Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phân tích các biện pháp điều chỉnh các tỷ giá hối đoái của việt nam trong thời gian 2008 2013 theo bạn trong các biện pháp trên, biện pháp nào là hiệu quả nhất, vì sao đề xuất giải pháp của nhóm trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.44 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong các quan hệ kinh tế, thương mại và các quan hệ khác giữa các chủ thể khác
nhau của các quốc gia khác nhau thường nảy sinh nhu cầu trao đổi giữa tiền tệ của các quốc
gia này để phục vụ cho việc thanh toán tiền tệ. Do mỗi quốc gia có luật pháp và phương thức
điều chỉnh tiền tệ khác nhau nên khi ký hợp đồng, hiệp định, các bên phải thỏa thuận với
nhau sẽ sử dụng đồng tiền của nước nào làm đồng tiền tính toán/thanh toán. Việc này dẫn tới
vấn đề cần xác định tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiển để thuận lợi trong chuyển đổi và thanh
toán.Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái đóng vai trò rất lớn trong ngoại thương. Không những vậy,
tỷ giá hối đoái còn có tác động đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả
trong nước ,lạm phát khả năng sản xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp…
Trong thời gian gần đây, cụ thể là trong giai đoạn 2008-2013, tỷ giá hối đoái của Việt
Nam luôn nằm trong tình trạng bất ổn, tăng giảm thất thường qua từng thời kì khác nhau.
Điều này dẫn tới những biến động không ngừng của nền kinh tế nước nhà. Bàn tay của chính
phủ càng trở nên có vai trò quan trọng hơn trong việc bình ổn giá cả, bình ổn tỷ giá hối đoái,
cũng là bình ổn cán cân thương mại, mang lại sự phát triển cân bằng cho nền kinh tế trong
thời kì biến động khôn lường của kinh tế chính trị thế giới.
Vì những lý do trên, trong phạm vi một tiểu luận, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu
hơn về tình hình tỷ giá hối đoái của Việt nam trong thời kì 2008-2013, và những biện pháp
của chính phủ Việt Nam trước tình hình đó. Đồng thời, trong tầm hiểu biết của mình, chúng
tôi cũng mong muốn được đưa ra những đánh giá, nhận định về hiệu quả các biện pháp của
Nhà nước, từ đó đề xuất các giải pháp cho thời gian sắp tới. Chúng tôi tin rằng tiểu luận này
sẽ mang tới cho người đọc cái nhìn khái quát hơn về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị
trường Việt Nam, đồng thời đây sẽ là nền tảng để chúng tôi có thể tiến hành các nghiên cứu
sâu hơn về vấn đề này trong tương lai.

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI (TGHĐ)


1. Khái niệm về TGHĐ
a. Khái niệm cơ bản : là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau.

2


b. Khái niệm thị trường: là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn
vị tiền tệ nước kia.
c. Ngoài ra còn nhiều khái niệm khác nhau:
Theo PLNH 2005: TGHĐ của đồng VN là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính
bằng đơn vị tiền tệ của VN.
Theo Tài chính QT hiện đại trong nền kinh tế mở (N.V. Tiến): TGHĐ là giá cả của
một đồng tiền được biểu thị bằng một đồng tiền khác.

2. Tầm quan trọng của TGHĐ
TGHĐ giữ vai trò quan trọng với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động
sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai
điểm cơ bản sau:
Cân bằng ngoại thương : Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá (so với đồng tiền
khác) thì hang hóa nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hóa nước ngoài tại nước
đó lại rẻ hơn, và ngược lại (các yếu tố khác không đổi). TGHĐ tác động đến hoạt động xuất
nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng dư
cán cân.
Cân bằng sản lượng, công ăn việc làm và lạm phát: nếu TGHĐ có sự gia tăng liên
tục trong qua các năm có nghĩa lạm phát tăng. Đối với sản xuất, sự gia tăng của hàng nhập
khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh, phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công ăn
việc làm, giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên, và ngược lại.

3. Các nhân tổ chủ yếu tác động đến sự biến đổi TGHĐ
a. Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp :

Tình hình dư thừa hay thiếu hụt của Cán cân TTQT
Nếu thu > chi  CCTT dư thừa  khả năng cung cấp ngoại hối > nhu cầu về ngoại hối
 TGHĐ giảm

Nếu thu < chi  CCTT thiếu hụt  khả năng cung cấp ngoại hối < nhu cầu về ngoại
hối  TGHĐ tăng lên
Thu nhập thực tế của người dân tăng
Những nhu cầu về ngoại hối tăng (do nhu cầu về hàng hóa dịch vụ nhập khẩu tăng khi
mà nền kinh tế có sự tăng trưởng ổn định)
b. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước (nước nào có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao
hơn lãi suất tiền gửi của các nước khác thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh
lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng lên, TGHĐ sẽ giảm xuống).
3


c. Mức chênh lệch lạm phát của hai nước (giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành
mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự
do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước
nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền của
nước còn lại).
Ngoài những yếu tố nêu trên, TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác, chẳng
hạn như yếu tố tâm lý, chính sách của chính phủ, uy tín của đồng tiền,…
4.

Các chính sách và biện pháp điều chỉnh TGHĐ

Điều chỉnh TGHĐ là việc nhà nước dùng các biện pháp kinh tế hoặc tài chính để can
thiệp vào thị trường hối đoái nhằm điều chỉnh TGHĐ đó biến động theo chiều hướng hoặc
trong mức độ mong muốn. Có các biện pháp chính sau:
a. Chính sách chiết khấu của NHTW (Discount policy)

Là chính sách của NHTW dùng để thay đội tỷ suất chiết khấu của Ngân hàng mình
nhằm điều chỉnh TGHĐ trên thị trường.
Khi TGHĐ lên cao NHTW nâng cao tỷ suất chiết khấu  lãi suất thị trường tăng; vốn
ngắn hạn chảy vào thị trường trong nước; dịu sự căng thẳng của cung cầu  TGHĐ giảm
Chính sách này sẽ rất phù hợp khi tình hình kinh tế, chính trị, tiền tệ trong nước ổn
định. Tuy nhiên, chính sách này có thể làm giảm sự lệ thuộc của NHTM đối với NHTW.
b. Chính sách hối đoái
Là chính sách mà NHTW hoặc các cơ quan ngoại hối của Nhà nước trực tiếp tham gia
mua bán ngoại hối trên thị trường tự do nhằm tác động trực tiếp vào TGHĐ
Khi TGHĐ tăng, NHTW bán ngoại hối
Khi TGHĐ giảm, NHTW mua ngoại hối
Chính sách tương hỗ SWAP (Swing agreement of payment)
Chính sách này linh hoạt và chủ động hơn chính sách chiết khấu; có thể thay đổi giá
mua, giá bán theo thị trường.

c. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái
Là hình thức biến tướng của chính sách thị trường tự do nhằm tạo ra một cách chủ
động một lượng ngoại hối dự trữ để ứng phó với biến động của TGHĐ thông qua việc hoạt
động công khai của Nhà nước trên thị trường.

4


Có 2 cách lập quỹ: Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền trong nước và Dùng vàng
để lập quỹ.
d. Phá giá tiền tệ
Là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn sức mua thực
tế của nó hay là nâng cao TGHĐ của một đơn vị ngoại tệ.
Tác dụng: đẩy mạnh XK, hạn chế NK; khuyến khích NK vốn, hạn chế XK vốn;
khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài; cướp không một phần

giá trị thực tế của những ai nắm trong tay đồng tiền bị phá giá.
e. Nâng giá tiền tệ
Là việc nâng cao đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại tệ cao hơn sức mua thực tế
của nó.
Tác dụng: ngược lại với phá giá tiền tệ.

5


CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1. Tình hình cán cân thương mại củaViệt Nam ( 2008-2013)
Cán cân vãng lai ( tỷ USD)
Cán cân vốn ( tỷ USD)
Cán cân tổng thể
Tỷ giá( cuối năm, VND)

2008
-10,79
12.34
0.47
16,977

2009
2010
2011
2012
-6,1
-4,3
-0,7

2,84
6.76
5.63
8.6
9.34
(8.88)
(1.77)
1.6
7,84
17,941
18,932
21,043
21,300
(Nguồn: IMF country Report Vietnam)

Theo trang web của Ngân hàng Nhà nước, trong buổi gặp mặt cuối năm với các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế và các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, Phó Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho biết, cán cân tổng thể năm 2012 ước đạt thặng
dư 10 tỷ USD.

6


Trước đây, cán cân tổng thể đạt thặng dư kỷ lục vào năm 2007, năm đầu tiên Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhưng sau đó, thặng dư cán cân thanh
toán giảm mạnh vào năm 2008, khi CPI lên mức cao nhất kể từ năm 1992, cộng với khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Cán cân tổng thể thâm hụt kỷ lục vào năm 2009.
Đến năm 2011, cán cân tổng thể mới thặng dư trở lại với 2,5 tỷ USD. Mức thặng dư năm
2012 cao hơn nhiều so với các dự báo từ đầu năm cho tới gần đây. Đầu năm, Ngân hàng Nhà
nước dự báo thặng dư khoảng 3 tỷ USD.

Cán cân tổng thể thặng dư do nhiều yếu tố.
Đầu tiên, cán cân vãng lai cũng thặng dư khá. Cán cân vãng lai có 4 nội dung là cán
cân thương mại, cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập đầu tư và cán cân chuyển tiền. Trong đó,
cán cân thương mại và cán cân chuyển tiền đạt thặng dư.
Cán cân thương mại bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa. Nếu tính xuất khẩu
tính theo giá FOB, nhập khẩu tính theo giá CIF, các năm trước, Việt Nam nhập siêu khá lớn
(năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 :18 tỷ USD, năm 2009 là 12,9 tỷ USD, năm 2010 là
12,6 tỷ USD, năm 2011 : 9,8 tỷ USD) nhưng năm 2012 đã xuất siêu 284 triệu USD.
Nhưng nếu xuất nhập khẩu đều tính theo giá FOB (giá CIF cao hơn giá FOB bình
quân khoảng 8%), mức xuất siêu lớn hơn nhiều và cán cân thương mại thặng dư khoảng 9,4
tỷ USD.
Nguồn thu chuyển tiền cũng thặng dư khá, nhờ lượng kiều hối cả năm có thể đạt gần
10 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay. Trong khi đó, cán cân dịch vụ và cán cân thu nhập đầu
tư thâm hụt. Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu dịch vụ năm 2012 ước 3,1 tỷ USD, trong đó
dịch vụ du lịch xuất siêu 4,7 tỷ USD, dịch vụ vận tải nhập siêu 6,6 tỷ USD, các dịch vụ khác
nhập siêu 1,2 tỷ USD).
7


Thứ hai, cán cân vốn đạt thặng dư, gồm 6 khoản (đầu tư trực tiếp, vay trung, dài hạn,
vay ngắn hạn, đầu tư vào giấy tờ có giá, tiền và tiền gửi, tài sản khác). Trong số đó, 5 khoản
đầu đạt thặng dư. Đầu tư trực tiếp đạt thặng dư lớn nhất nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
khá (12,2 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay), so với đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước
ngoài (ước 1,2 tỷ USD).
Vay trung, dài hạn sau khi trừ đi phần trả nợ gốc, cũng đạt thặng dư. Vay ngắn hạn,
sau khi trừ đi phần trả nợ gốc, cũng đạt thặng dư. Đầu tư vào giấy tờ có giá của nước ngoài,
sau khi trừ đi phần đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, cũng đạt thặng dư.
Cán cân tổng thể đạt thặng dư lớn đã góp phần tích cực cho ổn định kinh tế vĩ mô,
góp phần làm tăng sức mạnh tài chính quốc gia. Nhờ vậy, mặc dù Ngân hàng Nhà nước cung
ứng ra thị trường một lượng lớn nội tệ để mua ngoại tệ (tốc độ tăng tổng phương tiện thanh

toán ở mức khá cao) nhưng không gây áp lực lạm phát, mà trái lại lạm phát năm nay thấp hơn
nhiều so với năm trước, vừa góp phần chống "đô la hóa".
Tỷ giá giảm trong nhiều tháng, tính chung cuối năm 2012 giảm 0,96% so với cuối
năm trước, góp phần giảm áp lực tâm lý kỳ vọng lạm phát, vừa không làm khuếch đại lạm
phát trong nước.
Có thể thấy, tình trạng cán cân vãng lai ở Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt từ
năm 2008-2011:
Xét về cán cân thương mại .Theo số liệu từ tổng cục Hải quan :
( Đơn vị : tỷ đồng)
Tổng kim ngạch XNK
143,4
127,05
157
203,66
228,37

2008
2009
2010
2011
2012

Xuất khẩu

Nhập khẩu

62,69

80,71


72,19
96,91
114,57

84,8
106,75
113,79

2008, cán cân thương mại hàng hoá thâm hụt 12,85 tỷ USD
2009, Nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
2011, cán cân thương mại thâm hụt 9,84 tỷ USD, bằng 10,2% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam
2012, Cán cân thương mại hàng hoá cả nước xuất siêu 780 triệu USD (trong khi năm
2011 nhập siêu 9,84 tỷ USD).
Tính từ đầu năm đến hết tháng 9 năm 2013, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của
Việt Nam đạt 192,53 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu đạt
96,27 tỷ USD, tăng 15,5% và nhập khẩu là 96,26 tỷ USD, tăng 15,1%. Kết quả là cán cân
thương mại hàng hoá của Việt Nam khá cân bằng trong 3 quý tính từ đầu năm 2013.
8


Tình hình cán cân thương mại nói riêng và CC thanh toán nói chung có chiều hướng
tốt lên.
Biểu đồ 1: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại hàng hoá của Việt
Nam theo tháng của năm 2012 và quý I/2013

Nguồn: Tổng cục Hải quan

2. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái từ năm 2008 đến 2013
Diễn biến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam được chia là hai giai đoạn chính: từ 2008 đến

2010 và từ 2011 đến nay.
a. Giai đoạn I - từ 2008 đến 2010: Tỷ giá bán USD/VND của Vietcombank tăng từ
16.112 (tháng 1/2008) lên đến 19.500 (tháng 12/2010)

9


Giai đoạn 2008-2010đánh dấu sự biến động trong các phản ứng chính sách tỷ giá ở
Việt Nam với sự gia tăng mạnh, cụ thể: năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,07%, năm
2010 tăng 9,68%. Hình trên cho thấy tỷ giá đã có những biến động mạnh trong năm 2008 do
lạm phát tăng cao trong nửa đầu năm và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bắt đầu tác
động tới nền kinh tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008.
Xu hướng chung của năm 2009 và 2010 là sự mất giá danh nghĩa của VND so với
USD. Cho đến cuối năm 2009, tỷ giá chính thức USD/VND đã tăng 5,6% so với cuối năm
2008. Trong khi trong năm 2008,tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến động liên tục, đầu năm
còn có giai đoạn thấp hơn tỷ giá chính thức, thì năm 2009 lại là một năm mà tỷ giá NHTM
luôn ở mức trần của biên độ giao động mà NHNN công bố. Trong một thời gian ngắn, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi mạnh tỷ giá giữa đồng Việt
Nam và đồng đô la Mỹ. Lần thay đổi thứ nhất vào ngày 26/11/2009, tỷ lệ phá giá là 5,44%,
đồng thời NHNN thu hẹp biên độ biên độ giao động của tỷ giá từ 5% xuống 3%. Lần thay đổi
thứ hai, chỉ cách lần thứ nhất chưa đầy 2 tháng, vào ngày 11/2/2010 tỷ giá VND/USD tăng
thêm 3,36%. Trước sức ép của thị trường, tháng 8/2010, NHNN buộc phải tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng thêm 2,1%, lên mức 18.932 đồng/USD. Những thay đổi chính sách tỷ
giá có thể đem lại những tác dụng tức thời nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường
ngọai tệ, nhưng sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường bằng quyết định hành
chính sẽ để lại cho xã hội tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ khiến tỷ giá trên thị trường tự
do ngày càng rời xa tỷ giá chính thức. Hơn nữa, tình trạng nhập siêu kéo dài và ngày càng
tăng từ tháng 3 đến cuối năm. Giá trị xuất khẩu trong cả năm giảm 10% so với năm 2009 chủ
10



yếu do mặt bằng giá xuất khẩu giảm đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Mặc dù xuất khẩu tăng vào cuối năm nhưng trong tháng 11/2010, nhập siêu lên tới hơn
2 tỷ USD khiến cho cầu USD tăng cao cũng góp phần làm tăng tỷ giá hối đoái. Cuối tháng
11, tỷ giá tăng vọt lên mức 21.380 - 21.450 đồng/USD, trên thị trường tự do tỷ giá vượt qua
mức 21.500 đồng/USD.
Thêm vào đó, chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế đã khiến
cho nhu cầu về USD càng tăng để phục vụ việc nhập khẩu vàng. Giá vàng và USD đều đã
tăng mạnh. Người dân đẩy mạnh mua ngoại tệ trên thị trường tự do, giá USD trên thị trường
chợ đen tăng mạnh. Do khan hiếm nguồn cung USD, các doanh nghiệp cũng phải nhờ đến thị
trường chợ đen hoặc phải cộng thêm phụ phí khi mua ngoại tệ tại các NHTM. Tâm lý hoang
mang mất lòng tin vào VND làm tăng cầu và giảm cung về USD đã đẩy tỷ giá thị trường tự
do tăng lên hàng ngày. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chợ đen so với tỷ giá chính thức đến
10%. Đây là mức chênh lệch cao nhất trong lịch sử tài chính Việt Nam từ năm 1990.
b. Giai đoạn 2: từ năm 2011 đến tháng 10 năm 2013
Từ 2011 đến 2012:
So với tháng 12 năm trước sau khi tăng khá cao trong thời kỳ 2008-2010, tỷ giá hối
đoái đã tăng chậm lại vào năm 2011 (tăng 2,24%), giảm vào năm 2012 (giảm 0,96%) và tiếp
tục tăng thấp trong 11 tháng năm 2013 mặc dù giá vàng trong nước vẫn cao hơn nhiều so với
giá vàng thế giới.
Năm 2012 được phân rõ hai thái cực, nửa đầu năm, tỷ giá VND/USD có xu hướng
tăng nhẹ, trong khi 6 tháng cuối năm lại điều chỉnh giảm. Đây là một hiện tượng ngược lại
diễn biến tỷ giá trên thị trường trong những năm xáo trộn (2008-2011) khi tỷ giá luôn biến
động theo chiều hướng tăng dần từ đầu năm đến cuối năm. Điều đáng nói, quy luật biến động
mạnh của tỷ giá vào những tháng cuối năm, kèm với sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và
tỷ giá thị trường tự do thường ở mức khá cao đã không tái hiện trong năm 2012. Mặc dù, cuối
tháng 8, đầu tháng 9/2012, tỷ giá tự do nhích lên và bỏ xa thị trường chính thức một khoảng
khá lớn, nhưng nhanh chóng trở lại bám sát tỷ giá chính thức. Đây chính là một điểm sáng
trong điều hành thị trường ngoại hối trong năm 2012.
10 tháng đầu năm 2013:

Tỷ giá ổn định ở quý I/ 2013
nhưng, sang đầu quý II/2013, thị trường đã
có những biến động. Cụ thể là, từ cuối
tháng 4/2013 đến cuối tháng 6/2013, nhiều
11


ngân hàng thương mại (NHTM) đã nâng giá USD lên kịch trần cho phép 1 USD đổi 21.036
VND. Thậm chí tại số đông NHTM tăng giá mua lên kịch trần 21.036 VND, trong khi giá
bán USD trên thị trường tự do lên tới 21.320 VND. Trước áp lực đó, cộng với một số diễn
biến kinh tế vĩ mô khác, kể từ ngày 28/6/2013, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ giá
liên ngân hàng lên thêm 1% so với trước đó. Theo đó, các NHTM cũng đồng loạt điều chỉnh
tăng tỷ giá mua - bán ngoại tệ của mình.
Sau đợt điều chỉnh đó, bắt đầu từ đầu tháng 7/2013, tại các NHTM, tỷ giá VND/USD
được niêm yết phổ biến ở mức từ 21.110-21.140 VND/USD (mua vào) và 21.220-21.230
VND/USD (bán ra), tăng từ 5-20 VND/USD so với ngày 28/6/2013 và tăng bình quân 1% so
với trước ngày 28/6/2013. Giá USD trên thị trường tự do những ngày cuối tháng 6 và đầu
tháng 7/2013 cũng biến động. Cụ thể, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do tại Hà Nội sáng
ngày 1/7/2013 niêm yết ở mức 21.380 - 21.430 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 30 đồng
mua vào và giảm 20 đồng bán ra so với chiều ngày 28/6/2013; tiếp đó đến ngày 8/7/2013 lại
tăng lên 21.800 VND/USD. Nếu nhìn vào diễn biến tỷ giá dài hơn, tức là trong 5 năm gần
đây có thể thấy, theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2013 (tính đến
trước ngày 28/6/2013) chỉ tăng có 0,84%; nhưng, nếu tính đến đầu tháng 7/2013 so với đầu
năm, thì đã tăng tới 1,84%.
Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm, tỷ giá liên tục có xu hướng giảm, cụ thể tính
đến ngày 30/11/2013, tỷ giá bán USD ở Vietcombank là 21,120 VND
Có được kết quả trên là do sự kết hợp linh hoạt các biện pháp điều hành chính sách tỷ
giá của Ngân hàng Nhà nước trong suốt năm 2012, nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ. Ngoài
ra, diễn biến thuận lợi của cán cân thương mại, cán cân tổng thể trong năm 2012, cụ thể:
Do lượng ngoại tệ vào Việt Nam từ các nguồn có dấu hiệu tăng lên và đạt khá cùng

với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ năm 2008 đến 2012 đăng ký thấp, nhưng thực
hiện liên tục đạt trên dưới 11 tỷ USD; ước 11 tháng 2013 đạt 10,55 tỷ USD, tăng 6% so với
cùng kỳ năm trước, là tín hiệu khả quan để cả năm đạt đỉnh cao nhất từ trước tới nay (vượt
11,5 tỷ USD của năm 2008), cao hơn năm 2012 (10,5 tỷ USD). Lượng vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) cũng tăng cao.
Lượng kiều hối do Việt kiều và lao động làm việc ở nước ngoài gửi về nước năm
2012 lần đầu tiên vượt qua mốc 10 tỷ USD; năm 2013 có thể đạt 11 tỷ USD. Lượng ngoại tệ
do khách quốc tế đến Việt Nam chi tiêu năm 2013 ước đạt kỷ lục mới, với 7,7 tỷ USD so với
kỷ lục năm 2012 là 6,83 tỷ USD (lượng khách quốc tế đến Việt Nam 11 tháng qua đạt 6,8
triệu lượt, tăng 12% so với năm 2012).
12


Những nguyên nhân trên đã làm tăng nguồn cung USD, góp phần cân bằng cung cầu
trên thị trường Việt Nam.
Hơn nữa, do lạm phát đã được kiềm chế trong năm 2012 và tiếp tục được kiềm chế
trong năm 2013, làm cho nhu cầu tìm nơi trú ẩn là vàng và ngoại tệ mạnh không còn lớn như
những năm lạm phát cao. Hơn thế nữa, tâm lý găm giữ ngoại tệ làm cho tình trạng đô la hóa
khá cao trước đây cũng có xu hướng giảm, nên nhiều doanh nghiệp và người dân bán ngoại tệ
cho ngân hàng và bán ra thị trường, làm giảm áp lực tăng giá USD.
3.

Biện pháp đư ợc cho là hiệu quả nhất

Lựa chọn chính sách hối đoái.
Ưu điểm:
Điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhanh chóng qua đó tác động mạnh đến tỷ giá.
Kiểm soát chính xác khối lượng giao dịch
Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều khi có sai sót


13


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong
thời gian qua
Mặc dù đã luôn được cố gắng hoàn thiện, chính sách TGHĐ của Việt Nam cần phải
được điều chỉnh thường xuyên, phải luôn sửa đổi và bổ sung các giải pháp. Nếu không tiếp
tục sửa đổi có thể đối mặt với một số khó khăn như sau:
Tâm lý chờ đón phá giá VND vẫn luôn thường trực, gắn liền với cách tính toán và
công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN khiến cho tỷ giá thực của thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng có xu hướng tăng thêm với mức được phép là 0.1%, tạo thành cấp số lũy thừa
liên tục của hệ số 1.001 là khá lớn.
Để tránh xu hướng này, NHNN phải thường xuyên sử dụng dự trữ ngoại tệ can thiệp
nhằm kiểm soát tỷ giá giao dịch thực tế của thị trường liên ngân hàng. NHNN phải chịu áp
lực trực tiếp từ thị trường cung – cầu ngoại tệ căng thằng, mà khả năng dự trữ ngoại tệ rất
mỏng.
Do thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo, chưa phản ánh được
toàn bộ cung – cầu ngoại tệ của đất nước nên bản thân lượng dự trữ bỏ ra để can thiệp hết sức
hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát dao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi
hạn hẹp tương ứng. Theo đó, xét cả về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới
vẫn có độ cứng nhắc khá cao.
Do các khó khăn trên, việc công bố tỷ giá bình quân của NHNN sớm muộn cũng phải
quay trở lại mức ổn định chủ quan theo hướng cố định và giảm dần (không khác với cách tính
toán và công bố tỷ giá danh nghĩa). Về bản thân việc bỏ mặc tỷ giá danh nghĩa vào những lúc
thị trường biến động phức tạp thì chính NHNN sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực
tế.
Cầu ngoại tệ theo hình thức giao dịch kỳ hạn sẽ gia tăng mạnh do tỷ lệ % cộng thêm
vào mức trần tỷ giá giao ngay xét ra là khá cao. Đây cũng là một trong số những áp lực đối
với tỷ giá.

Việc bỏ hẳn ấn định TGHĐ danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo
một số cân đối lớn của nền kinh tế như: cán cân vay trả nợ nước ngoài; cán cân thanh toán
vãng lai; tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế; thu chi ngân sách; … Đặc biệt sẽ khó
tính toán các mức lãi suất danh nghĩa trong khi chính sách lãi suất rát cần ổn định lúc này để
khuyến khích đầu tư.

14


Hiện nay có nhiều quan điểm trái ngược nhau trong việc điều hành TGHĐ và quản lý
ngoại hối:
Có quan điểm cho rằng: phải bằng mọi biện pháp để ổn định tỷ giá, thậm chí “đông
cứng” để tạo động lực cho sự ổn định kinh tế, giảm rủi ro cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị và các
công nghệ tiên tiến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tránh nguy cơ tụt
hậu. Đồng nội tệ mạnh chính là một điều kiện cho một nền kinh tế vững mạnh, tăng trưởng
năng động.
Có quan điểm phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên: trong điều kiện đồng USD đang
lên giá so với các đồng tiền khác, nếu chúng ta giữ cố định VND thì sẽ làm cho hàng hóa,
dịch vụ sản xuất trong nước có giá cao tương đối so với các nước trong khu vực, kéo theo
một môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Do vậy, nhất thiết phải phá giá VND ở mức cao hơn các
nước trong khu vực đã làm.

2. Mục tiêu, định hướng và nguyên tắc thực hiện
2.1 Mục tiêu

Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ.
Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền

chuyển đổi.
Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá.
2.2 Định hướng
Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước.
Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có
quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội
nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá
này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà
nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá.

15


Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp
lý các doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác
cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu
cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.
2.3 Nguyên tắc thực hiện
Thứ nhất, thông qua lý thuyết về tỷ giá và chính sách tỷ giá cũng như việc phân tích
chính sách tỷ giá Việt Nam trong thời gian qua cho thấy trong phạm vi điều chỉnh của chính
sách tỷ giá nằm trong lĩnh vực tiền tệ nhưng định hướng của chính sách tỷ giá có ảnh hưởng
đến các khía cạnh kinh tê vĩ mô khác. Do đó, chính sách tỷ giá phải được đặt trong sự phối
hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác mà trước hết là chính sách tiền tệ quốc
gia. Có nghĩa là hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá phải xuất phát từ định hướng phù
hợp với các mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn.
Thứ hai, các lĩnh vực, các khía cạnh trong nền kinh tế thường có những mâu thuẫn
đối nghịch nhau. Việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái trong từng giai đoạn phải xác định
được những biến số nào có trọng số lớn hơn và phải chấp nhận hy sinh một vài biến số khác.

Thứ ba, xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái phải trên cơ sở phát triển thị trường tiền
tệ trong nước và có sự hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế . Và không ngừng hướng tới
việc nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở ổn định giá trị đồng tiền, duy trì sự tương
đồng hợp lý giữa giá trị đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.
2.3.1

Nguyên tắc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái

Vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá cần phải có sự phân tích dự báo xem nền kinh tế có thể
phải gánh chịu những cơn sốc như thế nào trong tương lai. Chế độ tỷ giá được lựa chọn phải
giúp hạn chế tác động của những cơn sốc lên nền kinh tế. Ví dụ đối với cơn sốc có nguồn gôc
từ thị trường tiền tệ trong nước thì một chế dộ tỷ giá hối đoái cố định sẽ chỉ làm thay đổi dự
trữ ngoại tệ quốc gia mà không làm lây lan sang thị trường hàng hóa. Ngược lại đối với một
cơn sốc có nguồn gốc từ bên ngoài hay từ thị trường hàng hóa trong nước thì một chế độ tỷ
giá hối đoái có tính linh hoạt cao sẽ làm giá cả hàng hóa nhập khẩu được điều chỉnh theo
những thay đổi tỷ giá, từ đó điều chỉnh lại mức cầu trong nước, vì vậy sẽ tránh cho nền kinh
tế khỏi bị rối loạn.
16


Vấn đề lựa chọn tỷ giá hối đoái phải nhằm mục tiêu ổn định và thúc đẩy sự phát triển
hệ thống tài chính quốc gia mà cơ bản là ổn định lạm phát và giá trị đông nội tệ.
2.3.2

Nguyên tắc điều chỉnh tỷ giá hối đoái

Điều chỉnh tỷ giá hối đoái phải tuân theo quy luật thị trường. Để tuân thủ các quy luật
thị trường thì phải không ngừng nâng cao năng lực cho các công cụ mang tính kinh tế, đặc
biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở; đồng thời phải xây dựng một cơ cấu dự trữ ngoại tệ
hợp lý.

Tỷ giá hối đoái không được phép kìm hãm xuất khẩu hướng tới giảm thiểu sự thiếu
hụt trong cán cân thương mại.
Định hướng của vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái cần hướng vào việc kiến tạo thị
trường ngoại hối chính thức, có tổ chức và hợp pháp.
Tóm lại các nguyên tắc cần quán triệt được nêu ở trên là nhằm hướng tới một chính
sách tỷ giá thực sự tự chủ trong hoạch định, độc lập trong điều chỉnh, góp phần tạo ra sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế, giúp nền kinh tế có cơ sở tốt trong sự hội nhập với nền
kinh tế thế giới.

3. Giải pháp cụ thể
3.1 Ổn định thị trường vàng và thị trường ngoại hối

3.1.1 Tình hình thực tế
Chênh lệch giá vàng ở trong nước so với thế giới đã kéo dài, tăng lên và ở mức cao,
ngay cả khi đã quá thời hạn các ngân hàng phải tất toán vàng, ngay cả sau khi Ngân hàng Nhà
nước đã thông qua đấu thầu để cung ứng một lượng vàng lớn vượt xa so với dự toán trước
đây. Chênh lệch này vừa là yếu tố kinh tế tạo ra việc mua ngoại tệ để nhập khẩu vàng.
3.1.2 Biện pháp cụ thể
Giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới vốn đã kéo dài và hiện
còn ở mức quá cao để ngăn chặn các nhà đầu cơ mua USD nhập khẩu vàng để hưởng chênh
lệch giá.
3.2 Hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở
3.2.1 Cơ sở lý thuyết
17


Đây là biện pháp kinh tế để chính phủ tác động vào tỷ giá hối đoái bằng cách tham gia
trực tiếp vào thị trường với vai trò là người bán hoặc người mua. Khi cung nhỏ hơn cầu, gây
sức ép tăng tỷ giá, chính phủ có thể bán ra ngoại tệ nhằm tăng cung để giữ vững tỷ giá hối
đoái. Khi muốn thay đổi tỷ giá, chính phủ chỉ việc lựa chọn đứng bên cung hay bên cầu.

3.2.2 Tình hình thực tế
Đối với Việt Nam, do dự trữ ngoại tệ còn quá thấp, thêm vào đó công cụ này đòi hỏi
phải có thị trường ngoại hối tự do phát triển nên công cụ này chưa đủ sức mạnh cần thiết
trong thời gian trước mắt để có thể giữ vai trò chủ đạo của mình trong can thiệp điều hành tỷ
giá hối đoái.
3.2.3 Biện pháp cụ thể
Trước mắt chúng ta phải hoàn thiện một số vấn đề sau:
Tranh thủ đến mức tối đa có thể được để gia tăng tích lũy ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ
phải tăng tương xứng với tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào
một đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhà nước. Trong thời gian trước mắt, khi dự trữ ngoại
hối chưa đủ mạnh thì phải có biện pháp cụ thể làm tăng hiệu quả khi sử dụng dự trữ ngoại tệ
để tác động vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Từng bước xây dựng cơ chế hành lang pháp lý, môi trường hoạt động nhằm từng
bước đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở đúng vị trí của nó trong can thiệp điều chỉnh tỷ
giá hối đoái.
Xem xét lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý. Trong số các đồng tiền mạnh hiện
nay trên thế giới, có thể kể ra ba đồng tiền chính: Dollar Mỹ, Euro và Yên Nhật.
Hiện nay, đồng Dollar Mỹ vẫn gần gũi với nền kinh tế Việt Nam với 90% giao dịch
đối ngoại được thực hiện bằng đồng này. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế thế giới cho thấy hiện
tượng Dollar hóa là thực trạng chung của hầu hết các nước đang phát triển và Dollar luôn có
sự tăng giá đối với các đồng tiền khác.
Đối với đồng Euro, thực tế cho thấy ở Việt Nam các giao dịch bằng đồng Euro còn rất
hạn chế. Vì thế cần thêm thời gian để người Việt Nam làm quen và chủ động trong kinh
doanh với đồng Euro.

18


Đối với đồng Yên Nhật cho đến nay chưa thực sự là một đồng tiền quốc tế và nước
Nhật đang nỗ lực quốc tế hóa đồng tiền của mình.

Từ việc phân tích này cho thấy trong thời gian tới, đồng Dollar Mỹ vẫn giữ vị trí quan
trọng trong dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Tuy nhiên phải luôn theo dõi sự biến động của kinh
tế thế giới để có những giải pháp điều chỉnh hợp lý, linh hoạt.
3.3 Điều chỉnh mối quan hệ của tỷ giá với lãi suất
3.3.1 Cơ sở
Công cụ lãi suất chiết khâu luôn được đánh giá là công cụ thứ hai mang tính kinh tế
trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, lãi suất là biến số ngoại sinh với tỷ giá cho nên việc sử dụng công cụ này
cần hết sức thận trọng.
3.3.2 Tình hình thực tế
Tại Việt Nam, có thể thấy, dòng vốn vào ra trong nền kinh tế chủ yếu là đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài. Đầu tư gián tiếp và những dòng vốn ngắn hạn chưa được nhiều. Ngoài ra,
các giao dịch quốc tế trong đó giao dịch vốn vẫn chưa được tự do chuyển đổi. Điều này làm
cho công cụ lãi suất chưa có tác động sâu rộng trong can thiệp vào tỷ giá hối đoái.
3.3.3 Biện pháp cụ thể
Nâng cao sức mạnh của công cụ lãi suất bằng cách từng bước tự do hóa các dòng vốn
dài hạn và đầu tư trực tiếp, tiếp đó là tự do hóa hoàn toàn các giao dịch trong tài khoản vãng
lai. Cùng với việc quản lý thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả, chính phủ cần thu
hút nhiều dòng vốn nước ngoài vào thị trường này. Tuy nhiên, việc nới room ngoại cần được
tiến hành một cách thận trọng.
3.4 Các công cụ hành chính
Trong thời gian qua, sự can thiệp của chính phủ vào tỷ giá được đánh giá là hết sức
hiệu quả. Tuy nhiên, ngân hàng nhà nước và thanh tra trung ương nên làm tốt hơn nữa công
việc kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm trên thị trường ngoại tệ tự do để ngăn chặn đầu cơ.
Ngoài ra, việc điều chỉnh tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng nên được
thực hiện theo phương thức “trườn bò” thay cho phương thức “giật cục” - tức là thông qua
việc điều chỉnh tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, mà không điều chỉnh định kỳ
một lần với tốc độ lớn, để hạn chế đầu cơ đón đầu tạo sóng.
Cuối cùng là ổn định tâm lý, lòng tin vào đồng tiền quốc gia. Tâm lý, lòng tin vào
đồng tiền quốc gia không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề chính trị; thường phải mất

nhiều thời gian mới củng cố, cải thiện được.
19


3.5 Giải pháp phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào
tỷ giá đạt hiệu quả cao
Việc phối hợp các chính sách trong vấn đề can thiệp vào tỷ giá hối đoái là tất yếu để
đạt được kết quả tốt nhất và hạn chế đến mức tối thiểu cái giá phải trả cho việc can thiệp vào
tỷ giá hối đoái. Việc phối hợp các chính sách ở đây có thể nói cụ thể là việc điều hành một
cách hài hòa chính sách tài chính – tiền tệ

20


KẾT LUẬN
Tỷ giá hối đoái cho phép sự trao đổi tiền tệ giữa các quốc gia với nhau thúc đẩy cho
việc xuất nhập khẩu ngoại thương. Không có tỷ giá hối đoái thì không thể đổi đồng tiền của
nước này ra đồng tiền của nước khác nên tỷ giá hối đoái là một phần chủ chốt không thể thiếu
trong quá trình thanh toán trên quốc tế.
Tuy là giữ một vai trò trọng yếu như vậy nhưng tỷ giá hối đoái lại không ổn định mà
lại biến động do những nhân tố khác nhau đã được trình bày kỹ ở phần thân bài như: mức
chênh lệch lạm phát của hai nước, cung và cầu ngoại tệ trên thị trường và cuối cùng là mức
chênh lệch lãi suất.
Vì tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái và tính chất biến động của nó có ảnh hướng
không nhỏ tới tài chính của một quốc gia nên cần phải có các chính sách và biện pháp điều
chỉnh tỷ giá hối đoái phù hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ở phần trên nhóm đã trình bày
một số chính sách và biện pháp chủ yếu được sử dụng như: chính sách chiết khấu, chính sách
hối đoái, phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ và biện pháp mạnh nhất là nhà nước trực tiếp tác
động chi phối đến cung và cầu ngoại hối trên thị trường
Nhóm chúng em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Thị Quy đã

hướng dẫn và giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Mặc dù còn nhiều thiếu sót
trong nội dung tiểu luận, song chúng em rất mong nhận được sự đóng góp và chỉ dẫn của cô.
Trong thời gian sắp tới, chúng em rất hy vọng có thể tiếp tục phát triển đề tài về tỷ giá hối
đoái nhiều hơn nữa.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách và giáo trình:
Giáo trình thanh toán quốc tế - Trường đại học ngoại thương- tác giả: Gs. Đinh Xuân
Trình. PGS. TS. Đặng Thị Nhàn
Giáo trình thanh toán quốc tế- Học viện ngân hàng- tác giả: PGS. TS. Nguyễn Văn
Tiến
Báo mạng:
/>p_pers_id=2177078&p_recurrent_news_id=49224189
/> /> />p_pers_id=2177078&p_recurrent_news_id=78764545
/> />p_page_id=1&pers_id=42972397&item_id=102359491&p_details=1
/>
/> />
Tạp chí Ngân Hàng số 6/2013
Tạp chí Kinh tế phát triển
Chuyên đề “ Tỷ giá hối đoái và tiến trình tự do hóa tỷ giá ở Việt Nam”
Website: />
22



×