Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

đường lối đối ngoại , hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.68 KB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN:

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI , HỘI NHẬP
QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
GVHD: Cô Đỗ Lâm Hoàng Trang

Tp Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 09 năm 2013


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................2
1.Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối...................................5
1.1.Hoàn cảnh lịch sử.............................................................................................5
1.2. Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối.............................................10
1.2.1.Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.......................................................10


1.2.2.Giai đoạn (1996- đến nay): bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đối ngoại,
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.....................................................17
2.Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế........................................20
2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo......................................................20
2.2 . Một số chủ trương chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
kinh tế quốc tế......................................................................................................24
3.2. Hạn chế và nguyên nhân...............................................................................36
KẾT LUẬN....................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................39

2


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

ĐỀ TÀI:

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP
QUỐC TẾ THỜI KỲ ĐỔ MỚI
DANH SÁCH NHÓM 8:
STT
13
25
40
76
5
44
50

4
23
114
100

HỌ VÀ TÊN
Vũ Hoàng Thùy Dương
Trần Thị Thúy Hồng
Nguyễn Thị Lựu
Đặng Thị Mỹ Phượng
Nguyễn Thị Trâm Anh
Phạm Nhật Minh
Nguyễn Thị Ngọc Ngà
Nguyễn Thị Bảo Anh
Phan Ngọc Hiền (NT)
Nguyễn Thị Hồng Trúc

MSSV
NHIỆM VỤ
31121021059
1.hoàn cảnh lịch sử và quá trình
31121021026 hình thành đường lối
31121020990
31121021070
31121021015
2. nội dung đường lối đối ngoại,
31121021001
hội nhập quốc tế
31121021040
31121021038

3. thành tựu, ý nghĩa, hạn chế,
31121021039
nguyên nhân
31121020997

Lê Minh Toàn

31121021053

Mở đầu, kết luân, chỉnh sửa
powerpoint

Nhận xét của giảng viên hướng dẫn:
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô

3


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8


LỜI MỞ ĐẦU
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng và dần bị sụp đổ. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ hiện đại đã và
đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Các quốc gia trong
cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình mới. Trong
bối cảnh quan hệ quốc tế chuyển từ đối đầu sang đối ngoại, thế cực bị phá hoại, từ đó làm
nảy sinh xu hướng đa dạng hóa đa phương hóa trong quá trình toàn cầu hóa, phát triển
phụ thuộc lẫn nhau. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ASEAN
là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định
Hội nhập quốc tế được sử dụng để chỉ quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường
của một quốc gia với nền kinh tế và thị trường và khu vực thông qua các biện pháp tự do
hóa và mở cửa thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
Hội nhập quốc tế, trước hết và chủ yếu trên bình diện kinh tế, là một nội dung quan
trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta hướng tới việc kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, hội nhập quốc tế ngày càng trở nên cấp bách
đối với nước ta nhằm vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, đẩy lùi cuộc bao vây,
cấm vận thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, xây dụng bảo vệ tổ quốc.
Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ nghiên cứu đường lối đối ngoại, hội nhập quốc
tế trong thời kì đổi mới của Đảng và nhà nước ta
Bài tiểu luận của chúng em gồm ba phần:
Phần I: Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Phần II: Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế
Phần III: Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Đỗ Lâm Hoàng Trang đã giúp đỡ chúng em
hoàn thành bài tiểu luận này

4



Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới
1.

Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối.

1.1.

Hoàn cảnh lịch sử.

Nhóm 8

Từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Những
biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm mà
Việt Nam có thể tham khảo với các mức độ khác nhau.
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là
công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác đông sâu sắc đến mọi mặt đời sống
của các quốc gia , dân tộc, tác đông sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia , dân
tộc.
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật đã đưa lại những tiến bộ phi thường và những
thành tựu kì diệu:


Trong các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lí học, Hoá học, Sinh

học có nhiều phát minh mới… Đặc biệt là tạo ra được cừu Đôli bằng phương pháp sinh
sản vô tính (tháng 3-1997), lập được “Bản đồ gen người” (tháng 6-2000), giải mã hoàn
chỉnh bản đồ gien người (4-2003).


Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những


thành tựu to lớn:


Những công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…)



Nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…)



Vật liệu mới (chất pôlime, những vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền,

siêu dẫn…)


Công nghệ sinh học (công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi

sinh, công nghệ emzim, dẫn tới cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp)


Trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh

quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao)


Chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ).

5



Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới


Nhóm 8

Công nghệ thông tin với sự hình thành mạng thông tin toàn cầu (Internet),

được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn minh
nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin”.


Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. đến năm 1991,

chế độ chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế .trật
tự thế giới được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở 2 khối đối lập do
Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu ( trật tự thế giới 2 cực) tan rã, mở ra thời kì hình thành trật
tự thế giới mới.


. Sự không thành công của công cuộc cải tổ đã dẫn tới sự sụp đổ của CNXH

ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là một bài học phản diện. Sự sụp đổ đó là bằng chứng
về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch trơn", sử dụng "liệu pháp
sốc", giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.
Cái giá phải trả là rất đắt.


Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột , tranh


chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển. Các quốc
gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội đối
ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc
điểm cũa thế giới.


Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước , nhất là những nước đang

phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại,thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh
thủ vốn , kĩ thuật , công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lí
sản xuất kinh doanh.


Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế

cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự, bằng các chi tiêu tổng hợp trong đó
sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hang đầu.
Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó:

6


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh
tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra

phạm vi toàn cầu, trong đó hang hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động … vận động thông
thoáng, sự phân công lao động mang tính quốc tế, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, sự
phân công lao động mang tính quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới
quan hệ đa chiều.
Biểu hiện của toàn cầu hóa:


Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, giá trị tao đổi thương mại trên phạm vi
quốc tế đã tăng 12 lần. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là của các nước trên thế giới
quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng.


Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.

Theo số liệu của Liên hợp quốc, khoảng 500 công ti xuyên quốc gia lớn kiểm soát
tới 25 % tổng sản phẩm thế giới và giá trị trao đổi của những công ti này tương đương 3/4
giá trị thương mại toàn cầu.


Sự sát nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn, nhất là các

công ti khoa học kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và
ngoài nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỉ XX.


Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và

khu vực như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại


7


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Thế giới (WTO), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp ước Thương mại tự do Bắc Mĩ
(NAFTA), Hiệp ước Thương mại tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á
- Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM),...


Các tổ chức này có vai trò ngày càng quan trọng trong việc giải quyết

những vấn đề kinh tế chung của thế giới và khu vực.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng( tháng 1-2011) nhận
định: “ Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”.
Ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa:
Đại hội lần thứ nhất IX của Đảng chỉ rõ:” toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển
và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt
tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.


Những tác động tích cực của toàn cầu hóa:




Trên cơ sở thị trường mở rộng trao đổi hàng hóa tăng mạnh đã thúc đẩy phát

triển sản xuất của các nước,nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng
các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác.


Làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia,

thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.


Những tác động tiêu cực:



Các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hoá

tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước
giàu và nước nghèo .

8


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8





Toàn cầu làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người kém an

toàn hơn (từ kém an toàn về kinh tế, tài chính đến kém về an toàn chính trị), hoặc tạo ra
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của các quốc gia.


Toàn cầu hóa vừa là thời cơ, cơ hội lớn cho các nước phát triển mạnh, đồng

thời cũng tạo ra những thách thức lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam, là nếu bỏ lỡ thời cơ sẽ tụt hậu nguy hiểm.


Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt

hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, đồng
thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn thận trong các yếu tốt bất lợi để vượt qua. Dự
báo tình hình thế giới , Đảng nhận định: trên thế giới “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn
là xu thế lớn , nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó
lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc ly khai, chiến tranh cụa bộ, tranh
chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt...”
Tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Trong khu vực vẫn tồn tại những bất ổn như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp
chủ quyền biển đảo, tài nguyên và việc một số nước trong khu vực tang cường vũ trang ,
nhưng châu Á – Thái BÌnh Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định.
Châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu
thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.

9



Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
Chúng ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề và khó khăn thời hậu chiến
tranh; những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo, thực hiện đường lối, chủ trương chính
sách… Đó là những lí do khiến Đảng ta có những bước đột phá dẫn tới đổi mới và làm
chín muồi nhận thức và quyết sách đổi mới, trong đó, đổi mới tư duy lí luận về chủ nghĩa
xã hội là khâu đột phá.
Vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới
bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận
lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đạt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước,
cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài , trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp
táckinhte61 với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
1.2.

Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối

1.2.1. Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX do những điều kiện khắc nghiệt của
hoàn cảnh đất nước và cả do những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo và quản lý mà
đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trong bối cảnh đó Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã từng bước thử nghiệm tìm tòi con
đường đổi mới để đưa đất nước phát triển. Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ
hơn về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự

đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa
phương và cơ sở.
Đại hội VI của Đảng ( 12 /1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới
là cuộc cách mạng khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế

10


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: “ xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các
nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội khác nhau,cũng là những điều kiện rất
quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Từ đó Đảng chủ
trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và
đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ
nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế - xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ
thống pháp luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
Qua Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó
phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước
ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”. Thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn
quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản

xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong
khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận động trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và
vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI
Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể
nóng vội làm trái quy luật. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh
tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là
để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn
là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế

11


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định
nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt
khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán,
kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý

của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân
phối.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý
điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng
cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng
lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát
thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội.
Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành, khi nước ta còn trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội,
lạm phát phi mã, sản xuất và lưu thông chậm phát triển, làm không đủ ăn, buộc phải dùng
tem phiếu “phân phối sự thiếu thốn”; khi các nước “phương Tây” cấm vận đối với Việt

12


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Nam, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ bó hẹp trong khung khổ Hội đồng Tương trợ
kinh tế với 12 nước xã hội chủ nghĩa (cũ). Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được dư luận
quốc tế đánh giá cao. Hoạt động FDI là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế quốc tế nhờ
thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam có sức hấp dẫn hàng trăm nhà đầu tư quốc tế,

trong đó có các nước đang thi hành chính sách cấm vận đối với nước ta, điển hình là Mỹ.
Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam – mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiếtbị và kinh nghiệm tổ chức quản
lý sản xuất, kinh doanh và phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Tháng 5-1988, Bộ chính trị ra nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình tình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giư vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển
kinh tế. Bộ chính trị đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình
trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự phát triển
của cách mạng khoa học – kỹ thuật và xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới để tranh
thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nghị quyết số 13 của Bộ chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và
chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt nền
móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,mở rộng, đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xoá
bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương
của Đại hội V “ Nhà nước độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý
công tác ngoại thương”, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại
của Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng ( 6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hôi khác nhau, trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

13


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới


Nhóm 8

Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào và
Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần
bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc đẩy bình thường hoá quan hệ, từng
bước mở rộng hợp tác Việt – Trung. Trong quan hệ với khu vực, chủ trương phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho
một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đaị hội nhấn mạnh yêu
cầu thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại
hội lần thứ VII của Đảng thông qua, đã xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội
VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá
VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tê. Mở
rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị
trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn
chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng
bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ
đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực,
phù hợp với đặc điểm từng đối tượng.
Như vậy quan điểm chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội lần thứ
VI, sau đó được các nghị quyết trung ương từ khoá VI đến khoá VII phát triển đã hình
thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
quốc tế.


14


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Ngày 3/2/1994: TT Hoa Kỳ Bill Clinton thông báo quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận
thương mại đối với Việt Nam. Từ đây, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và có cơ
hội giao lưu thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vào ngày 28/7/1995,Việt Nam chình thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Sự kiện này là một dấu son trên con đường hội
nhập khu vực và thế giới, đưa nước ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc
tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế.
Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới”. Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngọai với các nhóm đối
tác như: ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan
hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết với các
nước đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho
hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. So với Đại hội VII, chủ trương
đối ngoại của Đại hội VIII có các điểm mới: một là, chủ trương mở rộng quan hệ với các
đảng cầm quyền và các đảng khác. Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong
đường lối đổi mới cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước,
giai cấp và dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn,
thách thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước
Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con đường

của chủ nghĩa xã hội và qua những năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.
Qua Đại hội VIII Có thể thấy rõ thành tựu của những năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận
thức lý luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh tế tiếp tục
tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995 là 8,2%, nền kinh

15


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá,
hiện đại hóa được đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng
kể. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố. Nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Quan hệ
đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân tin tưởng ở đường lối đổi mới và
sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng rõ hơn. Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng đường đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công cụ, giải pháp để thực
hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, rõ hơn về những mối quan
hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ
nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

Qua những năm bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số
bài học lớn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo,
bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân.

16


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

1.2.2. Giai đoạn (1996- đến nay): bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đối
ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc t ế
Đại hội VIII(diễn ra từ ngày 28/61/7/1996 tại Hà Nội) xác định rõ hơn quan
điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra
sức tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng và các nước trong tổ chức ASEAN;
không ngừng củng cố quan hệ với các nước
bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với
các nước phát triển và các trung tâm kinh tế chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết;
tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc
tế.
Tiếp tục khẳng định mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các

trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế.
Đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở và “đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới”.
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có các điểm mới:


Một là, chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng



Hai là, quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với

khác.
các tổ chức phi chính phủ.


Ba là, lần đầu tiên trên lĩnh vực đối ngoại Đảng đưa ra chủ trương thử

nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII (tháng 12-1997), chỉ rõ:
trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực

17


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8


bên ngòai. Nghị quyết đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
Hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO
Đại hội IX của Đảng (diễn ra từ 19-22/4/2001) tại Hà Nội:
Đảng chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ”
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối,
chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước.
Đại hội IX đã phát triển phương châm của Đại Hội VII là: “Việt Nam muốn làm
bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ”
thành “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”
Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước phát
triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới. Tháng 11-2001, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ
thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thứ
chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (ngày 5-1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị
tốt các điều kiện trong nước để sớm ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên
quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (diễn ra từ ngày 18-25/4/2006) nêu quan
điểm:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát
triển. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế.
Điểm mới so với đại hội IX chủ trương “ chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế”.



Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:

18


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh tế- xã hội nói chung và
hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Phải sáng tạo lựa chọn phương thức hành động đúng,
dự báo được những thuận lợi khó khăn khi hội nhập


Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:



Khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh

đạo, quản lý đến hoạt động thực tiên; từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp


Khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch,đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế,đổi mới cơ chế quản lí kinh tế hoàn chỉnh hệ thống pháp luật


Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế;




Tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng,
Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan
hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại
hội X (năm 2006) được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dang hoá các quan hệ quốc tế.
Đại hội XI (diễn ra từ ngày 12-19/1/2011 tại Hà Nội):


Tiếp nối và phát triển những quan điểm , chính sách đối ngoại mà Đảng ta

đã xây dựng và phát triển những quan điểm , chính sách đối ngoại mà Đảng ta đã xây
dựng và phát triển trong suốt hơn 80 năm tổ chức và lạnh đạo cách mạng Việt Nam.


Lợi ích quốc gia dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất của các

hoạt động đối ngoại.


Hội nhập quốc tế trở thành hướng đối ngoại lớn.

Điểm mới so với đại hội X: chuyển từ chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
đến” chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.


19


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới
2.

Nhóm 8

Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế
2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo

Với một nước có nền kinh tế thấp kém như Việt Nam thì hội nhập quốc tế đem lại
rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.


Cơ hội

Thứ nhất: Với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội
nhập đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của quá trình tham
gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt
Nam. Từ nhận thức này trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong
chính sách phát triển kinh tế đối ngoại, các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất
nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai: Tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện quốc tế để tranh
thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam là nước
có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho việc phát triển các ngành
khai thác chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với
những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị trường thế giới.

Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ,
khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chi phối
mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao
động. hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị
mới và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do
quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ
mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty nhật bản khi phân tích lợi thế môi
trường kinh doanh của các quốc gia asean, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số các quốc
gia (10 quốc gia) lớn hơn Lào, Campuchia và Myanma
.

20


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai thông giao
lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công
chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như
vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham
gia vào hội nhập và qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao
động Việt Nam.
Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất
nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát
triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết quả rất đáng
tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2 lần, từ nước nhập khẩu

lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo lớn. Năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt
Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55 triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới.
Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân được cải
thiện. thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm: Mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không phải hội nhập với
hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực cùng với sự ổn đinh về chính trị
xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất định sau hơn 17 năm đổi mới, hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. nhận thức một cách
đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn bên cạnh các thuận lợi chung cho mọi
thành phần kinh tế.

21


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới



Nhóm 8

Thách thức:

Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế Việt Nam còn nhiều thách thức trong
đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất: Tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng
nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động quốc
tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ

chủ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ
bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành
“bãi rác” của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (dnvvn) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai: Sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá thấp do
đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong
điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên
Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội
địa theo AFTA, WTO có thể biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước
ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho
hàng hoá của các dnvvn bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ ba: Do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp, cộng
với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị tổn thương và bị thao túng nếu
tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng
tăng.
Thứ tư: Hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền
lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cức trực tiếp đến an ninh
kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối loạn và làm lợi cho các thế lực bên ngoài. Vấn

22


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích
tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra.
Thứ năm: Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực
mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép

buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục đích phát triển.


Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo



Mục tiêu nhiệm vụ đối ngoại .

Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc .
Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn
lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


Tư tưởng chỉ đạo:

Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc
các quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của
Việt Nam.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc
đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng

đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thê giới, không
phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực;chủ
động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực toàn cầu.

23


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

Năm là: Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
Sáu là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế – xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tê quốc tế.
Bảy là: Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi
thế so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tám là: Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải
cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và
Nhà nước.
Chín là: Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò
của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
2.2 . Một số chủ trương chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế
Trung ương 4 khoá X (2/2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn
như:Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội

nghị
Đưa các quan hệ đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững: Hội nhập
sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành
viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một
trận tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi
doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương mại với các nước khác, hạn chế
được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế


Hiện tại Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 178 nước thuộc tất cả

các châu lục, trong đó có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; xuất khẩu
hàng hoá tới trên 230 thị trường, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần

24


Đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới

Nhóm 8

60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và
nhiều Hiệp định khác…

Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các tổ
chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động
và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần vận dụng các ưu đãi mà WTO
dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội
nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.


Một lộ trình “ quá nóng” về mức độ %, thời hạn mở của thị trường vượt quá
khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp,
vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường
− Nhưng nếu kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách
bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công
nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời gian
mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy
lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập
ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng
hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành,
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công bằng,
thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.

25


×