao dịch giao ngay,
đây là thị trường phi tập trung của các ngân hàng và của các nhà
môi giới được liên kết với nhau bằng điện thoại, telex, vi tính và hệ
thống SWIFT.
1.3. Ứng dụng của hợp đồng kỳ hạn trong bảo hiểm, phòng
ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
1.3.1.Bảo hiểm khoản thanh toán NK(Nhập khẩu)
Nhà NK thường được yêu cầu thanh toán bằng ngoại tệ cho các nhà
XK nước ngoài, vì thế các nhà NK phải đối mặt với rủi ro tỷ giá khi có
sự biến động lên hoặc xuống, trong đó nếu tỷ giá tăng sẽ làm cho
chi phí mua ngoại tệ của nhà NK tăng và ngược lại.
Sau đây là phương thức bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho khoản thanh toán
của nhà NK bằng hợp đồng kỳ hạn:
Nhà NK sẽ mua lượng ngoại tệ M sau thời gian t kể từ ngày hôm
nay, theo tỷ giá
thị trường nh sau:
5




tỷ giá giao ngay: S(y/x)




tỷ giá kỳ hạn t : F(y/x)

Trong đó, ta quy ước: x là đồng tiền định giá- nội tệ
y là đồng tiền yết giá- ngoại tệ
Để có thể so sánh được hiệu quả của việc áp dụng kỳ hạn trong
phòng ngừa các rủi ro về tỷ giá, ta xét trường hợp nhà NK không tiến
hành phương thức bảo hiểm cho khoản chi phí mua hàng bằng ngoại
tệ của mình, vì vậy:
Doanh nghiệp NK sẽ mua y theo tỷ giá S(y/x), chi phí bằng x để mua
y sẽ phụ thuộc vào tỷ giá spot của y/x sau thời gian t. do đó, gọi
S*(y/x) là tỷ giá giao ngay sau t, ta có chi phí nhà NK phải bỏ ra như
sau:
M. s
u (unhedged) : không bảo hiểm ; h (hedged): có bảo hiểm
nếu tỷ giá giao ngay sau thời gian t tăng thì chi phí nhà NK sẽ tăng
và ngược lại.
 Trường hợp nhà NK có bảo hiểm rủi ro tỷ giábằng cách:

Ký hợp đồng kỳ hạn mua M sau thời gian t, tại tỷ giá f(y/x), thì chi
phí nhà NK phải bỏ ra là:
M.f
Do sử dụng hợp đồng kỳ hạn, nhà NK có thể chắc chắn về chi phí
mình phải bỏ ra để có thể mua được M ngoại tệ sau thời gian t, chi
phí này luôn là số cố định cho dù tỷ giá sau đó có thay đổi thế nào.
Vì vậy, nhà NK có thể loại trừ được rủi ro do biến động tỷ giá.
 So sánh hai cách thức trên:



Nếu s* < f thì chiến lược bảo hiểm có chi phí cao hơn chiến
lược không có bảo hiểm.



Nếu s* > f thì chiến lược bảo hiểm có chi phí thấp hơn.



Nếu s* = f thì hai chiến lược có kết quả như nhau.

- Nhà NK có thể tùy thuộc vào dự đoán của mình về tỷ giá để có thể
tiến hành bảo hiểm toàn bộ hoặc từng phần giá trị cần thanh toán.
1.3.2. Bảo hiểm khoản thu XK(xuất khẩu)

6


Tương tù như trường hợp của nhà NK khi phát sinh khoản ngoại tệ
phải thanh toán, nhà XK sẽ phải đối mặt với rủi ro tỷ giá khi có
khoản thu XK bằng ngoại tệ. nếu ngoại tệ lên giá sẽ phát sinh lãi,
còn giảm sẽ phát sinh lỗ. do vậy, nhà XK cũng cần tiến hành bảo
hiểm rủi ro tỷ giá để đảm bảo chắc chắn cho khoản thu nhập bằng
nội tệ của mình bằng hợp đồng kỳ hạn.
Nhà XK sẽ bán lượng ngoại tệ M sau thời gian t kể từ ngày hôm nay,
theo tỷ giá thị trường như sau:


tỷ giá giao ngay: s(y/x)




tỷ giá kỳ hạn t : f(y/x)

Trong đó, ta quy ước: x là đồng tiền định giá- nội tệ
y là đồng tiền yết giá- ngoại tệ
- Xét trường hợp nhà XK không bảo hiểm rủi ro tỷ giá:
Như vậy, thu nhập của nhà XK sẽ phụ thuộc vào tỷ giá s(y/x) sau
thời gian t. Gọi s*(y/x) là tỷ giá giao ngay sau t, ta có thu nhập nhà
XK sẽ thu được như sau:
M. s*
u (unhedged) : không bảo hiểm ; h (hedged): có bảo hiểm
nếu tỷ giá giao ngay sau thời gian t tăng thì thu nhập nhà XK sẽ
tăng và ngược lại.
- Trường hợp nhà XK có bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng cách:
Ký Hợp đồng kỳ hạn bán M sau thời gian t, tại tỷ giá f(y/x), thì thu
nhập nhà XK thu được là:
M.f
Do sử dụng hợp đồng kỳ hạn, nhà XK có thể hoàn toàn chắc chắn về
khoản thu nhập của mình khi bán m ngoại tệ sau thời gian t, thu
nhập này luôn là số cố định cho dù tỷ giá sau đó có thay đổi thế nào.
Vì vậy, nhà XK có thể loại trừ được rủi ro do biến động tỷ giá.
Sau đây là so sánh hiệu quả của hai cách thức trên:


Nếu s* < f thì chiến lược bảo hiểm có thu nhập cao hơn
chiến lược không có bảo hiểm.




Nếu s* > f thì chiến lược bảo hiểm có thu nhập thấp hơn.



Nếu s* = f thì hai chiến lược có kết quả nh nhau.
7


- Cũng như nhà NK, nhà XK có thể tùy thuộc vào dự đoán của mình
về tỷ giá để có thể tiến hành bảo hiểm toàn bộ hoặc từng phần giá
trị cần thanh toán.
2. Hợp đồng tiền tệ tương lai
2.1. Khái niệm
Hợp đồng tiền tệ tương lai là một thỏa thuận về việc mua bán một
số lượng ngoại tệ đã biết tại một mức tỷ giá cố định trong tương lai.
Nói cách khác, tỷ giá được ấn định trước khi kí kết hợp đồng, nhưng
việc chuyển giao ngoại tệ và thanh toán được thực hiện tại một thời
điểm trong tương lai được xác định bởi sở giao dịch.
2.2 Đặc điểm hợp đồng tương lai
- Hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hóa ( standardized) và
giao dịch trên sàn giao dịch của Sở giao dịch tiền tệ tương
lai:
Nghiệp vụ này tương đối giống nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn ở chỗ
ngày giao hàng và thanh toán diễn ra sau ngày cam kết giao dịch, tỷ
giá được áp dụng khác tỷ giá giao ngay. Tuy nhiên hợp đồng tương
lai lại là những quy định đã được tiêu chuẩn hoá của từng thị trường
về loại ngoại tệ và đơn vị ngoại tệ kinh doanh, ngày giá trị, ngày
giao dịch, ngày giao dịch cuối cùng…
Các công ty, các cá nhân và cả các ngân hàng tạo thị trường gửi các

lệnh đặt mua hay đặt bán một số lượng cố định ngoại hối cho các
nhà môi giới hay thành viên của sở giao dịch. Trên sở giao dịch, các
lệnh đặt mua hay còn gọi là trạng thái trường (long positions) được
đối chiếu với các lệnh bán, hay còn gọi là trạng thái đoản (short
positions). Sau khi được khớp với nhau, việc mua bán ngoại tệ được
thực hiện qua trung tâm thanh toán bù trừ (Clearing House).
- Kí quỹ ( margin) và “ ghi điểm thị trường” (mark to
market): Người tham gia giao dịch phải đặt trước một khoản tiền
với trung tâm thanh toán bù trừ thông qua Ngân hàng, khoản đặt
cọc này gọi là tiền ký quỹ ban đầu (Initial Margin), có thể bằng
tiền mặt hoặc trái phiếu kho bạc hay chứng từ có giá khác, được quy
định từng hạng mức với từng loại và đơn vị tiền tệ kinh doanh . Nếu
một trong hai bên không thực hiện hợp đồng thì khoản tiền này được
dùng để bù đắp thiệt hại cho bên kia.
Cụ thể hơn, khoản kí quỹ ban đầu thường bằng 4% giá trị hợp đồng.
Khoản ký quỹ này được duy trì trên tài khoản mở tại sở giao dịch để
đảm bảo khả năng thanh toán cho các bên cuối mỗi ngày. Khi khoản
8


tiền ký quỹ giảm xuống dưới mức quy định (thông thường là 75%
mức ký quỹ ban đầu) thì những người nắm giữ hợp đồng tương lai
phải nộp bổ sung, nếu không thì sở giao dịch sẽ tự động thanh lý
hợp đồng. Mức quy định này được gọi là “hạn mức duy trì tài
khoản” (maintenance margin). Thông thường việc bù đắp hợp đồng
được thực hiện rất nhanh, đơn giản là bán hay mua một hợp đồng có
cùng số lượng trong tháng đó. Như vậy hợp đồng tương lai đã góp
phần hạn chế bớt rủi ro mất khả năng thanh toán của các bên.
Đây cũng là điểm khác biệt rõ nét giữa hợp đồng tương lai và hợp
đồng kỳ hạn, bởi vì đối với hợp đồng kỳ hạn thì mọi khoản lỗ hay lãi

chỉ được thực hiện một lần tại thời điểm hợp đồng đáo hạn, trong khi
đó khoản ký quỹ của người nắm giữ hợp đồng tương lai lại được điều
chỉnh hàng ngày theo quy tắc “ ghi điểm thị trường” (mark to
market).
2.3. Ứng dụng của hợp đồng tương lai trong bảo hiểm,
phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp xuất nhập
khẩu:
Tương tự như hợp đồng kì hạn, nhà XNK có thể linh hoạt về thời gian
thực hiện, kết thúc hợp đồng khi thấy có chiều hướng bất lợi/có lợi
đối với khoản thu nhập/chi phí của mình.
3. Hợp đồng hoán đổi ngoại hối
3.1 Khái niệm
Hợp đồng hoán đổi ngoại hối là một cam kết song phương về việc
đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định trong một
thời gian xác định với tỉ giá của 2 giao dịch được xác định tại thời
điểm kí kết hợp đồng, trong đó ngày giá trị mua vào và bán ra là
khác nhau.
3.2 Đặc điểm hợp đồng hoán đổi ngoại hối
Từ khái niệm cho thấy, hợp đồng hoán đổi có đặc điểm:
- Gồm 2 vế, mua vào và bán ra được ký kết ngày hôm nay nhưng
có ngày giá trị khác nhau.
- Nếu không có thỏa thuận khác thì khi nói mua một đồng tiền yết
giá có nghĩa là ngân hàng yết giá mua vào đồng tiền yết giá và bán
một đồng tiền có nghĩa là ngân hàng yết giá bán ra đồng tiền yết
giá.
- Số lượng mua vào và bán ra một đồng tiền là bằng nhau trong
cả 2 vế của hợp đồng hoán đổi.
9



3.3. Ứng dụng của Swap trong phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro
tỷ giá của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Swap có hai loại giao dịch chính như sau:


Spot- Forward



Forward- Forward

Tuy nhiên, loại Spot-Forward được sử dụng phổ biến hơn bởi có thể
kết hợp được các vế trong Swap một cách linh hoạt như: Mua SpotBán Forward hoặc Mua Forward- Bán spot.
Nhà XNK có thể sử dụng Swap để tuần hoàn trạng thái tiền tệ như
sau:
a.Trường hợp 1: Kéo dài trạng thái tiền tệ.
Trường hợp này được áp dụng khi:


Nhà XK ký hợp đồng bán ngoại tệ kỳ hạn t, nhưng chỉ nhận
được tiền XK sau thời gian là d ngày, dẫn đến trạng thái thiếu
hụt ngoại tệ.



Nhà NK ký hợp đồng kỳ hạn t mua ngoại tệ, nhưng đến hạn,
chưa phải thanh toán tiền đối tác nước ngoài, dẫn đến trạng
thái dư ngoại tệ và thiếu hụt nội tệ.

- Sau đây là phương thức giải quyết trạng thái thiếu hụt ngoại tệ của

nhà XK cũng như phòng ngừa được rủi ro do biến động tỷ giá:
Công ty XK ký hợp đồng kỳ hạn t bán M ngoại tệ cho ngân hàng
thương mại (NHTM) tại tỷ giá kỳ hạn f. Hợp đồng kỳ hạn đến hạn,
nhưng công ty chỉ nhận được tiền XK sau d ngày, với các thông số
thị trường như sau:


Tỷ giá giao ngay : s(y/x): a- b

( trong đó: a là tỷ giá mua vào, b là tỷ giá bán ra)


Tỷ giá hoán đổi d ngày: fw(y/x): c- e



Mức lãi suất d ngày của x : –

(trong đó : lãi suất tiền gửi; : lãi suất cho vay)


Mức lãi suất d ngày của y: :

_

(Trong đó : lãi suất tiền gửi; : lãi suất cho vay)


Tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch swap W: m – n
10





Tỷ giá giao ngay trung bình:

 Xử lý tình trạng dư thừa ngoại tệ của DNXK đề cập phía trên bằng

Swap:
Thời
điểm

Giao dịch

Hôm nay

Sau d
ngày

Luồng tiền
x

y

1.Hợp đồng kỳ hạnđến
hạn

+(f.M)

-M


2.Mua y giao ngay(swap)

-(.M)

+M

3.Đi gửi x phụ trội kỳ hạn
d ngày

-[f.M-.M)]=k

4.Luồng tiền ròng

0

0

5.Vế bán y kỳ hạn (swap)

+(M.m)

-M

6.Nhận y từ XK

Thông số
áp dụng
f


m

+M

7.Nhận gốc và lãi tiền gửi
x

+k(1+)=l

8.Luồng tiền ròng

M.m+ l

0

Nhận xét: Như vậy, tương tự như trên thị trường tiền tệ, doanh ngiệp
sẽ nhận được khoản tiền chắc chắn sau d ngày, không chịu rủi ro lãi
suất. Có thể thấy, doanh nghiệp XK đã có thể kéo dài được trạng thái
x và y bằng Swap một cách hoàn hảo.
 Đối với nhà NK: trong trường hợp dư ngoại tệ, thiếu nội tệ

trong d ngày.
 Xử lý bằng Swap:

Hôm nay:

Sau thời gian d:

1.nhận ngoại tệ do thanh lý HĐ


4.thanh toán HĐ forward (3)

2. bán spot ngoại tệ y.
3.mua forward ngoại tệ y.
Nhận xét: Trong trường hợp kéo dài trạng thái tiền tệ:
Doanh nghiệp sẽ nhận được khoản tiền sau d ngày một cách chắc
chắn và không chịu rủi ro tỷ giá và lãi suất

11


Tại thời điểm hôm nay, trạng thái luồng tiền luôn bằng 0 nên doanh
nghiệp không phải tất toán bất cứ hợp đồng nào với ngân hàng.
b.Trường hợp 2: Rút ngắn trạng thái tiền tệ:
- áp dụng đối với trường hợp:


Nhà NK ký Hợp đồng kỳ hạn t mua ngoại tệ, nhưng nhận được
ngoại tệ muộn d ngày khi đến hạn HĐ và phải thực hiện nghĩa
vụ thanh toán cho nhà XK nước ngoài, dẫn đến tình trạng
thiếu hụt ngoại tệ của nhà NK.



Nhà XK ký Hợp đồng kỳ hạn t bán ngoại tệ nhưng lại nhận
được tiền thanh toán XK sớm so với t là d ngày, dẫn đến tình
trạng dư thừa ngoại tệ, thiếu hụt nội tệ của nhà XK.

 Phương thức giải quyết vấn đề dư thừa của nhà XK và phòng


ngừa rủi ro tỷ giá:
Với những thông tin về thị trường tương tự như trên, nhưng trong
trường hợp này nhà XK sẽ nhận được trước số tiền NK thanh toán
bằng ngoại tệ trước d ngày, và lúc này nhà XK đang rất cần x để
mục đích chi tiêu.
 Xử lý bằng Swap:

Hôm nay:

Sau d:

1.Nhận ngoại tệ từ XK

3.Thanh lý Hợp đồng kỳ hạn cũ

2.Bán spot ngoại tệ

4.Mua forward ngoại tệ.

3.Chiết khấu dòng tiền từ (5).

5.Chiết khấu dòng tiền về (3).

Nhận xét: Việc rút ngắn trạng thái tiền tệ giúp cho DN:
- Nhận được sớm hơn thời gian d số tiền chắc chắn.
- Không chịu rủi ro tỷ giá và lãi suất.
- Tại thời điểm sau d, công ty không phải tất toán bất cứ HĐ nào (vì
luồng tiền bằng 0).
4. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ
Các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi và tương lai luôn phải được thanh lý,

có thể trước hoặc sau, hay tại một thời điểm hợp đồng đến hạn nên
nó cũng đánh mất cơ hội kinh doanh nếu như tỷ giá không biến động
thuận lợi. Để khắc phục nhược điểm này, hợp đồng quyền chọn ra
đời.
4.1. Khái niệm
12


Hợp đồng quyền chọn tiền tệ là một công cụ tài chính, cho phép
người mua hợp đồng có quyền (chứ không phải nghĩa vụ), mua hoặc
bán một đồng tiền này với một đồng tiền khác tại tỷ giá cố định đã
thoả thuận trước, trong một khoảng thời gian nhất định.
4.2 Đặc điểm
- Option tiền tệ bao gồm hai loại hợp đồng như sau:
+ Option mua : người mua hợp đồng có quyền mua một đồng tiền
nhất định.
+Option bán : người mua hợp đồng có quyền bán một đồng tiền
nhất định.
- Các bên tham gia Option: gồm có người mua quyền chọn và người
bán quyền chọn. Người mua trong Option phải trả phí cho người bán
trong bất cứ giao dịch nào của Option.
- Thực hiện quyền chọn và tỷ giá quyền chọn:
+ Người mua Option có quyền quyết định thực hiện hay không thực
hiện “quyền chọn” của mình. Khi người mua hợp đồng thực hiện
quyền chọn thì gọi là thực hiện quyền chọn (Exercise).
+ Tỷ giá cố định thỏa thuận từ trước áp dụng trong giao dịch
quyền chọn gọi là tỷ giá quyền chọn (Exercise price/Strike price).
+ Phí Option (Option Premium/Option Fee): là khoản tiền người
mua hợp đồng phải trả cho người bán. Nếu hợp đồng đáo hạn mà
giao dịch không xảy ra thì chỉ phát sinh phí quyền chọn mà người

mua trả cho người bán. Do đó, thu nhập của người bán bị giới hạn và
tối đa bằng khoản phí quyền chọn đã thu.
4.3. Ứng dụng của hợp đồng quyền chọn trong bảo hiểm,
phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp xuất nhập
khẩu
4.3.1. Phòng ngừa rủi ro đối với khoản phải trả
Để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với khoản phải trả doanh nghiệp có
thể thương lượng với ngân hàng mua quyền chọn mua. Khi ấy ngân
hàng, bên bán quyền, sẽ xem xét chào cho doanh nghiệp, bên mua
quyền, một quyền chọn mua có nội dung bao gồm :
-Trị giá quyền chọn (K), bằng hoặc tương đương trị giá khoản phải trả
-Tỷ giá thực hiện (E)

13


-Phí mua quyền bằng K.P trong đó P là phí mua quyền chọn tính trên
mỗi đồng ngoại tệ
-Kiểu quyền chọn (kiểu Âu hoặc Mỹ)
-Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T), bằng hoặc tương đương thời
hạn của khoản phải trả.
Tất cả những nội dung này của quyền chọn đã được hai bên thỏa
thuận trước. Ở thời điểm thỏa thuận, tỷ giá giao ngay trên thị trường
đã biết nhưng ở thời điểm đến hạn tỷ giá giao ngay trên thị trường
chưa biết. Nếu không sử dụng quyền chọn để ngừa rủi ro thì trị giá
quy ra nội tệ của khoản phải trả bằng V(Sb) = KSb = f(Sb) phụ thuộc
vào tỷ giá giao ngay lúc khoản phải trả đến hạn, trong đó K là trị giá
khoản phải trả và Sb là tỷ giá bán giao ngay ở thời điểm khoản phải
trả đến hạn. Nếu sử dụng quyền chọn mua để phòng ngừa rủi ro tỷ
giá thì trị giá khoản phải trả khi đến hạn là bao nhiêu còn tùy thuộc

vào quan hệ giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá thực hiện khi khoản phải
trả đến hạn. Mặc dù thời điểm đến hạn chưa xảy ra nhưng ở thời
điểm thỏa thuận, doanh nghiệp biết trước khi đến hạn có một trong
hai khả năng xảy ra :


Nếu Sb > E thì doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn mua. Khi ấy
giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = K.E = hằng số, bất
chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu. Cần lưu ý rằng
doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng K.P để mua
quyền chọn nên tổng chi phí quy ra nội tệ của khoản phải trả được
cố định ở mức K(E + P).
Nhờ vậy, rủi ro được kiểm soát.



Nếu Sb < E thì doanh nghiệp không thực hiện quyền chọn mua, mà
mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay để thanh toán khoản phải
trả. Khi ấy giá trị khoản phải trả quy ra nội tệ là V(Sb) = K.Sb. Cần
lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng
K.P để mua quyền chọn nên tổng chi phí quy ra nội tệ của khoản
phải trả bằng K(Sb + P)
P). Chi phí này chưa được cố định nhưng bị chận trên tối đa ở mức
K(E+P), nghĩa là K(Sb + P) < K(E + P), do Sb < E. Do đó, rủi ro tỷ giá
cũng được kiểm soát. Tương tự, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng
quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với khoản phải thu.
4.3.2. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với khoản phải thu
Để phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với khoản phải thu, doanh nghiệp có
thể thương lượng với ngân hàng mua quyền chọn bán. Khi ấy ngân
14



hàng, bên bán quyền, sẽ xem xét chào cho doanh nghiệp, bên mua
quyền, một quyền chọn bán có nội dung bao gồm
- Trị giá quyền chọn (K), bằng hoặc tương đương trị giá khoản phải
thu
- Tỷ giá thực hiện (E)
- Phí mua quyền bằng K.P trong đó P là phí mua quyền chọn tính
trên mỗi đồng ngoại tệ
- Kiểu quyền chọn (kiểu Âu hoặc Mỹ)
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T), bằng hoặc tương đương thời
hạn của khoản phải thu.
Tất cả những nội dung này của quyền chọn đã được hai bên thỏa
thuận trước. Ở thời điểm thỏa thuận, tỷ giá giao ngay trên thị trường
đã biết nhưng ở thời điểm khoản phải đến hạn tỷ giá giao ngay trên
thị trường chưa biết. Nếu không sử dụng quyền chọn để ngừa rủi ro
thì trị giá quy ra nội tệ của khoản phải thu bằng V(Sm) = KSm =
f(Sm) phụ thuộc vào tỷ giá giao ngay lúc khoản phải thu đến hạn,
trong đó K là trị giá khoản phải thu và Sm là tỷ giá mua giao ngay ở
thời điểm khoản phải thu đến hạn. Nếu sử dụng quyền chọn mua để
phòng ngừa rủi ro tỷ giá thì trị giá khoản phải thu khi đến hạn là bao
nhiêu còn tùy thuộc vào quan hệ giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá thực
hiện khi khoản phải thu đến hạn. Mặc dù thời điểm đến hạn chưa
xảy ra nhưng ở thời điểm thỏa thuận, doanh nghiệp biết trước khi
đến hạn có một trong hai khả năng xảy ra :
• Nếu Sm < E thì doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn bán. Khi ấy
giá trị của khoản phải thu quy ra nội tệ là V = K.E = hằng số, bất
chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu. Cần lưu ý rằng
doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng K.P để mua
quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải thu chỉ còn và

được cố định ở mức K(E
– P). Nhờ vậy, rủi ro tỷ giá được kiểm soát.
• Nếu Sm > E thì doanh nghiệp không thực hiện quyền chọn bán,
mà bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản phải
thu quy ra nội tệ là V(Sm) = K.Sm. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp
trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng K.P để mua quyền chọn
nên giá trị khoản phải thu quy ra nội tệ chỉ còn bằng K(Sm - P). Giá
trị này chưa được cố định nhưng bị chận dưới tối thiểu ở mức K(E P), nghĩa là K(Sm - P) > K(E - P), do Sm > E. Do đó, rủi ro tỷ giá cũng
được kiểm soát.
15


Tóm lại, thông qua hợp đồng quyền chọn, doanh nghiệp có thể kiểm
soát được rủi ro tỷ giá bằng cách giới hạn tối đa chi phí nội tệ đối với
khoản phải trả ở mức bằng trị giá khoản phải trả nhân với tỷ giá thực
hiện và công thêm chi phí mua quyền chọn mua và giới hạn tối thiểu
giá trị nội tệ của khoản phải thu ở mức bằng trị giá khoản phải thu
nhân với tỷ giá thực hiện và trừ đi chi phí mua quyền chọn bán.

II. Thực trạng sử dụng sản phẩm phái sinh bảo hiểm rủi
ro tỉ giá ở VN
1. Mức độ am hiểu của các doanh ngiệp XNK đối với sản
phẩm phái sinh

Theo kết quả biểu hiện trên, rõ ràng trong số các doanh nghiệp sử
dụng sản phẩm phái sinh, mức độ am hiểu về sản phẩm kỳ hạn là
cao nhất. Còn nếu so sánh giữa hai nhóm thì nhìn chung, nhóm sử
dụng sản phẩm phái sinh có độ am hiểu cao hơn so với nhóm không
sử dụng, đặc biệt là với sản phẩm kỳ hạn và hoán đổi. Hơn nữa ,
mức am hiểu trung bình của nhóm doanh nghiệp sử dụng sản phẩm

phái sinh đối với các sản phẩm này cao hơn nhóm doanh nghiệp
không sử dụng sản phẩm phái sinh. Tuy nhiên sự khác biệt chỉ từ
1% đến 10% cho từng loại sản phẩm.
Một điểm đáng chú ý là sự khác biệt giữa mức độ am hiểu trung bình
giữa hai nhóm doanh nghiệp đối với sản phẩm quyền chọn là khá
thấp, mức ý nghĩa của sự khác biệt về mức độ am hiểu trung bình
của quyền chọn chỉ là 10%. Điều này phần nào phản ánh mức độ
phổ biến của quyền chọn đối với công chúng do nhiều sản phẩm về
quyển chọn vàng, ngoại tệ, v.v. thường xuyên được đề cập trên
phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động thu hẹp khoảng
cách về kiến thức giữa hai nhóm DN, tuy nhiên lại cho thấy chưa hẳn
có am hiểu đã có sử dụng.

16


Từ đây ta có thể kết luận rằng am hiểu về sản phẩm phái sinh chỉ
mới là điều kiện cần đề thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng sản phẩm,
ngoài ra sẽ còn yếu tố khác đưa doanh nghiệp đến quyết định sử
dụng, mà trong đó có thể kể đến các yếu tố về qui định luật pháp,
vấn đề trách nhiệm….
2. Mức độ quan tâm của các doanh nghiệp XNK đối với sản
phẩm phái sinh

Theo thống kê , mức độ khác biệt về mối quan tâm đến việc sử dụng
sản phẩm phái sinh trong tương lai để phòng ngừa rủi ro giữa doanh
nghiệp có sử dụng và không sử dụng sản phẩm phái sinh khá rõ ràng
.
Đa số các doanh nghiệp đánh giá mức độ thành công trong sử dụng
sản phẩm phái sinh của mình ở có thành công ít hoặc thành công

nhiều thì đều chọn mức độ quan tâm đối với ít nhất một loại sản
phẩm phái sinh nào đó. Hầu hết các doanh nghiệp đã từng sử dụng
sản phẩm phái sinh lựa chọn sẽ tiếp tục sử dụng. Nhưng mặt khác,
các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm phái sinh chưa đưa phòng ngừa
rủi ro vào chiến lược của mình và chưa đưa thành qui định khi nào
bắt buộc phải sử dụng sản phẩm. Phòng ngừa rủi ro hiện nay chỉ
mang tâm lý ngắn hạn và mang tính tình thế.
3. Mức độ thường xuyên sử dụng của các DN đối với sản
phẩm phái sinh

17


Theo số liệu được thể hiện ở đây, hầu như rất ít người sử dụng (mức
1 là hầu như chưa từng sử dụng, 2 là sử dụng chỉ 1 lần). Theo số liệu
thể hiện thì bình quân thị trường hầu như không sử dụng. Nếu xét
theo tỷ lệ người trả lời thì số doanh nghiệp sử dụng sản phẩm phái
sinh chỉ chiếm 27/102, là khoảng 25% doanh nghiệp tham gia điều
tra, trong đó sản phẩm kì hạn được dùng nhiều nhất trong tất cả.
Điều này có thể dễ hiểu được do nghiệp vụ kì hạn được tiến hành
tương đối đơn giản hơn so với các loại CCPSTT còn lại.
4. Kết quả sử dụng công cụ ngoại hối phái sinh trong phòng
ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp XNK tại Việt Nam
Nhìn một cách tổng quát, tuy rằng công cụ ngoại hối phái sinh đã
được hình thành trong thời gian khá dài tại Việt Nam, nhưng mức độ
áp dụng lại rất hạn chế. Một mặt do xuất phát điểm nền kinh tế lạc
hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại.
Mặt khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối
với quá trình phát triển các công cụ ngoại hối phái sinh ở Việt Nam.
Thực tế kết quả áp dụng các công cụ này như sau:

Thứ nhất, kết quả áp dụng hợp đồng kỳ hạn ngoại hối vào thị
trường Việt Nam. Các công cụ kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng
mua bán USD và VND giữa NHTM (Ngân hàng thương mại) với doanh
nghiệp XNK hoặc với các NHTM khác được phép của NHNN (Ngân
hàng nhà nước). Tuy nhiên, công cụ ngoại hối kỳ hạn ít được sử
dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng ở VN chưa phát
triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng
chống rủi ro tỷ giávà những hạn chế của NHNN. Vì thế, các giao dịch
kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng.
Những công cụ hoán đổi đầu tiên là những công cụ hoán đổi thuận
chiều giữa NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp
các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND. Quy định về công cụ
ngoại hối phái sinh chính thức được nới lỏng khi lần đầu tiên NHNN
18


cho phép HSBC cung cấp gói hoán đổi tiền VND cho một công ty đa
quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam.
Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng
12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao
dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị
trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không
chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Chính hành động của
HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này.
Thứ hai, so với công cụ ngoại hối kì hạn thì công cụ ngoại hối quyền
chọn được sử dụng nhiều hơn và cũng được nhiều ngân hàng cung
cấp. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các DN và cá nhân
được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VND thông qua một tỷ giá
do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền

chọn USD và VND đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu
trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền
chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Với công cụ này, chắc chắn
tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với
thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua
đó mà tăng lên.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ ngoại hối phái
sinh ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón
nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
5. Những bất cập trong việc áp dụng công cụ phái sinh tiền
tệ (CCPSTT) trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp
xuất nhập khẩu
Phần lớn doanh nghiệp chưa mặn mà với công cụ phòng ngừa rủi ro
tỷ giá, bởi suốt những năm trước đó, tỷ giá USD/VND liên tục được
duy trì ổn định, thường chỉ tăng quanh 1% mỗi năm, do đó thay đổi
này có ảnh hưởng không nhiều đối với chi phí tài chính của doanh
nhiệp. Điều này còn dẫn đến hạn chế sự chủ động của doanh nghiệp
trước những điều chỉnh nhanh và khác thường của chính sách vừa
qua. Do đó, khi có những biến động về tỷ giá, doanh nghiệp hoàn
toàn chịu thiệt hại về phía mình. Ngoài ra còn do tâm lý ngại đổi
mới, chưa quan tâm đến hoạt động quản lý tài chính chuyên nghiệp.
Mặc dù ngân hàng nhà nước đã cho phép hệ thống ngân hàng
thương mại thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để phòng ngừa và hạn
chế rủi ro tỷ giátừ năm 2005, nhưng đến nay, nhiều doanh nghiệp
vẫn chưa nhận thức rõ lợi ích của công cụ này.
Một bất cập hiện nay nữa là thị trường tài chính tại VN chưa thực sự
phát triển, doanh nghiệp còn xa lạ với các công cụ phòng tránh rủi
19



ro cho hoạt động kinh doanh trước những biến động của thị trường.
Tại VN các sản phẩm phái sinh đã xuất hiện trên thị trường cách đây
5 năm, nhưng mới chỉ mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ. thị trường
chính thức chưa được thiết lập, thị trường phi chính thức nhỏ lẻ và
hoạt động không thường xuyên. Hiện nay, một số ngân hàng thương
mại và doanh ngiệp đã bắt đầu cung cấp các giao dịch liên quan đến
CCPSTT nhưng Nhà nước chưa có hướng dẫn cụ thể. Ngân hàng Nhà
nước cũng ban hành hướng dẫn kế toán một số công cụ tài chính,
nhưng việc hướng dẫn còn bó hẹp trong một số loại CCPSTT nhất
định và đôi chỗ chưa thật sự hợp lý.Việc thiếu vắng các tiêu chuẩn
kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị công cụ tài
chính nói chung và CCPSTT nói riêng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến việc xác định kết quả tài chính, đến quản trị rủi ro tài chính của
doang nhiệp.
Có thể nói, một trong những trở ngại lớn cho thị trường phái sinh
phát triển chính là những quy định pháp luật còn thiếu và không phù
hợp. Ví dụ như thuế cho hoạt động hoán đổi lãi suất không được quy
định rõ ràng nên khó xác định vì lãi suất thả nổi chạy liên tục theo
từng ngày. Ở các nước khác, sản phẩm phái sinh không phải đóng
thuế vì đó mới là công cụ phòng chống rủi ro cho doang nhiệp, vì
không phải một kênh kinh doanh của ngân hàng. Có thể nói, quy
định này bóp chết sự phát triển của CCPSTT . Nó vừa gây kìm hãm,
vừa khó thực hiện.
Theo cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
có thể dùng công cụ “tỷ giá bình quân liên ngân hàng” và “biên độ”
để kiểm soát tỷ giá trên thị trường. Mặc dù gọi là tỷ giá bình quân
liên ngân hàng nhưng NHNN thường ấn định tỷ giá này theo mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thường là mang tính dài hạn. Vì thế đôi
khi nó có một “độ lệch” nhất định so với thực tế biến động ngắn hạn
trên thị trường. Nguy cơ mất cân đối cung cầu khiến tỷ giá biến động

mạnh sẽ xuất hiện khi “độ lệch” này càng lớn và kéo dài nhưng
NHNN chậm điều chỉnh hoặc không cần thiệp với vai trò là người
mua hoặc bán cuối cùng trên thị trường. Một khi NHNN không thực
hiện được nguyên tắc này thì thị trường ngoại tệ chính thức sẽ bị ách
tắc. Trong khi đó thị trường tự do, vốn không được thừa nhận về mặt
pháp lý, lại là “lối ra” để giải tỏa ách tắc này. Điều hiển nhiên là tỷ
giá trên thị trường tự do thường vượt khỏi biên độ kiểm soát của
NHNN, hình thành hệ thống hai tỷ giá trong nền kinh tế. Thực tế
những cơn sốt cả “nóng” lẫn “lạnh” của tỷ giá trong năm 2008 đã
chứng minh điều đó.

20


Tại các NHTM, việc áp dụng các CCPSTT còn rất hạn chế, đặc biệt ở
các NHTM (Ngân hàng thương mại) quốc doanh, trong khi khối ngân
hàng này có lợi thế hơn vì quy mô hoạt động và vốn. Bà Nguyễn Thị
Kim Thanh - Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho biết, trong khoảng thời
gian 2005 đến tháng 9/2007 mới chỉ có hơn 40 hợp đồng hoán đổi lãi
suất và một số it hợp đồng phái sinh không chuẩn khác được phép
thực hiện. Ngoài ra, các doang nghiệp lớn của VN đều vay, hoặc mua
chịu hàng NK bằng USD, nếu sử dụng hoán đổi lãi suất thì tránh
được thiệt hại không nhỏ với những biến động khôn lường của thị
trường tiền tệ.
Các CCPSTT chưa được giới thiệu và quảng bá để các doanh nghiệp
và ngân hàng am hiểu và sử dụng trong hoạt động kinh doanh, quản
lý tài chính. Phần lớn các doanh nghiệp có quan tâm đến rủi ro tỷ giá
khi có những nợ phải thanh toán trong tương lai bằng ngoại tệ, đành
phó thác cho may rủi vì không biết làm thế nào để ngăn ngừa rủi ro
hoặc không muốn bị lôi cuốn vào những bài toán phức tạp không rõ

được mất. Ngoài ra, tập quán trong giao dịch của các doanh nghiệp
với các NHTM vẫn còn nằm trong phạm vi hạn hẹp.
Điều có thể gây rủi ro lớn hơn là hệ thống NHTM còn gián tiếp tham
gia thị trường tự do để đáp ứng nhu cầu thanh toán hợp lý của khách
hàng. Có hiện tượng này là vì chính sách quản lý ngoại hối hiện nay
(nhằm mục đích khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước) cho
phép cá nhân có quyền nắm giữ ngoại tệ mặt và có thể bán lại cho
hệ thống NHTM. Một công ty (NK) cần mua ngoại tệ để thanh toán
cho hợp đồng đến hạn có thể thỏa thuận với ngân hàng giải quyết
nguồn cung bằng cách mua ngoại tệ mặt trên thị trường tự do rồi
bán lại cho nhân hàng dưới danh nghĩa cá nhân (thông qua tên của
một nhân viên nào đó). Động tác tiếp theo là ngân hàng sẽ bán
đúng số ngoại tệ này cho công ty qua tài khoản để thanh toán cho
nước ngoài.ở đây công ty phải “hợp lý hóa” khoản chênh lệnh giữa
tỷ giá mua trên thị trường tự do (vượt trần cho phép) và tỷ giá bán
lại cho ngân hàng (tối đa chỉ bằng mức trần cho phép), góp phần
làm cho hệ thống sổ sách kế toán thiếu minh bạch và phản ánh
không trung thực nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Điều này lý giải tại
sao tỷ giá trên thị trường tự do thường có tác động ngược trở lại tỷ
giá ngân hàng để xác lập điểm cân bằng mới. Khi đó NHNN buộc
phải điều chỉnh mạnh tỷ giá theo thị trường tự do. Từ đó, tạo nên
những “cú sốc” tỷ giá có ảnh hưởng rất tiêu cực đến tâm lý thị
trường.
Rủi ro khi giao dịch CCPSTT – không thể coi là phương pháp thực
hiện phi rủi ro cho doanh nghiệp.Việc sử dụng CCPSTT và hoạt động
21


của thị trường CCPSTT cũng chứa đựng những rủi ro tiềm tàng rất
lớn, thậm chí khi rủi ro xảy ra có thể làm cho doanh nghiệp bị phá

sản hoặc khủng hoảng tài chính... nếu hoạt động của doanh nghiệp,
của tổ chức tài chính, của thị trường không hiệu quả. Chính vì vậy,
từng nhà quản trị doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước cần phải
hiểu rõ về bản chất và những rủi ro gia tăng từ CCPSTT. Tùy thuộc
từng loại CCPSTT, tùy thuộc vào mục đích và trạng thái kinh doanh
sẵn có khi mua/ bán/ giao dịch CCPSTT, tùy thuộc cơ sở hạ tầng tài
chính, tùy thuộc môi trường kinh doanh mà người mua, người bán sẽ
phải/ không phải đối diện với những loại rủi ro tài chính, mức độ rủi
ro nhất định. Ví dụ, nếu xét riêng lẻ một nghiệp vụ quyền chọn: đối
với người mua quyền chọn mua, lỗ nhiều nhất là mức phí quyền
chọn, lãi thì có thể rất lớn; ngược lại, đối với người bán quyền chọn
mua: Lãi tối đa là phí quyền chọn, lỗ thì có thể rất lớn.
Giám đốc tài chính một doanh ngiệp thủy sản lớn của Việt Nam với
kim ngạch XK ước 200 triệu US một năm cho biết, năm 2008 doanh
nghiệp này thường sử dụng công cụ bán forward. ở thời điểm tỷ giá
ổn định như 3 tháng đầu năm, lựa chọn này khá hiệu quả, nhưng hồi
tháng 5, tháng 6 tỷ giá biến động tới 19.000 VND/USD thì họ bị lỗ
không ít.

III. Các giải pháp và kiến nghị nhằm tằng cường sử dụng
các công cụ ngoại hối phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro
tỷ giá cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.
1. Đối với doanh nghiệp
1.1. Nâng cao nghiệp vụ về tài chính phái sinh
Sau khi đã sẵn sàng để đưa tài chính phái sinh vào một phần trong
hoạt động của doanh nghiệp thì cũng là lúc doanh nghiệp cần trang
bị cho mình một vốn kiến thức sâu rộng và đầy đủ về nghiệp vụ này.
Vẫn nhấn mạnh một điều rằng, công cụ phái sinh là những công cụ
phức tạp, cần phải hiểu rõ để tránh hiểu sai dẫn đến dùng sai gây
hậu quả về mặt tài chính cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải

phối hợp với các Ngân hàng, để có thể học hỏi về nghiệp vụ phái
sinh cũng như thị trường tài chính phái sinh. Có hiểu rõ vấn đề mới
có thể tìm ra lời giải cho bài toán. Để đối mặt với những rủi ro gặp
phải, cần có một vốn kiến thức rất căn bản, đầy đủ. Đầu tiên là về
khoa học rủi ro, về quản trị rủi ro, làm cách nào có thể hạn chế rủi
ro. Hiểu rõ nguy cơ mà mình gặp phải rồi, thì sẽ tìm hiểu đến, các
biện pháp phòng tránh rủi ro, đưa ra các phương án ứng phó với
từng trường hợp. Sau đó, phải cân nhắc, đánh giá giữa các phương
án, để tìm ra cách tốt nhất, phương án tối ưu để hạn chế rủi ro cho
22


doanh nghiệp. Nếu tính toán tốt, với các công cụ phái sinh, doanh
nghiệp hoàn toàn có thể đưa rủi ro về mức mà mình mong muốn và
kiểm soát được. Đó mới chính là một quy trình quản trị rủi ro logic và
hợp lý.
1.2. Tìm hiểu thực tế về việc sử dụng nghiệp vụ phái sinh
Vì các doanh nghiệp của chúng ta chưa sử dụng hoặc mới chỉ bước
đầu làm quen với các công cụ phái sinh, nên việc tìm hiểu thực tế là
rất quan trọng. Khi đã học hỏi, trang bị kiến thức về công cụ phái
sinh rồi, cần phải đưa những lý thuyết đó vào thực tiễn nữa. Giữa
những điều cơ bản, giáo trình đến thực tế là cả một khoảng cách. Khi
đã hiểu về mặt sách vở rồi, mà không tìm hiểu các ví dụ thực tế thì
doanh nghiệp cũng không thể nào làm tốt được. Cần xem xét thực
tiễn sử dụng công cụ phái sinh trên Thế giới, ở thị trường Việt Nam,
xem trong trường hợp nào thì sử dụng biện pháp nào, có ưu điểm gì,
nhược điểm gì. Từ những bài học của người đi trước để rút ra kinh
nghiệm cho mình, tránh phạm phải những sai lầm của họ để đi vào
vết xe đổ. Những ví dụ thực tiễn như thế có tác dụng hơn nhiều so
với những công thức trong sách vở. Thực tế cho thấy, diễn biến thực

tế trong kinh tế tài chính nói chung và đặc biệt là thị trường Việt
Nam, luôn biến đổi khó lường, đôi khi đi ngược lại những công thức.
Vì vậy, tìm hiểu thực tế để nắm vững nghiệp vụ là điều cần thiết đối
với doanh nghiệp để bước đầu tiếp cận với nghiệp vụ mới này.
1.3. Hoàn thiện cơ sở vật chất, thiết bị và đội ngũ nhân viên
Cuối cùng, người viết đưa ra đề xuất với các doanh nghiệp rằng,
phải hoàn thiện cơ sở vật chất, thiết bị và đội ngũ nhân viên của
mình. Để có thể nắm bắt được thông tin về thị trường tài chính, cần
phải có cơ sở vật chất và thiết bị phù hợp nhất định. Mà thông tin đối
với thị trường tài chính là yếu tố sống còn. Không nắm bắt được
thông tin thì không thể nào ra được quyết định.
Các thông tin về tỷ giá giao ngay, tỷ giá kì hạn hay tỷ giá áp dụng
cho hợp đồng hoán đổi, quyền chọn công bố trên thị trường cần phải
được cập nhật thường xuyên để có thể áp dụng vào các hợp đồng.
Muốn như vậy phải có hệ thống thiết bị để cập nhật. Hơn nữa, phải
có ban ngành, đội ngũ nhân viên chuyên trách về vấn đề này. Mỗi
nhân viên có một vị trí làm việc riêng, không phải ai cũng có đủ kiến
thức thích hợp để làm một việc mà doanh nghiệp đề ra, vì vậy phải
có nhân viên chuyên trách, được đào tạo, có kiến thức và kinh
nghiệm để phụ trách, đảm đương về mặt bảo hiểm cho hoạt động
xuất nhập khẩu, về sử dụng công cụ phái sinh.
2. Đối với ngân hàng thương mại (NHTM)
23


Trong tình hình tỷ giá hối đoái ngoại tệ biến động như hiện nay, rủi
ro trong giao dịch bằng đồng ngoại tệ có chiều hướng tăng đặc biệt
trong những hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Vì
vậy vai trò của các NHTM rất quan trọng trong việc kết hợp triển
khai các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ và từng bước tư vấn, hướng dẫn cụ

thể cho các doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp có những quyết định
đúng đắn trong việc đầu tư của mình.
Xét về mặt khách quan thì về phía các NHTM có lợi, mặt khác lại bảo
vệ được rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy nhiên,
trong thị trường giao dịch hiện nay, việc ứng dụng các công cụ vẫn
còn rất mới, chưa được sử dụng rộng rãi bởi tập quán trong giao dịch
của các doanh nghiệp với các NHTM vẫn còn nằm trong phạm vi hạn
hẹp.
Hiểu được, ứng dụng được các công cụ phái sinh tiền tệ trong phòng
ngừa rủi ro tỷ giá của các NHTM thì việc mang những dịch vụ này
đến các doanh nghiệp cần một chặng đường khá dài trong việc tiếp
cận các doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến giao dịch ngoại
hối, các NHTM cần tổ chức những buổi hội thảo để giới thiệu và tư
vấn loại hình dịch vụ mới này nhằm mục đích vừa nâng cao nhận
thức của các doanh nghiệp về rủi ro tỷ giá vừa giúp cho các doanh
nghiệp hiểu biết và quen dần về các công cụ phái sinh ngoại
hối. Cũng như đối với các doanh nghiệp, những quyền lợi và tính ưu
việt trong việc lựa chọn các loại hình giao dịch hối đoái trong giao
dịch kinh doanh và sử dụng các công cụ phái sinh doanh nghiệp có
được sự lựa chọn về tỷ giá mong muốn sẽ thu hút được sự quan tâm
từ các doanh nghiệp hơn.
Mặt khác, các NHTM Việt Nam cũng cần có chính sách đào tạo và bồi
dưỡng cho các cán bộ trực tiếp kinh doanh trên thị trường hối đoái
quốc tế về các công cụ phái sinh nói chung và phái sinh ngoại hối
nói riêng, vì đây là những sản phẩm mới, phức tạp cả về lý thuyết
lẫn thực tiễn áp dụng.
Ngoài ra cần trang bị thêm những kiến thức và kinh nghiệm về thị
trường ngoại hối và thị trường tiền tệ quốc tế, kỹ năng phân tích kỹ
thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối, phân tích cơ bản trên cơ sở
chọn lọc, tổng hợp và phân tích thông tin để dự đoán xu hướng diễn

biến của thị trường nhằm sử dụng các công cụ phái sinh một cách
hiệu quả nhất.
Thông qua đó để có thể tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ cho các doanh
nghiệp hiểu biết hơn về thị trường ngoại hối,cán bộ giao dịch phải có
khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá
24


đối với danh mục đầu tư bằng ngoại tệ của bản thân ngân hàng.
Ngoài ra họ còn phải có khả năng phát triển (hay bán) các sản phẩm
phái sinh tới các doanh nghiệp có hoạt động thương mại quốc tế.
Bên cạnh điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ ngân
hàng cũng là điều kiện cần thiết để ứng dụng nghiệp vụ phái sinh
ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung và công cụ phái sinh
ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật toán
phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái
trong tương lai.
Ngoài ra, nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng để nhanh
chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực
quốc tế., mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài
trên thị trường ngoại hối quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức,
về tài chính và kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và về
hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh nói
chung và công cụ quyền chọn ngoại hối, công cụ tương lai ngoại hối
nói riêng.
Các NHTM Việt Nam cũng nhận thức được rằng thách thức trong quá
trình hội nhập là rất lớn và ngày càng phức tạp nhưng nếu đẩy
nhanh việc ứng dụng các công cụ phái sinh tiền tệ sẽ giúp ngành
ngân hàng phòng ngừa rủi ro về tỷ giá và tận dụng được cơ hội để
phát triển, qua đó nâng cao vị thế, sức cạnh tranh của hệ thống

ngân hàng và của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
3.Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
NHNN cần có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, kết hợp với các giải
pháp nới rộng biên độ dao động so với tỷ giá bình quân, nhằm hình
thành một thị trường ngoại hối phản ánh đúng quan hệ cung cầu
ngoại tệ phù hợp với thị trường giao dịch. Trong bối cảnh luồng vốn
đổ vào Việt Nam đang tăng lên, một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn sẽ
ngăn chặn các áp lực lên lạm phát, đồng thời sự linh hoạt tỷ giá sẽ
góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thị trường công cụ phái
sinh, tạo điều kiện bảo hiểm tốt hơn đối với rủi ro về tỷ giá.
NHNN cũng cần tăng cường vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức, giám sát
và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có
tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên thị trường.
Quan trọng hơn, NHNN cần nghiên cứu ban hành những quy tắc cơ
bản nhất trong giao dịch phái sinh, các văn bản hướng dẫn nghiệp
25


×