Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tái cơ cấu nguồn nhân lực tại agribank giai đoạn 2011 2015 và định hướng đến 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.78 KB, 45 trang )

MỤC LỤC


Chương 3: GIẢI PHÁP CƠ CẤU LẠI NGUỒN
NHÂN LỰC CHO AGRIBANK ĐẾN 2020

TÓM TẮT
Xuất phát từ quy luật khách quan chi phối toàn bộ quá trình phát triển của xã hội
loài người là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX, việc
tái cơ cấu nguồn nhân lực là tất yếu khách quan có vai trò chủ đạo và quan trọng nhất
trong toàn nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là với vai trò là một doanh nghiệp
nhà nước Agribank càng cần phải đi tiên phong trong quá trình này. Dù gặp phải nhiều
khó khăn, thách thức trong thời gian qua, nhất là vấn đề đạo đức nghề nghiệp ở một số
cán bộ, nhân viên Agribank xuống cấp trầm trọng nhưng toàn hệ thống Agribank với
hơn 2.300 chi nhánh, PGD và 40.000 cán bộ, nhân viên vẫn chung tay, góp sức từng
bước thực hiện quá trình tái cơ cấu nguồn nhân lực với nhiều kết quả tích cực thời gian
đầu dưới sự hỗ trợ kịp thời và sâu sắc từ Nhà nước Việt Nam. Quá trình từ nay đến
2020 Agribank còn cần phải thực hiện nhiều chính sách, giải pháp hơn nữa để tái cơ
cấu nguồn nhân lực của mình, chủ yếu tập trung vào việc đào tạo cán bộ, nhân viên
hiện đang công tác cùng việc xây dựng một hệ thống chấm điểm, xếp hạng năng suất
lao động một cách khách quan và chính xác nhất để thúc đẩy sự nhiệt tình và khuyến
khích cán bộ, nhân viên trong toàn hệ thống Agribank yên tâm công tác, góp phần xây
dựng Agribank ngày càng phát triển để đạt được tầm nhìn và các mục tiêu đã đề ra.

2


KẾT LUẬN

3



KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh tranh và mở
cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh
sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy, các
nước đang phát triển nói chung mong muốn hội nhập quốc tế, phát triển và cải cách hệ
thống ngân hàng nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo thuận
lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn
nhưng với chi phí thấp hơn.
Trong quá trình hội nhập, nhân tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
cho sự phát triển. Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới và trong xu thế đổi
mới kinh tế hiện nay ở đất nước ta việc phát huy đầy đủ, có hiệu quả nhân tố con người
có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của tất cả các tổ chức. Do đó, tái cơ cấu nguồn
nhân lực được đặt ra nhằm đảm bảo được hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để góp phần làm sáng tỏ thêm về quá trình tái
cơ cấu nguồn nhân lực ở Agribank tôi đã cố gắng sưu tầm, nghiên cứu và thực hiện đề
tài “Tái cơ cấu nguồn nhân lực tại Agribank giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến
2020” này.
Đề tài này nghiên cứu quá trình tái cơ cấu nguồn nhân lực tại Agribank. Đối
tượng nghiên cứu của đề tài là nguồn nhân lực. Đề tài sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng để thực hiện nghiên cứu.
Bố cục của đề tài gồm:
Tóm tắt
Mở đầu

4



KẾT LUẬN

Chương 1: Hình thái kinh tế - xã hội và vấn đề xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Chương 2: Nguồn nhân lực ngành ngân hàng việt nam trên đường hội nhập
Chương 3: Giải pháp cơ cấu lại nguồn nhân lực cho Agribank đến 2020
Kết luận.

5


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Nội dung cơ bản và giá trị của hình thái kinh tế – xã hội

1.1.1 Sản xuất vật chất - nền tảng của sự vận động, phát triển xã hội
Khái niệm xã hội dùng để chỉ những cộng đồng người trong lịch sử, đó là những
cộng đồng người có tổ chức nhằm thực hiện các mối quan hệ giữa con người với con
người trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo,…
Hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của nhân loại là cộng đồng thị tộc, bộ lạc
với hình thức cơ cấu xã hội giản dị nhất. Sự tiến hóa hơn nữa của lịch sử đã dẫn tới sự
hình thành cơ cấu tổ chức cao hơn là hình thức tổ chức quốc gia theo một hình thức xã
hội: tổ chức quốc gia – dân tộc. Ngày nay, do nhu cầu mới của lịch sử trong thời đại
mới đã bắt đầu xuất hiện những hình thức tổ chức liên minh rộng lớn giữa các quốc
gia– dân tộc thành các hình thức xã hội ở phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong bất cứ hình thức tổ chức của cộng đồng xã hội nào dù đơn giản nhất cũng
có sự thống nhất của cả quá trình sản xuất vật chất. Sản xuất và tái sản xuất ra con

người cùng những quan hệ xã hội của nó. Sản xuất vật chất là quá trình liên kết con
người dưới các hình thức tổ chức xã hội nhất định, thực hiện mục đích cải biến môi
trường tự nhiên làm biến đổi các đối tượng vật chất tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và
phát triển của con người. Sản xuất tinh thần là quá trình hoạt động không ngừng sáng
tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần trên tất cả các lĩnh vực của xã hội. Cùng với những
quá trình sản xuất ấy là quá trình sản xuất và không ngừng tái sản xuất ra chính bản
thân con người và các quan hệ xã hội của họ trong hai mặt tự nhiên và xã hội của con
người. Ba loại hình sản xuất đó luôn luôn tồn tại trong tính quy định, chi phối và làm
biến đổi nhau, tạo nên tính chất sống động của đời sống xã hội, trong đó sản xuất vật
chất giữ vai trò quyết định.


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Cách tiếp cận duy vật về xã hội của Mác đã cho thấy: sản xuất vật chất nhất
định phải là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội, là cơ sở cuối cùng để giải thích mọi
biến thiên của lịch sử; mọi sự biến đổi, phát triển của các quan hệ xã hội giữa con
người với con người, của sự phát triển từ hình thức tổ chức xã hội này lên hình thức tổ
chức xã hội cao hơn trong lịch sử của nhân loại. Lịch sử tiến hóa văn minh của nhân
loại có cơ sở quyết định từ lịch sử phát triển của trình độ văn minh trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất của xã hội; do vậy, cũng cần phải nghiên cứu trình độ phát triển
nói chung của xã hội, trình độ phát triển ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển của
phương thức sản xuất – tức là những cách thức mà xã hội sử dụng để tiến hành quá
trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi quá trình sản xuất vật chất đều được tiến hành theo những phương thức
nhất định trên hai mặt – phương thức kỷ thuật, công nghệ của quá trình sản xuất và
phương thức tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất ấy, trong đó, phương thức tổ chức
kinh tế phụ thuộc tất yếu vào trình độ phương thức kỷ thuật, công nghệ hiện có của xã
hội. Như vậy, trình độ phát triển của phương thức kỷ thuật, công nghệ nói riêng và

trình độ phát triển nói chung của toàn bộ lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định trình
độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội, do đó, nó cũng chính là nhân tố
quyết định trình độ phát triển của toàn bộ đời sống xã hội trên tất cả các mặt khác nhau
của nó.
1.1.2 Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất –
quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất trong lịch
sử.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất và tinh thần của con người, tạo
thành năng lực thực tiễn, cải biến giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản xuất
vật chất. LLSX bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kỷ năng lao động
nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất,


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động,
tạo thành lực lượng sản xuất. LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, LLSX hàng đầu là
“người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất.
Bằng thể lực, tri thức và kỷ năng lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu
lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
của cải vật chất. Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động,
nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chủ yếu.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). QHSX gồm 3 mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản
xuất ra.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống nhất

biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. LLSX là nội dung, thường
xuyên biến đổi, phát triển: QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn định.
Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa hai mặt đó tạo thành quy luật
về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX – quy luật cơ bản nhất của
sự vận động, phát triển xã hội.
Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định QHSX, làm cho QHSX biến đổi
phù hợp với nó. LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại sự phát triển của LLSX.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX. QHSX tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa
người lao động với tư liệu sản xuất và do đó thúc đẩy LLSX phát triển.


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Song, sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định lại làm cho QHSX từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó QHSX trở
thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển LLSX tất yếu sẽ dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX
cũ bằng QHSX mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế.
LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại sự phát triển của LLSX. QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động
đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất và do đó, tác động đến sự phát
triển của LLSX. QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy
LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, lạc hậu, hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả
tạo so với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi quan

hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của LLSX thì theo quy luật chung, QHSX cũ sẽ
được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy
LLSX tiếp tục phát triển.
Vào năm 1960-1975 Việt Nam không vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp
giữa QHSX với LLSX đã đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng xem nhẹ việc phát
triển công nghiệp nhẹ kết quả lương thực không đủ, công nghiệp nặng quy mô nhỏ bé
không đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân, đây là một sai lầm của đất nước.
Do trình độ LLSX ở nước ta còn thấp kém, không đồng đều nên chúng ta không
thể nóng vội, chủ quan như trước đây, như thế sẽ đẩy QHSX vượt quá xa so với LLSX
vốn có của chúng ta. Vì vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới
đất nước là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

động, kích thích lợi ích…đối với các chủ thể lao động trong quá trình sản xuất, kinh
doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “Phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu,
quản lý và phân phối.
Cơ sở hạ tầng kinh tế ở nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần
với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu
kinh tế như thế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu
khách quan. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất
đan xen của kết cấu kinh tế ấy đặt ra nhu cầu khách quan là KTTT cũng phải được đổi
mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy
hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá

các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc…nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất định diễn ra sự đan
xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Để thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo con đường xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện xuất phát điểm kinh tế nước ta còn thấp, nước ta phải thực hiện xã hội hoá
nền sản xuất trên cả hai mặt LLSX và QHSX, cụ thể là:
Thứ nhất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ
quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đây là nhiệm vụ
có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có nền kinh tế lạc
hậu.
Thứ hai: xây dựng QHSA mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

tôn trọng quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với LLSX. Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng được xây dựng trên cơ sở nhiều
thành phần kinh tế. Bên cạnh sự đa dạng của quan hệ sở hữu còn có sự đa dạng của các
hình thức phân phối, hình thức tổ chức quản lý.
Thứ ba: mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng hoạt động
kinh tế đối ngoại là phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Bắt đầu từ Đại hội VI, Đảng đã đề ra và dần hoàn thiện qua các kỳ đại hội đẩy
mạnh đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyết
khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chú ý đảm bảo hợp lý lợi ích cá nhân là động
lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại các lĩnh
vực và khu vực sản xuất chính, có chính sách làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh

và đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, do đó, đất nước đã xây
dựng một nền kinh tế có cơ cấu công – nông nghiệp – dich vụ tương đối hợp lý, gắn thị
trường trong nước với thị trường quốc tế.
Trước đổi mới, quan niệm ở Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội có nhiều biểu hiện giáo điều, chủ quan duy ý chí, vi phạm và làm sai quy
luật kinh tế khách quan. Do cách nhìn phiến diện, đã không coi trọng đúng mức một
loạt động lực quan trọng của phát triển: xem thường, thậm chí phủ nhận các lợi ích
không mang tính tập thể - xã hội, chưa thấy đúng vị trí, vai trò của dân chủ, tức là chưa
nhìn ra được mối liên hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách
nhiệm, trước hết là lợi ích kinh tế, vật chất của công dân, chưa đánh giá đầy đủ vai trò
của khoa học – kỷ thuật và công nghệ, nhất là của lý luận và khoa học xã hội nhân văn.
Tất cả đều kiềm hãm tinh thần hăng hái, nhiệt tình sáng tạo của nhân dân trong lao
động. Nói chung là chưa biết đến và càng không thực hiện được các chính sách và giải
pháp phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ, trong xây dựng chủ


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

nghĩa xã hội. Thêm vào đó, do hiểu sự phát triển quá giản lược, nên trước đổi mới, đã
phổ biến quan niệm tĩnh lại, khép kín về xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi đó là quá trình
thẳng tắp, đóng khung trong giới hạn hệ thống xã hội chủ nghĩa, tách biệt trong hầu hết
mọi lĩnh vực với các thế giới khác, tức là tự chối bỏ những động lực bên ngoài rất quý
báu cho sự phát triển bên trong.
1.2 Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định (trừ xã hội nguyên thuỷ).
Cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của
xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội sau. Trong đó, QHSX thống trị
nắm vai trò chủ đạo, quyết định xu hướng chung của đời sống kinh tế-xã hội. Trong

CSHT hiện nay ở Việt Nam, về cơ bản có các kiểu QHSX sau: QHSX cũ là kiểu
QHSX phong kiến, tư bản chủ nghĩa; QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX thống trị và
mầm mống của QHSX cộng sản chủ nghĩa định hướng cho sự phát triển CSHT xã hội
chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam. QHSX xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam phản ánh
bản chất kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta. Trong CSHT hiện nay ở Việt Nam bao
gồm rất nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế
quốc doanh, thành phần kinh tế tư nhân của người sản xuất nhỏ, thành phần kinh tế tư
nhân tư bản…
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo…và những thiết chế tương ứng như nhà nước, giáo hội...được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì CSHT có vai trò quyết
định đối với KTTT mà CSHT lại biến đổi theo từng hình thái kinh tế xã hội kéo theo
KTTT cũng biến đổi theo nhưng có tính chất phức tạp vì trong KTTT có nhiều yếu tố,
mỗi yếu tố lại có những đặc điểm riêng và mang những quy luật phát triển riêng thế


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

nhưng chúng lại có liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Các yếu tố ấy đều được
hình thành, phát triển trên CSHT, yếu tố khác nhau thì có quan hệ khác nhau đối với
CSHT. Có những yếu tố như chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp với CSHT, còn
các yếu tố như tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp. CSHT thay đổi thì kéo theo
KTTT cũng thay đổi nhưng sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế
hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác mà còn diễn ra trong quá
trình biến đổi của mỗi một hình thái kinh tế-xã hội. Trong các yếu tố của KTTT, có
những yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của CSHT (chính trị, pháp
quyền) song cũng có những yếu tố thay đổi chậm (tôn giáo, nghệ thuật). Chính vì
những điều trên mà ta có thể nói sự thay đổi của KTTT mang tính phức tạp.

Tuy KTTT có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm
thay đổi được xu hướng phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh
tế quyết định KTTT, kinh tế quyết định chính trị. Nếu KTTT kìm hãm phát triển kinh
tế thì sớm hay muộn nó cũng sẽ được thay thế bằng KTTT mới tiến bộ để thúc đẩy
kinh tế tiếp tục phát triển.
1.3 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lý luận hình thái kinh tế xã hội chỉ ra, mỗi hình thái kinh tế-xã hội có một
LLSX của nó, một cơ sở vật chất kỹ thuật của riêng nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc cách mạng khoa học-công nghệ mang lại.
Song, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ yếu, lao
động thủ công chiếm đại đa số. Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu tất yếu và khách quan hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tái cơ cấu lại nền kinh tế đang là một vấn đề đặt ra
hết sức bức thiết cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

chủ nghĩa. Trong đó, tái cơ cấu nguồn lao động là một bộ phận không thể tách rời trong
tái cơ cấu nền kinh tế.
1.4 Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con người
1.4.1 Bản chất con người
1.4.1.1 Khái niệm về con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội, luôn giữ
vai trò chủ thể trong mọi hoạt động.
Con người là một thực thể sinh học thể hiện: cơ thể con người chịu sự quy định
bởi những quy luật sinh học để tồn tại, phát triển. Về mặt này, giữa các cá nhân không
có sự giống nhau về thể lực và trí lực, những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá

trình tâm – sinh lý, các giai đoạn sinh thành, phát triển và mất đi quy định bản tính sinh
học của cá nhân con người.
Mặt xã hội quy định sự khác nhau giữa con người với loài vật, tính xã hội của
con người biểu hiện một cách căn bản trong hoạt động sản xuất vật chất làm thay đổi,
cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải phục vụ cho mình; hình thành, phát triển
ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Nhờ quan hệ xã hội mà con người trở
thành con người văn hóa, mọi hành vi sinh vật bản năng đều mang tính nhân văn.
Trong hai mặt nói trên, thì mặt sinh học là điều kiện cần, mặt xã hội là điều kiện
đủ, do đó, con người luôn giữ vai trò chủ thể trong mọi hoạt động. Vai trò này phụ
thuộc vào trí tuệ của mỗi cá nhân.
1.4.1.2 Bản chất con người
Mác cho rằng: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của các
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội”.


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con
người là những người cụ thể, sống trong một điều kiện cụ thể do vậy, bản chất con
người vận động phát triển, phụ thuộc vào bản chất hình thái kính tế - xã hội. Con người
trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của
hoàn cảnh. Do đó, cùng với việc tạo ra điều kiện, hoàn cảnh cần: “đáp ứng yêu cầu về
con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước”, “xây
dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng
tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”.
Bản chất con người mang tính phổ biến chứ không phải là duy nhất, cần thấy
tính đa dạng về các mặt của cá nhân.
1.4.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con

người trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập hiện nay ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới:
Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bối cảnh quốc tế hiện nay trải qua
nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ, mở ra một thời đại kinh tế tri thức và xã hội thông tin toàn cầu. Vấn đề con người
và xây dựng chiến lược con người, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực,
phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành vấn
đề bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới.
Chiến lược con người là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, con
người được đặc ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội. Việc xây dựng con


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

người mới có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế
xã hội.
1.5 Tái cơ cấu:
Tái cơ cấu là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ
một tổ chức, một đơn vị nào đó, mà thường là một công ty. Ngoài việc tổ chức cho một
công ty về các mảng chức năng (sản xuất, kế toán, tiếp thị) và xem xét các nhiệm vụ
mà mỗi chức năng thực hiện, theo lý thuyết tái cơ cấu, chúng ta còn phải chú ý tới các
quy trình hoàn thiện từ khâu tìm kiếm các nguyên liệu, cho tới các khâu sản xuất, tiếp
thị và phân phối. Công ty cần được tái cơ cấu qua một loạt các quy trình.
Tình trạng cần tái cơ cấu: nhu cầu tái cơ cấu trở nên cấp bách khi hiện trạng

của các tổ chức đang gặp nhiều vấn đề trong cơ cấu, hoạt động khiến tổ chức hoạt động
không hiệu quả; thậm chí trì trệ, đứng trước nguy cơ tan rã, phá sản. Nhiều nguyên do
là do vấn đề cơ cấu sai, không hợp lý, kém hiệu quả. Chính vì vậy, việc tái cơ cấu được
đặt ra; thậm chí là cấp bách nhất. Thể hiện cụ thể là:



Tổ chức không xác định nổi chiến lược và kế hoạch.
Đội ngũ lãnh đạo của tổ chức làm việc không hiệu quả. Các tố chất, bao gồm:
tính cách, hiểu biết, kinh nghiệm cá nhân của đội ngũ lãnh đạo trong một tổ
chức đóng một vai trò quan trọng. Nếu sai, kém sẽ kìm hãm sự phát triển của tổ

chức.
• Cơ cấu tài chính chưa phù hợp, chưa chuẩn mực và thiếu các hệ thống, công cụ
kiểm soát cần thiết. Đây là một lý do mà nhiều tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp
hiện nay cần tái cơ cấu nguồn tài chính để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động
một cách tốt nhất.
• Quản trị nguồn nhân sự yếu kém. Có thể nói con người là một yếu tố có tính
chất quyết định tới sự thành công của tổ chức và doanh nghiệp và nếu sự yếu
kém nảy sinh từ vấn đề này thì cần phải được điều chỉnh kịp thời và phải có
định hướng mang tính lâu dài.


Chương 1: HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Sự phối hợp hoạt động trong tổ chức không hiệu quả do cơ cấu chưa hợp lý.
Một cơ cấu tổ chức được thiết kế tốt sẽ có khả năng cho phép doanh nghiệp sử
dụng các thông tin từ các bộ phận một cách hiệu quả nhất, và từ đó giúp cho

hoạt động phối hợp giữa các đơn vị được chặt chẽ và lãnh đạo điều hành tốt
hơn.
Các lợi ích mà tái cơ cấu có thể đem lại:
Cần tính toán kỹ để sắp xếp, tổ chức lại lao động, hệ thống sản xuất, hệ thống tài

chính, hệ thống phân phối và thị trường tiêu thụ. Sự sắp xếp, thay đổi một cách toàn
diện, theo quy trình chuẩn sẽ tạo cho doanh nghiệp có khả năng để thực hiện những
công việc của mình một cách hiệu quả và bền vững, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh bền
vững, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Nội dung của tái cơ cấu:
Tái cơ cấu là việc sắp xếp lại, tiến hành cơ cấu lại mô hình của các tổ chức;
trong đó có các doanh nghiệp. Với việc xây dựng lại toàn bộ sơ đồ cơ cấu tổ chức,
thậm chí thay đổi bề mặt, có tính hình thức các phòng ban chức năng, thay tên gọi.
Nội dung của tái cơ cấu quan tâm đến tính hệ thống và chuyên nghiệp trong phương
thức thực hiện công việc, phối hợp công việc và điều hành công việc. Trong điều kiện
hiện nay, tái cơ cấu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy quản lý, cải cách về
quản lý, tái cấu trúc lại các quá trình kinh doanh, trên cơ sở đó định hình mô hình và cơ
cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng kinh doanh của doanh nghiệp.
Tái cơ cấu thường quan tâm đến việc xem xét các hệ thống lập kế hoạch kinh
doanh, quản trị thông tin, hệ thống quản trị nhân lực, hệ thống quản trị tài chính và
quản trị quan hệ khách hàng... (Bách khoa toàn thư mở, 2015)


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP
2.1 Thực trạng nguồn nhân lực ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay:
Trong giai đoạn những năm 2000 hệ thống NHTM đã có sự thay đổi nhanh

chóng về quy mô: số lượng ngân hàng tăng từ 9 đến 84 ngân hàng trong vòng 17 năm
từ 1991 chủ yếu tập trung vào khối NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Điều này minh chứng cho quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu trong khu vực
ngân hàng ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ. (Vũ Thị Minh Hằng, 2010)
Tuy nhiên, do sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ
thống ngân hàng trong thời gian ngắn vừa qua đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn
tác động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. Đó là nguyên
nhân quan trọng nhất buộc Việt Nam phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm ngăn
chặn rủi ro hệ thống trước khi sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính có thể kéo theo sự đổ
vỡ của cả hệ thống như bài học từ các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế đã
chỉ ra.
Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó
tích tụ, trở nên quá lớn một phần tác động của các yếu tố bên ngoài: bất ổn kinh tế vĩ
mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản
lao dốc hay các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không
hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng
yêu cầu… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả
cơ cấu lại từng ngân hàng cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro ngày một gia tăng, nổi bật là:
- Rủi ro tín dụng: Một mặt để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp và người dân trong khi nguồn vốn kinh doanh lại dựa chủ
yếu vào hệ thống ngân hàng nên tổng tín dụng cho nền kinh tế đã tăng rất nhanh, thậm


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

chí đã có hiện tượng “tín dụng nóng” khi tốc độ tăng tổng tín dụng hằng năm thường
xuyên trên dưới 30%, thậm chí có năm lên tới trên 50% như năm 2007. Khi nền kinh tế
tăng trưởng chậm lại, khi người vay nợ gặp khó khăn thì rủi ro tín dụng sẽ gia tăng,

nhất là khi ngân hàng quá dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho vay và không thực hiện
trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ. Hơn nữa, do sự hấp dẫn của thị trường BĐS
và TTCK trong thời gian vừa qua nên nhiều NHTM đã tập trung quá nhiều vốn cho
những thị trường đầy rủi ro này, góp phần không nhỏ vào thổi phồng “bong bóng” BĐS
và chứng khoán. Khi thị trường BĐS và chứng khoán đảo chiều đi xuống thì rủi ro tín
dụng sẽ tăng cao. Mặt khác, do một số NHTM mới thành lập nên mặc dù quy mô vốn
không lớn song vẫn cần tăng nhanh quy mô tín dụng để quy mô tài sản có phù hợp với
quy mô vốn, đồng thời đáp ứng yêu cầu lợi nhuận của cổ đông cũng như thỏa mãn
tham vọng nhanh chóng vươn lên bằng các NHTM có quy mô lớn hơn. Trong điều kiện
đó, một số NHTM đã bất chấp các quy tắc về an toàn vốn, về quản trị rủi ro để đạt tốc
độ tăng tín dụng tới hàng chục phần trăm mỗi năm, có cả tín dụng cho những lĩnh vực
rủi ro cao như chứng khoán và BĐS. Khi NHNN quyết định thắt chặt tín dụng cho
BĐS, chứng khoán và tiêu dùng xuống mức 22% tổng tín dụng vào giữa năm 2011 và
mức 16% vào cuối năm 2011 thì rủi ro tín dụng của những NHTM này tăng vọt. Ngoài
ra, do sự dễ dãi của một số NHTM trong cấp tín dụng nên rủi ro đạo đức do sử dụng
vốn tín dụng sai mục đích cũng tăng cao. Hậu quả là tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng
tăng mạnh. Theo công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng
từ 2,2% tổng tín dụng vào cuối năm 2010 lên 3,1% vào giữa năm 2011, trong đó, gần
một nửa là nợ xấu có khả năng mất vốn.
- Rủi ro thanh khoản: Do một số NHTM có tốc độ tăng dư nợ tín dụng quá cao
trong khi quy mô vốn còn hạn chế nên tính thanh khoản của những NHTM này xuống
thấp, thậm chí có những thời điểm mất tính thanh khoản. Hậu quả là để đảm bảo tính
thanh khoản, một số NHTM đã phải chấp nhận lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
lên tới 20-30%/năm, thậm chí trên 40%/năm bất chấp lãi suất tái chiết khấu do NHNN


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

công bố hiện nay chỉ là 13%/năm. Có những giai đoạn NHNN đã phải bơm ròng đến

hàng chục nghìn tỷ VND trên thị trường mở và TTLNH để bảo đảm thanh khoản cho
toàn hệ thống. Rủi ro thanh khoản còn đi đôi với rủi ro kỳ hạn khi tuyệt đại đa số vốn
huy động có kỳ hạn ngắn, thậm chí rất ngắn, song các NHTM lại cấp tín dụng ở tất cả
các kỳ hạn với một tỷ lệ không nhỏ dành cho vay trung và dài hạn.
- Rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái: Những bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm
phát cao và những chính sách thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã đặt hệ thống
NHTM trước những rủi ro rất lớn về lãi suất. Những biến động lớn, đột ngột về lãi
suất, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay cùng với những biện pháp điều hành lãi
suất còn mang nặng tính hành chính đã khiến cho các ngân hàng thương mại thường
xuyên trong trạng thái đối phó, khi thì chạy đua tăng lãi suất huy động, khi lại giữ lãi
suất cho vay ở mức rất cao để phòng ngừa biến động lãi suất, hiện tượng “vượt trần,
phá rào, hai lãi suất” diễn ra tương đối phổ biến làm giảm hiệu lực của các chính sách
tiền tệ, đồng thời làm suy giảm đạo đức kinh doanh của không ít cán bộ quản lý cũng
như cán bộ tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng… do đó hoạt động của không ít
NHTM rất bấp bênh, chênh vênh giữa trạng thái lãi - lỗ, kỷ luật kinh doanh không
được tuân thủ triệt để, tạo ra những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Bên cạnh đó, do tình
trạng đô-la hóa chậm được khắc phục với tổng tiền gửi ngoại tệ vẫn chiếm trên 20%
tổng tiền gửi, thậm chí còn phát sinh thêm tình trạng vàng hóa với cả trăm tấn vàng
được các NHTM huy động song không được sử dụng có hiệu quả nên các NHTM Việt
Nam còn phải đương đầu với rủi ro tỷ giá hối đoái và cả rủi ro giá vàng. Chỉ trong 10
tháng đầu năm 2011 mà tỷ giá hối đoái VND/USD đã tăng trên 10% và có thể còn biến
động phức tạp trong 2 tháng còn lại của năm 2011 trong khi do chênh lệch lãi suất giữa
cho vay VND và USD tới trên 10%/năm nên tín dụng ngoại tệ đã tăng rất nhanh trong
thời gian qua. Cũng trong thời gian đó, giá vàng cũng đã tăng tới 25%, có thời điểm lên
tới hơn 49 triệu VND/lượng. Những biến động đó đã tác động rất mạnh tới mức độ an
toàn của cả tài sản Có và tài sản Nợ của các NHTM.


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP


Tóm lại, chúng ta phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để khắc phục những yếu
kém tồn tại trong hệ thống, nhằm lành mạnh hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng, đảm bảo
hệ thống hoạt động an toàn, thông suốt, trở thành kênh dẫn vốn đáng tin cậy và hiệu
quả, giảm thiểu các rủi ro, đặc biệt là giảm rủi ro tín dụng, giảm tỷ lệ nợ xấu, tăng tính
thanh khoản và tăng khả năng quản trị rủi ro của từng NHTM cũng như toàn hệ thống.
Muốn vậy, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng phải được đặt trong một chương trình tổng
thể với những nguyên tắc nhất quán, có những hình thức, lộ trình cơ cấu lại một cách
cụ thể, khả thi, đồng thời gắn bó chặt chẽ với chương trình cơ cấu lại nền kinh tế, đặc
biệt là cơ cấu lại các doanh nghiệp và cơ cấu lại đầu tư. (Quân đội nhân dân online,
2011)
Do đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI khẳng định một trong ba
trọng tâm tái cấu trúc kinh tế là cơ cấu lại hệ thống tài chính, trong đó trọng tâm là cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng của Việt Nam.
Giám sát việc thực hiện tái cơ cấu trong ba lĩnh vực trọng tâm, trong đó có hệ
thống ngân hàng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, trong vòng 15 năm trở lại đây,
Việt Nam đã 3 lần tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, một lĩnh vực rất nhạy cảm
với thị trường, xã hội.
Đó là các giai đoạn sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, từ 1998 2003, giai đoạn Việt Nam bắt đầu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), từ
2005-2008; và giai đoạn cơ cấu lại nền kinh tế, từ 2011-2015.
Kết thúc lần 1, đã đóng cửa, rút giấy phép 1 ngân hàng, sáp nhập 7 ngân hàng,
cho ngân hàng khác mua lại 1 ngân hàng, hợp nhất 1 ngân hàng thương mại cổ phần
nông thôn với 1 công ty tài chính cổ phần, chuyển 4 ngân hàng thương mại cổ phần
nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Giai đoạn này cũng xử lý nợ
xấu giảm từ 13% giai đoạn 1996-1998 xuống 5% năm 2003.
Tiếp theo, kết thúc lần 2 từ 2005-2008 đã chuyển đổi 12 ngân hàng thương mại


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP


cổ phần nông thôn thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Quy mô tài sản toàn hệ
thống năm 2010 tăng 10 lần so với 2001, lợi nhuận chung năm 2010 tăng hơn 20 lần so
với 2001, nợ xấu năm 2010 là 2,16%.
Trong tái cơ cấu lần 3, có 9 tổ chức tín dụng yếu kém cần sắp xếp chấn chỉnh.
Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần được sắp xếp, chấn chỉnh lần này cũng là
các ngân hàng đã từng tái cơ cấu hai lần trước.
Như, ngân hàng Đệ Nhất, Việt Nam Tín Nghĩa, Sài Gòn, Nhà Hà Nội đã tái cơ
cấu lần 1. Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội đã tái cơ cấu lần 2 (chuyển từ ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn Nhơn Ái).
Ngân hàng Nam Việt cũng đã tái cơ cấu lần 2 (chuyển từ ngân hàng thương mại
cổ phần nông thôn Sông Kiên). Cũng đã được tái cơ cấu lần 2 là Ngân hàng Phương
Tây (được chuyển từ ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Miền Tây), ngân hàng
Đại Tín được chuyển từ ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Rạch Kiến, ngân
hàng Dầu khí Toàn cầu được chuyển từ ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Ninh
Bình.
Từ thực tiễn hai lần tái cơ cấu trước, tái cơ cấu lần này tương tự lần thứ nhất
nhưng quy mô tài sản lớn hơn và có tính phức tạp hơn, báo cáo giám sát so sánh.
Và cho dù đã qua ba lần tái cơ cấu thì kết quả giám sát cho thấy sự phát triển
nhanh về số lượng các ngân hàng thương mại, chuyển đổi các ngân hàng thương mại
cổ phần nông thôn lên ngân hàng thương mại cổ phần đô thị chưa thực sự gắn kết với
việc đánh giá chất lượng quản trị ngân hàng (vốn chủ sở hữu, trình độ, chuẩn mực và
công nghệ quản trị), tạo sự bất ổn, mất an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, các giải pháp vừa qua về sắp xếp, chấn
chỉnh trong hệ thống ngân hàng chưa có sự thay đổi lớn về chất, chưa có sự tham gia
của các ngân hàng thương mại lớn, có tiềm lực tài chính mạnh trong quá trình tái cơ
cấu các ngân hàng nhỏ, yếu kém.


Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN

HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

Chỉ ra khá nhiều hạn chế vướng mắc trong tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, báo
cáo giám sát nhấn mạnh, cho đến nay vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống
tổ chức tín dụng Việt Nam thiếu minh bạch, vốn điều lệ ở một số ngân hàng thương
mại cổ phần không phản ánh đúng thực chất, dẫn đến nguy cơ chi phối, thao túng hoạt
động ngân hàng.
Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro và ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của từng tổ
chức tín dụng nói riêng cũng như toàn hệ thống tổ chức tín dụng nói chung, gây cản trở
đến quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đánh giá.
Một trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế trong tái cơ cấu ngân
hàng được chỉ ra tại báo cáo là một số giải pháp tái cơ cấu các tổ chức tín dụng mới
giải quyết những vấn đề trước mắt như vận động tự sát nhập, mua bán nhưng khó xử lý
được triệt để các tồn tại. (Vneconomy, 2014)
Quan trọng hơn, NHNN muốn có những ngân hàng lớn, vươn tầm khu vực. Áp
lực cạnh tranh ngày càng lớn, khi mà mức độ hội nhập của nền kinh tế ngày càng sâu,
các ngân hàng nội buộc phải lớn mạnh cả về quy mô, năng lực quản trị, trình độ để
thích nghi.
Thực hiện Đề án Tái cơ cấu các Tổ chức tín dụng theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, cùng với việc cơ cấu lại mạng lưới, quản trị điều hành, xử lý nợ
xấu..., các NHTM Việt Nam đang thực hiện cơ cấu lại nguồn nhân lực. Tất cả các giải
pháp tái cơ cấu ngành ngân hàng đều có liên quan mật thiết với nhau và đều tập trung ở
vấn đề con người, theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thị trường lao động ngành tài chính - ngân hàng đang đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức do tác động của khủng hoảng kinh tế kéo dài và hoạt động tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng thương mại đang diễn ra. Áp lực mất việc làm trở nên rõ ràng hơn
đối với từng cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng, buộc mỗi người phải tự học hỏi, trau



Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

dồi thêm các kiến thức chuyên môn để có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc.
Bên cạnh đó, cơ hội dành cho những nhân viên có kinh nghiệm, có năng lực và muốn
thử sức ở những môi trường tốt hơn, chuyên nghiệp và có chế độ đãi ngộ tốt hơn hay
thử sức thể hiện mình ở những vị trí cao hơn tại các ngân hàng khác cũng rất rộng mở.
Trong bối cảnh các ngân hàng tập trung tuyển dụng về chất lượng, tìm kiếm những ứng
viên có đủ kinh nghiệm và năng lực cho vị trí quản lý và nhân viên thì làn sóng dịch
chuyển nhân sự trong ngành ngân hàng sẽ vẫn tiếp tục diễn ra. Hoạt động kinh doanh
gặp khó khi sức khỏe doanh nghiệp yếu dần, trong khi ngành ngân hàng vẫn phải tiếp
tục tái cơ cấu đã dẫn đến những biến động tất yếu về nhân sự.
Tái cơ cấu nguồn nhân lực được xem xét từ các góc nhìn sau:
Tái cơ cấu mạng lưới và bộ máy gắn với tái cơ cấu nguồn nhân lực
Những năm trước đây, các NHTM chạy đua tăng vốn điều lệ theo lộ trình quy
định của pháp luật và định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu hội nhập.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng cạnh tranh phát triển mạng lưới với tốc độ nhanh, bao
gồm cả chi nhánh và phòng giao dịch, kể cả thành lập thêm nhiều phòng ban, bộ phận
thuộc trụ sở chính, công ty trực thuộc... nên nhu cầu tuyển dụng là khá lớn do đó quy
mô nguồn nhân lực tại các NHTM hàng năm tăng cao.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tái cơ cấu hiện nay, một mặt NHNN không cho mở
thêm mạng lưới đối với nhiều NHTM cổ phần, mặt khác, nhiều ngân hàng khác thấy
chưa hiệu quả nên không mở rộng thêm. Vì vậy, nhu cầu tuyển dụng mới nguồn nhân
lực giảm đi đáng kể. Khi các NHTM đang trong giai đoạn tốc độ phát triển mạng lưới
nhanh, thì trong các mục tuyển dụng thường rất hay tuyển chuyên viên quan hệ khách
hàng, giao dịch viên... Tuy nhiên, hiện nay, nhiều NHTM cổ phần đang tích cực tuyển
giám đốc chi nhánh, giám đốc phòng giao dịch. Các yêu cầu tuyển dụng đều ưu tiên
những người có kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm ở vị trí tương đương. Ngoài ra,
nhiều NHTM còn xem xét lại quá trình người tuyển dụng làm việc tại ngân hàng trước



Chương 2: NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP

đây, nhất là vấn đề nợ quá hạn, những sai sót về quy trình nghiệp vụ, vi phạm đạo đức
nghề nghiệp hay những thành tích về quan hệ khách hàng, về kinh doanh nói chung....
Đây là một tất yếu để sàng lọc, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình tái
cơ cấu NHTM. Nhìn chung, hiện nay nguồn tuyển dụng có tính chiến lược, hay tiêu
chuẩn quan trọng đầu tiên là người đã có kinh nghiệm thực tiễn tại các ngân hàng khác.
Điều này không quá khó hiểu bởi ngân hàng ưu tiên những người đã làm ở ngân hàng
khác để tận dụng kinh nghiệm, rút ngắn thời gian đào tạo, tiết kiệm chi phí đào tạo, đặc
biệt là tận dụng các mối quan hệ, khách hàng đã hình thành. Thực tế, thời gian qua đã
có sự luân chuyển công tác từ NHTM cổ phần này sang NHTM cổ phần khác ở cấp
tổng giám đốc như Tổng giám đốc của Techcombank sang làm Tổng giám đốc của VP
Bank. Trong khi đó, Tổng giám đốc VPBank sang giữ cương vị tương tự tại Ngân hàng
TMCP Tiên Phong. Đây là mục tiêu săn đón bởi ngoài kinh nghiệm, kiến thức, họ còn
có những "giá trị vô hình" khác đã được dày công gây dựng. Ngoài ra, trong bối cảnh
kinh tế còn nhiều khó khăn, vận hành một tổ chức tài chính không hề đơn giản. Do đó,
việc một hoặc vài lãnh đạo ngân hàng bị điều chuyển hoặc thay đổi công tác khác do
không đạt kế hoạch đề ra là điều dễ hiểu. Việc dồn dập thay tướng tại thời điểm này thể
hiện Hội đồng quản trị các ngân hàng mong muốn và hy vọng sẽ có sự đột phá trong
cách điều hành của những CEO mới để gia tăng lợi nhuận và giảm nợ xấu trong quá
trình tái cơ cấu mà NHNN đang quyết liệt cải tổ trong hai năm qua.
Đáng chú ý là việc chuyển đổi nhân sự tại Eximbank, ở vị trí Tổng giám đốc, từ
tháng 9/2013 tới nay, ngân hàng này đã 3 lần thay đổi chủ nhân của “ghế nóng”. Trước
đó, nguyên Tổng giám đốc Eximbank Trương Văn Phước từ nhiệm để nhận nhiệm vụ
mới do Thủ tướng giao ở Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Sau khi ông Phước ra đi,
ông Nguyễn Quốc Hương được bổ nhiệm giữ quyền Tổng giám đốc và chính thức làm
Tổng giám đốc từ tháng 12. Sau tròn 4 tháng, ghế CEO của ngân hàng này lại thay đổi
với chủ nhân mới là ông Phạm Hữu Phú (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị

Sacombank).


×