Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

phương pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.88 KB, 31 trang )

1

MỤC LỤC:
Tổng quan về rủi ro tỷ giá hối đoái
I. Nhận diện rủi ro tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm ………………………………………………………………..………..2
1.2 Nguyên nhân của rủi ro tỷ giá ……………………………………………..……..3
1.3 Phân loại rủi ro tỷ giá……………………………………………………….…..…3
1.4: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định quản trị rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp có
hoạt động xuất nhập khẩu………………………………………………………………4
II.Phương pháp phòng ngừa rũi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu:
Sử dụng thị trường sản phẩm phái sinh
a. Hợp đồng kỳ hạn ………………………………………………………………….6
b. Hợp đồng hoán đổi…………………………………………………………….…..8
c. Hợp đồng quyền chọn……………………………………………….……..……12
d. Hợp đồng giao sau………………………………………………………….....…14
A. Các công cụ truyền thống khác………………………………………………..….16
III.CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM:
1.Những hạn chế trong việc quản lý rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp ….19
2.Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp trong quản lý rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp
Việt Nam………………………………..…………………………………………..23
3.Giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam……………………………….……….28
IV. Mục tham khảo ………………………………………………………………32
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI:
I.Nhận diện rủi ro tỷ giá hối đoái


2

1.1: Khái niệm


Rủi ro tỷ giá hối đoái (RRTG) là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá làm ảnh hưởng
đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. RRTG có thể gặp phải trong nhiều hoạt động khác
nhau của doanh nghiệp (DN), nhưng nhìn chung, bất cứ hoạt động nào có phát sinh
giao dịch bằng bất cứ loại ngoại tệ nào cũng chứa đựng RRTG.
Ví dụ, một DN Việt Nam có khoản phải trả bằng ngoại tệ trong vòng 3 tháng tới trị giá
20,000USD và tính tại thời điểm bây giờ với tỷ giá 1USD =21,000VND thì khoản phải
trả này có giá trị 420,000,000VND. Tuy nhiên, nếu 3 tháng sau ngày thanh toán khoản
tiền này, tỷ giá giữa USD và VND lúc này không còn là 21,000VND/USD nữa mà là
21,500VND/USD. Như vậy lúc này thì khoản phải trả của DN này đã tăng them
10,000,000 VND tức là 430,000,000VND. Qua ví dụ trên, ta cũng thấy được một phần
nào tác động của tỷ giá đến hoạt động kinh doanh của DN. Đây chỉ là một ví dụ với giá
trị tương đối nhỏ nhưng nếu một hợp đồng với giá trị lớn thì tác động của RRTG sẽ còn
đáng kể hơn nữa. Do đó đây thực sự là một vấn đề nóng bỏng mà DN cần quan tâm
nếu không muốn hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình bị tác động theo chiều
hướng xấu.
1.2 Nguyên nhân của rủi ro tỷ giá
Trong hoạt động kinh doanh, RRTG là loại rủi ro mà các DN thường xuyên gặp phải và
đáng lo ngại nhất là đối với các DN có hoạt động xuất nhập khẩu (XNK). Sự thay đổi
tỷ giá ngoại tệ so với nội tệ làm thay đổi giá trị kỳ vọng của các khoản thu hoặc chi
ngoại tệ trong tương lai khiến cho hiệu quả của hoạt động XNK bị ảnh hưởng đáng kể
và nghiêm trọng hơn có thể khiến cho DN phải chịu lỗ trong hoạt động kinh doanh của
mình. Những nguyên nhân cụ thể có thể liệt kê như sau:
 XNK và dẫn đến nhu cầu thu và chi ngoại tệ có nhiều biến động trên thị trường.


3

 Tỷ giá hối đoái trên thị trường ngày càng biến động theo hướng khó có thể đoán
trước được và được xác định chủ yếu là dựa vào quy luật cung cầu trên thị
trường hối đoái.

 Quá trình kinh doanh quốc tế hoá sâu rộng dẫn đến việc đối mặt với nhiều loại
rủi ro trong đó có RRTG.
 Không có các chương trình quản lý rủi ro hoặc quản lý rủi ro không hiêu quả,
không sử dụng các công cụ phái sinh (CCPS), công cụ tài chính hoặc sử dụng
không thích hợp.
 Thị trường các công cụ tài chính và các CCPS của Việt Nam còn chưa phát
triển, chính sách triển khai, áp dụng còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu thông
tin… gây khó khăn trong việc tiếp cận các sản phẩm phòng ngừa RRTG cho
DN.
 Những nhân tố thị trường như lãi suất, lạm phát và triển vọng của nền kinh tế.
1.3 Phân loại rủi ro tỷ giá
Các DN có nguồn thu hay chi bằng ngoại tệ thường đối mặt với 4 loại RRTG:
 Rủi ro tài chính: rủi ro tài chính phát sinh khi một người nắm giữ ngọai tệ như
tài sản. Giá trị của tài sản ngọai tệ nắm giữ so với các tải sản tính bằng đồng tiền
hiệu lực của người giữ sẽ thay đổi khi tỷ giá giữa ngọai tệ và đồng tiền hiệu lực
thay đổi.
 Rủi ro chuyển đổi: rủi ro chuyển đổi đặc trưng phát sinh khi chuyển đổi các bản
báo cáo tài chính từ đồng tiền hiệu lực sang những đồng tiền khác cho mục đích
thông tin hay so sánh. Bảng cân đối kế toán thể hiện giá trị sổ sách của tài sản,
nguồn vốn và các cổ phần ở cuối giai đọan báo cáo. Tỷ giá hối đoái mà các đồng
tiền được mua bán ở cuối giai đọan báo cáo (tỷ giá giao ngay) thường không
phải là tỷ giá có hiệu lực khi các tài khoản được ghi nhận.
 Rủi ro giao dịch (còn gọi là rủi ro thực hiện): rủi ro giao dịch phát sinh khi
một bên đồng ý mua hay bán hàng hóa với một ngọai tệ nhất định vào một ngày
xác định, nhưng thực sự thanh toán hay nhận thanh tóan vào một ngày sau đó.


4

Nếu tỷ giá thay đổi trong khoảng thời gian ở giữa, giá của thương vụ bán hoặc

mua bằng đồng tiền hiệu lực sẽ thay đổi. Rủi ro giao dịch phát sinh khi một DN
đồng ý mua hoặc bán ở một giá ngọai tệ nhất định.
 Rủi ro kinh tế (còn gọi là rủi ro vận hành hay rủi ro cạnh tranh): rủi ro kinh
tế phát sinh khi thay đổi trong tỷ giá hối đoái làm thay đổi sức cạnh tranh của
một DN. Rủi ro này thường xảy ra khi DN có doanh thu bằng một đồng tiền và
gánh chịu chi phí bằng một đồng tiền khác. Nhưng thậm chí rủi ro kinh tế cũng
có thể phát sinh khi DN họat động chỉ với một đồng tiền.
1.4: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định quản trị rủi ro tỷ giá của doanh
nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu
Theo các công trình nghiên cứu, chủ yếu có 4 nhân tố tác động đến quyểt định và mức
độ phòng ngừa RRTG của DN:
1. Kích cỡ của doanh nghiệp: kích cỡ DN đóng vai trò chủ yếu trong việc tính
toán các chi phí liên quan đến việc phòng ngừa hoặc phạm vi phòng ngừa. Quản
trị rủi ro bao gồm chi phí cố định của việc cài đặt công nghệ và đào tạo, tuyển
dụng nhân sự để quản trị tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, những DN lớn còn có thể
được xem là các khách hàng uy tín cho các giao dịch kỳ hạn hoặc hoán đổi, qua
đó có thể giảm bớt chi phí quản trị rủi ro. Giá trị sổ sách của tổng tài sản có thể
là thước đo của kích cỡ DN.
2. Mức độ sử dụng đòn bẩy: theo lý thuyết quản trị rủi ro, các DN có đòn bẩy
cao có nhiều lợi thế và ưu đãi hơn trong phòng ngừa bởi vì điều đó làm giảm
thiểu khả năng và chi phí kiệt quệ tài chính. Những DN sử dụng đòn bẩy cao
có khuynh hướng tránh sử dụng nợ nước ngoài và sử dụng các CCPS để phòng
ngừa rủi ro.
3. Tính thanh khoản và khả năng sinh lợi: những DN với những tài sản có tính
thanh khoản cao hoặc khả năng sinh lợi cao ít có xu hướng tham gia phòng ngừa
rủi ro bởi vì ít có khả năng những DN này rơi vào khó khăn về tài chính. Tính


5


thanh khoản được đo lường bởi tỷ số thanh toán nhanh, còn khả năng sinh lợi
được tính bằng tổng tài sản chia cho EBIT.
4. Tốc độ tăng trưởng của doanh số: tốc độ tăng trưởng của doanh số là một
nhân tố quyết định vì đối với những DN có chỉ tiêu này tốt, phòng ngừa RRTG
sẽ giúp giảm thiểu khả năng phải dựa vào tài trợ từ bên ngoài, từ đó tiếp tục duy
trì tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng doanh số được tính bằng cách lấy
II.

trung bình hình học của tỷ lệ tăng trưởng ba năm liên tục.
Phương pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp xuất nhập

khẩu:
A. Sử dụng thị trường sản phẩm phái sinh
Các CCPS là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ
phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận
hoặc tạo ra lợi nhuận. Trong hoạt động XNK, các CCPS được sử dụng chủ yếu nhằm
quản lý RRTG, khi mà lợi ích của các DN gắn liền với những biến động của tỷ giá trên
thị trường
a.HỢP ĐỒNG KỲ HẠN
1.Khái niệm: Hợp đồng kì hạn là một thoả thuận giữa hai bên về việc mua hay
bán một tài sản nào đó vào một thời điểm định trước trong tương lai. Do vậy,
trong loại hợp đồng này, ngày kí kết và ngày giao hàng là hoàn toàn tách biệt
nhau. Hai bên thực hiện hợp đồng chịu sự ràng buộc pháp lý chặt chẽ phải thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng, trừ khi cả hai bên thoả thuận huỷ hợp đồng.
2. Đặc điểm : Trong hợp đồng kì hạn, một bên đồng ý mua, còn bên kia đồng ý bán,
với một mức giá kì hạn được thống nhất trước, nhưng không có việc thanh toán tiền
thật sự ngay thời điểm kí kết. Ngược lại với giá kì hạn là giá giao ngay (spot price), giá
bán của tài sản được giao vào ngày giao ngay (spot date), thường là trong vòng 2 ngày
kể từ ngày kí. Chênh lệch giữa giá kì hạn và giá giao ngay gọi là khoản thặng dư
(forward premium) nếu giá kì hạn cao hơn, hoặc khoản khấu trừ (forward discount)

nếu giá kì hạn thấp hơn.
Hợp đồng kì hạn được tiêu chuẩn hoá, giao dịch trên các thị trường tập trung gọi là hợp
đồng tương lai (futures contract).


6

3. Ưu, nhược điểm
Ưu điểm
Việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn để tránh rủi ro và ngăn ngừa rủi ro tỷ giá rất hiệu quả,
đơn giản, dễ sử dụng và dễ thương lượng hợp đồng với các ngân hàng thương mại.
Nhược điểm
Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng bắt buộc thực hiện nên khi đáo hạn dù bất lợi thì hai bên
vẫn phải thược hiện hợp đồng.
Chỉ áp dụng được trong trường hợp hai bên tham gia hợp đồng không có nhu cầu
chuyển giao tiền tệ ở thời điểm thỏa thuận giao dịch.
Khách hàng có thể bị thiệt nếu như tỷ giá mua giao ngay ở thời điểm đáo hạn không
giảm xuống thấp hơn tỷ giá mua kỳ hạn và ngược lại cho tỷ giá bán kỳ hạn.
4. Ví dụ về một hợp đồng kì hạn
Giả sử ông A muốn mua một ngôi nhà trong vòng 1 năm tới, đồng thời Ông B sở hữu
một căn nhà và ông ta muốn bán trong cùng thời gian đó. B thoả thuận bán ngôi nhà
của B cho A sau 1 năm nữa với giá là $104,000, hợp đồng này là một hợp đồng kì hạn.
Vì A là người mua nên A mong muốn giá sẽ tăng trong tương lai, ngược lại, B muốn
giá giảm. Cuối năm, giả sử giá thị trường của ngôi nhà lúc đó là $110,000, trong khi B
có nghĩa vụ phải bán nhà cho A với giá $104,000 theo như cam kết trong hợp đồng nên
có thể coi như B đã lỗ $6000, còn A lãi $6000 (vì A có thể mua nhà của B với giá
$104,000 và bán ngay trên thị trường với giá $110,000).
Nhìn chung nếu không tính đến các nhân tố khác thì giá kì hạn bao giờ cũng lớn hơn
giá giao ngay, vì nó bao gồm cả lãi suất.
Tiếp tục ví dụ trên, giả sử giá bán hiện nay của ngôi nhà là $100,000, thì B có thể bán

ngay để đem gửi ngân hàng để hưởng lãi suất 4%/năm. Sau 1 năm B sẽ có số tiền
$104,000 mà không phải chịu chút rủi ro nào. Trong khi đó nếu A muốn mua ngay ngôi
nhà anh ta sẽ đến vay ngân hàng số tiền $100,000, và cũng phải trả lãi 4%/năm. Còn
ngược lại nếu kí hợp đồng mua kì hạn anh ta sẽ không phải trả lãi nên A cũng sẵn
sàng bỏ ra $104,000 để mua ngôi nhà trong vòng 1 năm nữa. Đó là lý do vì sao giá kì
hạn được thống nhất ở $104,000 chứ không phải là $100,000
b.HỢP ĐỒNG HOÁN ĐỔI (SWAP)


7

1.Khái niệm: Hợp đồng hoán đổi (swap)Hợp đồng hoán đổi là hợp đồng giữa hai
bên nhằm hoán đổi một dòng tiền này lấy một dòng tiền khác. Những dòng tiền này
được gọi là những thành phần của hợp đồng hoán đổi.
Các loại hợp đồng swap thông dụng:






Hoán đổi lãi suất (interest rate swaps)
Hoán đổi tiền tệ (currency swaps)
Hoán đổi tín dụng (credit swaps)
Hoán đổi hàng hóa (commodity swaps)
Hoán đối chứng khoán vốn (equity swaps)

2.Đặc điểm
 Giao dịch hoán đổi bao gồm hai giao dịch được kết hợp và ràng buộc bằng
một hợp đồng đó là giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.

 Các hợp đồng Swap thường được giao dịch bên ngoài các thị trường giao
dịch tập trung, hay nói cách khác nó là một loại công cụ tài chính phái sinh
OTC (Over the counter). Hợp đồng Swap không thể được mua bán trao đổi
như là các loại chứng khoán hay hợp đồng tương lai, mà chúng thực sự là
những hợp đồng cá biệt giữa hai bên xác định. Do đó, cách duy nhất để thoát
ra khỏi hợp đồng này là bằng thoả thuận song phương với phía đối tác để
huỷ hợp đồng, hoặc bằng cách chuyển nhượng nó cho bên thứ ba với điều
kiện có sự đồng ý của phía đối tác.
3. Ưu, nhược điểm :
 Ưu điểm: rất hiệu quả, dễ sử dụng, dễ thương lượng hợp đồng với các
NHTM và đặc biệt là khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kì hạn khi
khách hàng vừa có nhu cầu mua ngoại tệ giao ngay ở hiện tại, vừa có nhu
cầu bán ngoại tệ kì hạn ở tương lai
 Nhược điểm: cũng như hợp đồng kì hạn, hợp đồng hoán đổi là hợp đồng
bắt buộc, do đó khách hàng có thể bị thiệt nếu như tỷ giá mua giao ngay ở


8

thời điểm đáo hạn cao hơn tỷ giá mua kỳ hạn hoặc tỷ giá bán giao ngay ở
thời điểm đáo hạn thấp hơn tỷ giá bán kỳ hạn đã thỏa thuận với ngân hàng.
Để làm rõ vấn đề ta đi phân tích 2 tình huống sau:
Tình huống 1:
Công ty Saigonimex vừa thu ngoại tệ 90.000USD từ một hợp đồng xuất khẩu. Hiện
tại công ty cần VND để chi trả tiền mua nguyên liệu và lương cho công nhân.
Ngoài ra, công ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có một hợp đồng nhập khẩu đến hạn
thanh toán. Khi ấy công ty cần một khoản ngoại tệ 80.000USD để thanh toán hợp
đồng nhập khẩu. Để thoả mãn nhu cầu VND ở hiện tại và USD trong tương lai, ở
thời điểm hiện tại Saigonimex có thể thoả thuận với ngân hàng hai loại giao dịch:
• Bán 90.000USD giao ngay để lấy VND chi tiêu ở thời điểm hiện tại.

• Mua 80.000USD kỳ hạn để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu sẽ đến hạn
sau ba tháng nữa.
Tình huống 2: Công ty Cholonimex đang cần ngoại tệ 90.000USD để chi trả cho
một hợp đồng nhập khẩu đến hạn. Ngoài ra, công ty biết rằng ba tháng nữa sẽ có
một hợp đồng xuất khẩu đến hạn thanh toán. Khi ấy công ty sẽ có một khoản ngoại
tệ thu về 80.000USD cần bán để lấy VND. Để thoả mãn nhu cầu USD ở hiện tại và
VND trongtương lai, ở thời điểm hiện tại Cholonimex có thể thoả thuận với ngân
hàng hai loại giaodịch:
• Mua 90.000USD giao ngay để có USD thanh toán hợp đồng nhập khẩu đến hạn.
• Bán 80.000USD kỳ hạn để có VND chi tiêu sau ba tháng nữa.
Khách hàng có thể thực hiện từng loại giao dịch riêng lẻ nhằm thoả mãn nhu cầu
ngoại tệ và VND. Tuy nhiên, nếu thực hiện riêng lẻ từng loại giao dịch giao ngay và
giao dịch kỳ hạn thì ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận đến hai loại hợp
đồng, theo đó khách hàng bán giao ngay và mua kỳ hạn hoặc mua giao ngay và bán


9

kỳ hạn với cùng một loại ngoại tệ. Giao dịch riêng lẻ này khiến cho khách hàng
phải chịu thiệt hai lần do chênh lệch giữa giá bán và giá mua và những phiền toái
trong thoả thuận hợp đồng giao dịch.Thay vì thực hiện giao dịch giao ngay và giao
dịch kỳ hạn riêng biệt, ngân hàng kết hợp hai loại giao dịch này lại trong một hợp
đồng, gọi là hợp đồng hoán đổi tiền tệ.
Ưu nhược điểm :
Ưu điểm :
Qua hai tình huống minh họa giao dịch hoán đổi, chúng ta thấy rõ được tính chất
kết hợp giữa một hợp đồng giao ngay và một hợp đồng có kỳ hạn ở hai thời điểm
khác nhau của hợp đồng hoán đổi. Nhờ vậy mà đáp ứng được nhu cầu mua và bán
lại hoặc bán và mua lại cùng loại ngoại tệ ở hai thời điểm khác nhau của khách
hàng.Trong giao dịch hoán đổi, các bên tham gia bao gồm ngân hàng và khách hàng

đều có những lợi ích nhất định. Với khách hàng lợi ích thể hiện ở chỗ khách hàng
thỏa mãn được nhu cầu ngoại tệ hoặc nội tệ của mình ở thời điểm hiện tại, tức là
vào ngày hiệu lực, đồng thời cũng thỏa mãn nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ vào này
đáo hạn. Điều này giống như hợp đồng kỳ hạn, do đó khách hàng có thể phòng
ngừa được rủi ro biến động tỷ giá.Đối với ngân hàng lợi ích thể hiện ở chỗ một mặt
ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng góp phần nâng cao uy tín và gia
tăng giá trị thương hiệu của mình.Mặt khác, ngân hàng có thể kiếm được lợi nhuận
từ chênh lệch giá mua và bán ngoại tệ.Chẳng hạn trong hai tình huống minh họa
trên đây, vào ngày hiệu lực ngân hàng có thểkiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá mua
và giá bán ngoại tệ giao ngay là (15810 – 15805)80.000 = 400.000 đồng. Vào ngày
đáo hạn, ngân hàng kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giá mua và giá bán kỳ hạn là
(16047 – 15908)80.000= 1.112.000 đồng.Tổng cộng ngân hàng kiếm lời được
1.512.000 đồng qua giao dịch hoán đổi giữa ngânhàng và hai khách hàng có nhu
cầu giao dịch ngoại tệ trái chiều nhau. Như đã trình bày, giao dịch hoán đổi là một
sự kết hợp giữa giao dịch giao ngay vàgiao dịch kỳ hạn. Bản thân giao dịch hoán


10

đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợpđồng giao ngay là có thể thỏa mãn nhu
cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời khắc phục được
nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãnnhu cầu ngoại tệ của khách
hàng ở thời điểm hiện tại.
Nhược điểm :Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn
chế ở hai điểm:
 Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ
giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điền này có mặt lợi là bảo
hiểm được rủi ro ngoại hối cho khách hàng nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội
kinh doanh nếu như tỷ giá biến động trái với dự đoán của khách hàng.
 Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm

đáohạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quảng thời gian
giữahai thời điểm đó. Chẳng hạn trong tình huống của Saigonimex trên đây nếu
vàomột thời điểm nào đó sau khi thỏa thuận hợp đồng giao dịch, USD lên giá so
với VND, Saigonimex có lợi vì đang có trạng thái dương USD kỳ hạn 3 tháng.
Thế nhưng lúc này Saigonimex vẫn không được hưởng lợi vì hợp đồng chưa
đến hạn.Đến khi hợp đồng đến hạn có thể lợi ích đó không còn vì biết đâu
chừng bấy giờ USD lại xuống giá so với VND!
d.Hợp đồng quyền chọn
1. Khái niệm :Là một giao dịch giữa bên mua quyền và bên bán quyền, trong
đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua hoặc bán một
lượng ngoại tệ xác định ở một mức tỷ giá xác định trong một khoảng thời
gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện quyền của
mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ trong hợp
đồng theo tỷ giá thỏa thuận trước
Quyền Chọn: Có 2 loại


11

 Quyền chọn mua (Call option): Là quyền được mua ngoại tệ tại tỷ giá thỏa
thuận trong một khoảng thời gian hoặc thời điểm đã xác định.
 Quyền chọn bán (Put option): Là quyền được bán ngoại tệ với tỷ giá thỏa
thuận trong một khoảng thời gian hoặc thời điểm đã xác định
2. Hợp đồng quyền chọn có đặc điểm:
Không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm.
Chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt thuộc thựchiện nghĩa vụ của
mình.
Người mua có thể thực hiện quyền hoặc bán quyền cho ngườikhác hay không thực
hiện quyền. Để thực hiện quyền này, khi ký kết hợp đồng nười mua phải trả quyền
phí, giá trong hợp đồng gọi là giá thực hiện và ngàyđịnh trong hợp đồng là ngày

đáo hạn. Tương tự như vậy đối với người bán tronghợp đồng quyền chọn bán.
Tùy theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất kỳ thời điểm
nào trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn.
Ví dụ:
Ngày 12/12/2008, Cholonimex có hợp đồng nhập khẩu tri giá 1 triệu $ sẽ đến hạn
thanh toán sau 6 tháng, tỉ giá giao ngay ( USD/VND) ở thời điểm hiện tại 16,99016,992 trong khi tỉ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn chưa biết vì
chưa xảy ra
ở thời điểm giao dịch: để tránh rủi ro tỉ giá, cholonimex đã liên hệ với VCB mua
quyền chọn mua có những nội dung do VCB quyết định và chào cho Cholonimex
như sau
Trị giá quyền chọn: 1 triệu $
Tỷ giá thực hiện(E) : 17,010


12

Phí mua quyền chọn (P): 50 VND/USD. Tổng chi phí mua quyền chọn bằng 1 triệu
x 50 VND = 50 triệu VND.
Kiểu quyền chọn: kiểu Âu
Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng
Ở thời điểm này Cholonimex đã bỏ ra tổng chi phí 50 triệu đồng để mua công cụ
phòng ngừa rủi ro tỉ giá. Mặc dù lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy ra nhưng công
ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch khi quyền
chọn đáo hạn như sau
Ở thời điểm đáo hạn: nếu tỉ giá giao ngay Sb > E = 17,010 thì doanh nghiệp sẽ thực
hiện quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra VND là: V = 1 x
17,010 = 17,010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu.
Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 50 triệu
VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra VND của khoản phải trả chỉ còn và
được cố định ở mức 17,010 + 50 = 17,060 triệu VND. Nhờ vậy rủi ro ngoại hối

được kiểm soát.
Nếu tỉ giá bán giao ngay Sb < E = 17,010 thì doanh nghiệp không thực hiện quyền
chọn mua mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản phải trả
quy ra VND là: V = 1 triệu USD x Sb = Sb triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh
nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 50 triệu VND để mua quyền chọn
nên giá trị khoản phải trả quy ra nội tệ chỉ còn bằng (Sb + 50) triệu VND. Giá trị
này chưa được cố định nhưng bị chận trên tối đa ở mức 17,060 triệu VND, do Sb <
17,010. Do đó rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát
Kết quả là dù tỉ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đé hạn là bao nhiêu đi nữa
thì giá trị hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở mức tối đa là 17,060 triệu
VND.


13

Người nắm giữ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện hợp đồng. Vì
vậy hợp đồng vừa phù hợp để bảo hiểm rủi ro giá lại giúp các doanh nghiệp có thể
kỳ vọng về việc đầu cơ khi tỉ giá có nhiều biến động


Ưu điểm: Người nắm giữ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện
hợp đồng. Vì vậy hợp đồng vừa phù hợp để bảo hiểm rủi ro giá lại giúp các
doanh nghiệp có thể kỳ vọng về việc đầu cơ khi tỉ giá có nhiều biến động



Nhược điểm: khi tỉ giá ít biến động người mua hợp đồng quyền chọn sẽ mất
khoản phí không đáng có. Vì vậy khi chắc chắn về tỉ giá thì không nên làm hợp
đồng quyền chọn mà chọn hợp đồng kỳ hạn.


d. Hợp đồng giao sau
1. Khái niêm: Hợp đồng giao sau (HĐGS – futures contract): là loại hợp đồng có
sẵn những tiêu chuẩn về số lượng, phẩm cấp hàng, chủng loại mặt hàng, điều
kiện vận chuyển và giao nhận hàng,… tất cả đều được sở giao dịch tiêu chuẩn
hóa, vấn đề duy nhất phải thỏa thuận là giá cả.
Để tránh tổn thất giao dịch do biến động tỷ giá khi có các khoản phải thu hoặc
khoản phải trả trong tương lai,doanh nghiệp có thể bán hoặc mua ngoại tệ theo hợp
đồng giao sau có trị giá và thời hạn tương đương với trị giá và thời hạn thanh toán
của khoản phải thu và phải trả đó trên thị trường ngoại tệ giao sau. Khi ấy,cùng một
lúc doanh nghiệp nắm giữ hai loại hợp đồng:
 Hợp đồng cơ sở sẽ đến hạn thanh toán trong tương lai
 Hợp đồng giao sau được ghi nhận và thanh toán hàng ngày
Vì tỷ giá giao ngay và giá trị hợp đồng giao sau có tương quan cùng chiều với nhau
nên khi tỷ giá biến động,doanh nghiệp có thể dùng lãi của hợp đồng này bù đắp
thiệt hại cho hợp đồng kia. Kết quả là rủi ro tỷ giá và tổn thất giao dịch có thể được
kiểm soát
2. Ưu, nhược điểm:
 Ưu điểm :


14

-

Tận dụng được cở hội đầu cơ nếu tỷ giá biến động đúng như dự đoán

-

Kiểm soát được rủi ro ngoại hối nếu như tỷ giá biến động ngược lại so với


dự đoán
 Nhược điểm :
-

Doanh nghiệp không thể thương lượng được hợp đồng phù hợp với nhu cầu

của mình.
-

Giải pháp này chỉ giúp kiểm soát rủi ro chứ không thể loại trừ hoàn toàn rủi

ro
-

Hợp đồng giao sau là hợp đồng bắt buộc nên dù muốn hay không vẫn phải

thực hiện hợp đồng khi đến hạn
→ Hợp đồng giao sau có khả năng phòng ngừa rủi ro ngoại hối hạn chế hơn so với
các giao dich phái sinh khác
ví dụ : Ngày 1/1/2012, công ty A có một hợp đồng xuất khẩu trị giá 1 triệu USD sẽ đến
hạn thanh toán sau 30 ngày nữa. Tỷ giá giao ngay ở thời điểm hiện tại là: 20000-20100.
Để kiểm soát tổn thất giao dịch ngoại hối, công ty A thực hiện bán 100 hợp đồng ngoại
tệ giao sau, mỗi hợp đồng trị giá 10000USD với thời hạn 1 tháng. Để làm được viêc
này, công ty A sẽ mở tài khoản thanh toán với phòng thanh toán bù trừ thuộc sở giao
dịch và kí quỹ cho mỗi hợp đồng là 1 triệu VNĐ, tổng số tiền phải kí quỹ là 100 triệu
VN Đ.
Trong thời gian 30 ngày, mỗi ngày giao dịch ghi nhận và thanh toán hàng ngày với
hợp đồng giao sau. Có 2 khả năng xảy ra vào thời điểm cuố ngày:
-


Nếu USD giảm giá so với VNĐ, công ty A sẽ lãi từ hợp đồng giao sau và

được ghi có vào tài khoản thanh toán một số tiền x. Ví dụ tỷ giá cuối ngày
2/01/2012 là: 19990 thì công ty A sẽ phải thanh toán cho các hợp đồng giao sau một


15

khoản tiền ít hơn ban đầu là: 100*10000*(20000 – 19990) = 10 triệu VNĐ. Đây là
khoản lời mà công ty A có được nhờ tỷ giá giảm
-

Nếu USD tăng giá so với VNĐ, công ty A sẽ lỗ từ hợp đồng giao sau và

được ghi có vào tài khoản thanh toán một số tiền x. Ví dụ tỷ giá cuối ngày
02/01/2012 là 20010 VND thì công ty A sẽ phải thanh toán thêm cho hợp đồng một
số tiền nhiều hơn ban đầu la 10 triệu VNĐ. Đây là khoản lỗ công ty A phải chịu do
tỷ giá tăng
Vào ngày 31/01/2012. Giao dich bán 1 triệu USD theo tỷ giá giao ngay đến hạn
thanhh toán. Lúc ấy có hai khả năng xảy ra
-

Một là tỷ giá USD/VND tại ngày 31/01/2012 thấp hơn tỷ giá vào ngày

01/01/2012.Ví dụ tỷ giá lúc này là: 19900. Khi ấy công ty A bị thiệt hại một số tiền
la 100 triệu VND. Mặt khác lãi từ hợp đồng giao sau do USD giảm giá so với VND
và hàng ngày được ghi có vaò tài khoản thanh toán một số tiền X=30*x (với x là số
tiền lời hàng ngày từ hợp đồng giao sau). Số tiền lãi hàng ngày này sẽ được sử dụng
để làm giảm thiểu tổn thất khoản phải thu.
-


Hai là tỷ giá USD/VNĐ tại ngày 31/01/2012 cao hơn tỷ giá vào 1/1/2012.

Ví dụ tỷ giá lúc này là 20100. Khi ấy công ty A sẽ lãi một số tiền làm 100triệu
VNĐ. Nhưng do USD lên giá so với vnđ nên công ty A bị lỗ ở hợp đồng giao sau
và hàng ngày bị ghi nợ một khoảng thanh toán X=30*x (với x là số tiền lỗ hàng
ngày từ hợp đồng giao sau).. số tiền lỗ tích lũy này sẽ được bù đắp bởi tiền lãi từ
chênh lệch tỷ giá của khoản phải thu. Nhờ vậy rủi ro ngoại hối vẫn được kiểm soát
B. Các công cụ phòng ngừa rủi ro truyền thống khác
Sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu song hành: đây là phương pháp tự bảo hiểm RRTG
đơn giản bằng cách tiến hành song hành cùng một lúc cả hai hợp đồng XK và NK có
giá trị và thời hạn tương đương nhau. Bằng cách này, nếu USD lên giá so với VND thì
DN sẽ sử dụng phần lãi do biến động tỷ giá từ hợp đồng XK để bù đắp phần tổn thất do


16

biến động tỷ giá của hợp động NK. Ngược lại, nếu USD giảm giá so với VND thì DN
sẽ sử dụng phần lợi do biến động tỷ giá từ hợp đồng NK để bù đắp thiệt hại do biến
động tỷ giá của hợp đồng XK. Kết quả là dù USD lên giá hay xuống giá RRTG luôn
được trung hoà. Cách này đơn giản, hữu hiệu, dễ thực hiện và ít tốn kém nếu như DN
có thể hoạt động đa dạng hoá cả XK và NK. Tuy nhiên, vấn đề của phương pháp này là
khả năng có thể kiếm được cùng một lúc cả hai hợp đồng có thời hạn và giá trị tương
đương nhau hay không.

Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tỷ giá: nếu DN không thể kiếm được cùng một
lúc cả hai hợp đồng XK và NK có thời hạn và giá trị tương đương nhau, DN có thể sử
dụng quỹ dự phòng để tránh RRTG. Theo phương pháp này, khi nào kiếm được phần
lợi nhuận dôi thêm do biến động tỷ giá thuận lợi DN sẽ trích phần lợi nhuận này lập ra
quỹ dự phòng bù đắp RRTG. Khi nào tỷ giá biến động bất lợi khiến DN bị tổn thất, DN

sử dụng quỹ này để bù đắp. Cách này cũng khá đơn giản và chẳng tốn kém chi phí khi
thực hiện. Vấn đề là thủ tục kế toán và công tác quản lý quỹ dự phòng sao cho quỹ này
không bi lạm dụng vào việc khác.

Lựa chọn đồng tiền thanh toán: để giảm rủi ro do biến động tỷ giá hối đoái,
giải pháp đơn giản nhất là thanh toán bằng đồng nội tệ vì như vậy DN sẽ biết chắc chắn
số tiền mình sẽ nhận hay sẽ trả vào kỳ thanh toán đã quy định trên hợp đồng. Tuy
nhiên, việc thanh toán bằng đồng nội tệ không phải khi nào cũng thực hiện được vì lợi
ích của nhà NK và nhà XK cũng như của người cho vay và người đi vay là hoàn toàn
đối nghịch nhau. Nhà NK và người đi vay sẽ có lợi khi sử dụng đồng tiền thanh toán là
đồng yếu; ngược lại, nhà XK và người cho vay lại muốn được thanh toán bằng đồng
tiền mạnh. Nhìn chung việc sử dụng đồng tiền nào làm đồng tiền thanh toán trong hợp
đồng mua bán ngoại thương hay hợp đồng tín dụng quốc tế nói chung phụ thuộc vào
các yếu tố như sự so sánh lực lượng giữa hai bên ký kết, vị trí đồng tiền đó trên thị


17

trường quốc tế, tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới, đồng tiền thanh
toán thống nhất trong các khu vực kinh tế thế giới.

Áp dụng điều khoản giá linh hoạt: việc áp dụng các điều khoản giá linh hoạt
cho phép các DN XNK giảm thiểu phần nào những rủi ro do biến động tỷ giá gây ra.
Khi áp dụng điều khoản này, nhà XK và NK chấp nhận điều chỉnh giá theo sự biến
động tỷ giá của đồng tiền thanh toán, do đó điều khoản này trong hợp đồng còn được
gọi là điều kiện đảm bảo theo giá cả hàng hóa. Theo đó, nếu tỷ giá của đồng tiền thanh
toán tăng, giá hàng XNK sẽ được điều chỉnh giảm xuống; nếu tỷ giá của đồng tiền
thanh toán giảm, giá sẽ được điều chỉnh tăng. Căn cứ để xác định sự tăng giảm tỷ giá
của đồng tiền thanh toán do hai bên thỏa thuận, có thể là vàng, một đồng tiền khác
tương đối ổn định, rổ tiền tệ… Khi quy định điều khoản này trong hợp đồng, các bên

có thể đưa ra một mức giới hạn miễn trừ theo đó chỉ khi tỷ giá biến động quá mức đó
mới thực hiện điều chỉnh giá.

Áp dụng điều khoản chia sẻ rủi ro: theo điều khoản này, khi ký hợp đồng
ngoại thương, các bên cam kết với nhau mỗi bên sẽ chịu một phần hậu quả của rủi ro
do biến động tỷ giá hối đoái gây nên trong khoản thời gian từ lúc ký hóa đơn cho đến
lúc thanh toán. Thường tỷ lệ quy định là mỗi bên chịu 50% rủi ro, nhưng các bên có thể
thương lượng áp dụng một tỷ lệ khác. Ngoài ra trong hợp đồng ngoại thương, các bên
có thể quy định những điều khoản quyền chọn cho phép khi tỷ giá biến động tới một
mức nào đó, trong những điều kiện nhất định, các bên có thể sử dụng một đồng tiền
khác làm đồng tiền thanh toán thay cho đồng tiền đã quy định trong hợp đồng.


18

Sử dụng hệ thống thanh toán qua ngân hàng: đối với các DN, thực hiện
thanh toán qua ngân hàng và có kế hoạch và chiến lược rõ ràng, sự tác động của tỷ giá
là có thể khắc phục được và tránh được nhiều rủi ro.
Các kỹ thuật bảo hiểm hoạt động: bên cạnh việc sử dụng các hợp đồng phái
sinh để bảo hiểm, DN còn có thể sử dụng các kỹ thuật hoạt động để bảo hiểm như ghi
hóa đơn bằng bản tệ, áp dụng chiến lược lead/lag (đẩy mạnh việc thanh toán hay làm
chậm quá trình thanh toán) và netting. Ghi hóa đơn bằng bản tệ thì DN XK sẽ không
phải gánh chịu RRTG nữa nhưng không phải lúc nào DN cũng có thể thực hiện được
điều này do còn phụ thuộc vào người mua. Nếu đồng tiền thanh toán đang bị xuống
giá, DN XK nên trì hoãn thanh toán (lag) còn DN NK nên đẩy nhanh thanh toán (lead)
do hợp đồng đang bị mất giá. Ngược lại, nếu đồng tiền thanh toán đang lên giá, DN
XK nên đẩy nhanh thanh toán còn DN NK nên trì hoãn thanh toán. Netting là biện
pháp mà DN thực hiện một giao dịch với trạng thái đối nghịch trạng thái ngoại tệ hiện
tại của DN. Mặc dù các kỹ thuật hoạt động đơn giản hơn việc sử dụng các hợp đồng
phái sinh, việc áp dụng các kỹ thuật này phụ thuộc rất nhiều vào tương quan giữa

người mua và người bán do hệ quả của các giải pháp này là đẩy RRTG cho đối tác (trừ
kỹ thuật netting).
III.

CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TỶ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM:

Trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO hầu như độ nhạy cảm đối với loại rủi ro này ở
các DN Việt Nam tham gia vào hoạt động XNK là không đáng kể. Độ nhạy cảm chỉ gia
tăng vào hai năm 1997 và 1998 khi tỷ giá USD/VND trên thị trường có sự biến động
mạnh. Nguyên nhân là do tỷ giá USD/VND tuy bắt được tín hiệu thị trường nhưng vẫn
còn chịu sự chi phối mạnh từ phía Nhà Nước khiến cặp tỷ giá này cũng như các cặp tỷ
giá khác hầu như ổn định, tỷ giá USD/VND chỉ dao động trong một biên độ hẹp
(khoảng +/-0.5%). Ngoài ra, RRTG và những tác động bất lợi của nó đến tình hình sản
xuất kinh doanh của DN trong giai đoạn này cũng ít khi được đề cập đến. Loại rủi ro


19

này chỉ bắt đầu được quan tâm vào những năm cuối trước khi gia nhập WTO nhằm
chuẩn bị tinh thần, tâm lí vững chắc trước khi phải đối mặt với nhiều loại rủi ro hơn,
mà trong đó RRTG là không thể nào tránh khỏi.
Sau khi gia nhập WTO, độ nhạy cảm đối với RRTG của DN tham gia vào hoạt động
XNK là cực kì cao với những biến động phức tạp của tỷ giá cùng với sự gia tăng đáng
kể trong kim ngạch XNK. Có thể nói chưa lúc nào mà vấn đề RRTG được quan tâm
như lúc này. Nhiều DN đã chịu tổn thất do RRTG trong hoạt động XNK cũng như hoạt
động tín dụng.
1. Những hạn chế trong việc quản lý rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp
Việt Nam
Công tác quản lý RRTG tại các DN, cũng còn nhiều hạn chế và bất cập, bao gồm

Thứ nhất, DN chưa mặn mà với các CCPS hạn chế RRTG, chỉ tập trung vào các
phương pháp truyền thống để phòng ngừa RRTG
NHNN đã cho phép hệ thống NHTM thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để phòng
ngừa và hạn chế RRTG từ khá lâu, song đến nay, nhiều DN vẫn chưa mặn mà với
công cụ này. Đa số các DN còn dựa chủ yếu vào các công cụ truyền thống để phòng
ngừa rủi ro, hiệu quả thấp. Chẳng hạn như lập quỹ dự phòng, nó chỉ có tác dụng
chuẩn bị điều kiện tài chính để có thể vượt qua được nếu gặp rủi ro, chức cơ bản
không có tác dụng loại trừ hoặc hạn chế rủi ro.
Trong khi đó, nhiều ngân hàng đã có đầy đủ các sản phẩm giúp DN quản lý rủi ro
nhưng số khách hàng vẫn rất ít. Những ngân hàng lớn của nước ngoài như Citybank,
HSBC thậm chí phải đến tận DN tổ chức hội thảo giới thiệu về quản lý rủi ro và các
sản phẩm của ngân hàng, trong số đó có những DN quốc doanh lớn như xi măng,
hàng không, điện lực, dầu khí... thường xuyên có các dự án lớn tính bằng vài trăm
triệu USD và chỉ với những biến động nhỏ của thị trường tài chính tiền tệ phải chịu
những tổn thất không nhỏ về vốn. Tuy vậy số DN thực hiện ứng dụng vẫn rất khiêm


20

tốn.
Trong những năm gần đây , tỷ giá USD/VND luôn có chiều hướng tăng lên, và việc
tăng giá này có lợi cho các DN XK vì giá trị nguồn ngoaị tệ thu được tăng lên,
nhưng lại gây khó khăn cho không ít DN NK hàng hóa và nguyên liệu. Tuy lợi
nhuận có thể bị ảnh hưởng, DN vẫn không dùng đến công cụ bảo hiểm tỷ giá. Đa số
DN gần như chưa có hiểu biết về những công cụ này. Nhiều DN không lường trước
được rủi ro nên không ý thức về việc mua các khoản bảo hiểm rủi ro. Bên cạnh đó,
các DN cũng không biết ngân hàng định phí các công cụ này trên cơ sở nào, sẽ hạch
toán vào đâu nên rất ngại sử dụng.
Một lý do khách quan khiến nhiều DN không mặn mà với việc mua bảo hiểm RRTG
là khi tỷ giá xuống, DN sẽ được lợi từ hợp đồng NK hay vay nợ ngoại tệ đã ký trước

đó; trong khi nếu chọn hợp đồng bảo hiểm tỷ giá, thì khách hàng cũng sẽ phải trả
bằng tỷ giá đã thỏa thuận từ trước, không có lợi
 Thứ hai, quy mô của các giao dịch phái sinh trên thị trường Việt Nam rất
khiêm tốn
Ngày nay các hợp đồng phái sinh được giao dịch tại nhiều thị trường của thế giới và
trên quy mô khổng lồ. Các nghiệp vụ phái sinh để bảo hiểm RRTG như forward,
swap, future, option đã được sử dụng phổ biến từ rất lâu với doanh số hàng ngày lên
tới hàng trăm tỷ USD. Công cụ tài chính phái sinh được trao đổi thông qua thị trường
chính thức và OTC. Ở châu Á, Nhật Bản, Singapore và Hongkong là các quốc
gia có thị trường phái sinh phát triển rất mạnh.
Trên thế giới, CCPS được dùng trong hầu hết giá cả các loại tài sản và hàng hóa, thậm
chí cả giá trị kinh tế của các yếu tố không mang tính thị trường. Đối tượng tham gia
thị trường phái sinh rất đa dạng, nhiều nhất là các công ty, nhà đầu tư, các tổ chức
tài chính (đóng vai trò môi giới). Ở Việt Nam, đối tượng tham gia thị trường còn rất


21

hạn chế. Các hợp đồng phái sinh chỉ chiếm 5% tổng giao dịch ngoại tệ, 95% còn lại
là giao dịch giao ngay (số liệu thống kê năm 2004).
Ở thị trường Việt Nam, ngoại tệ để mua/bán chủ yếu là USD và VND. Nhiều ngân
hàng xác định giao dịch ngoại hối phái sinh không nhằm lợi nhuận mà chỉ đáp ứng
nhu cầu về ngoại hối của khách hàng để thanh toán, trả nợ vay, góp vốn, chi tiêu…
của khách hàng, qua đó ngân hàng thu lãi và phí từ các dịch vụ khác. Còn hình thức
hợp đồng giao sau, quyền chọn, bao thanh toán… mặc dù đã được một vài ngân hàng
chào mời đến các DN, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh XNK, đặc biệt là các DN sản
xuất cà phê, chè, lương thực…nhưng sau thời gian ngắn thực hiện, trong số ít DN sử
dụng hình thức này cũng giảm.
 Thứ ba, việc quản lý RRTG còn đơn lẻ, không chuyên nghiệp, đa số DN chưa
xây dựng được chương trình quản trị rủi ro hiệu quả

Các DN nếu có quan tâm tới quản lý RRTG thì chủ yếu sử dụng các biện pháp quản
lý riêng lẻ, chứ không đặt trong một tổng thể. Ít DN có kết hợp quản lý rủi ro XK với
quản lý rủi ro NK. Việc các DN này kết hợp giữa nhiều công cụ quản lý rủi ro và
các công cụ quản lý khác là rất hiếm. Thực tế này dẫn tới sự lệch lạc trong nội
dung quản lý tại các DN, quan điểm về quản lý rủi ro được nhìn nhận vừa ít lại vừa
không đồng bộ.
Ngoài ra, việc áp dụng các công cụ quản lý như các điều khoản về giá và tiền tệ trong
hợp đồng để hạn chế RRTG hầu như cũng ít được thực hiện do DN chưa quan tâm,
nhiều trường hợp là do chúng ta chưa có tương quan lực lượng mạnh trên bàn đàm
phán. Việc phân tích năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của đối tác nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng cũng ít được chú trọng.
Việc thực hiện quy trình quản lý rủi ro giá cả tài chính hầu như chưa được tiến hành
một cách chính thống và chuyên nghiệp trong các DN. Đa phần DN vẫn làm theo lối


22

kinh doanh truyền thống với tầm nhìn ngắn hạn: khi cần ngoại tệ thì mua ngoại tệ
hay cầm ngoại tệ trong tay khi nào có nhu cầu mới bán, khi cần vốn thì vay vốn, cần
hàng thì mua hàng, cần xuất thì xuất.
Bên cạnh đó, đa số các DN vẫn chưa thiết lập được cho mình một chương trình quản
trị rủi ro chuyên nghiệp và khoa học, từ đó dẫn đến việc lúng túng và không có khả
năng ứng phó với rủi ro một cách lâu dài và hiệu quả, có chăng chỉ là những biện
pháp tạm thời, mang tính đối phó.
Tóm lại, những hạn chế còn tồn tại trên đây là những rào cản đáng kể cho sự phát
triển các CCPS ở Việt Nam, và từ đó dẫn đến khó khăn trong việc quản lý RRTG
cho DN. Cần phải có những nỗ lực từ nhiều phía để các DN có hoạt động XNK có
thể thích ứng tốt hơn với tình hình biến động kinh tế trong và ngoài nước
2. Nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp trong quản lý rủi ro tỷ giá tại các
doanh nghiệp Việt Nam

Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn và hạn chế trong việc sử dụng
các CCPS cũng như những biện pháp phòng ngừa RRTG khác của DN trong hoạt
động XNK. Những nguyên nhân này bao gồm khách quan lẫn chủ quan, bên trong
lẫn bên ngoài góp phần làm giảm hiệu quả trong việc quản lý RRTG. Hiểu rõ được
những nguyên nhân này sẽ là sơ sở để đưa ra những biện pháp khắc phục, hỗ trợ cho
DN trong việc hạn chế thiệt hại do biến động giá ngoại tệ gây ra.
a. Nguyên nhân khách quan
Đặc điểm thị trường tiền tệ Việt Nam
Đầu tiên cần kể đến chính là những xuất phát từ thị trường tiền tệ Việt Nam,
trong đó bao gồm sự phát triển còn non kém và chính sách quản lý còn có phần nào
mang tính bao cấp, bảo hộ của nhà nước. Thị trường tiền tệ Việt Nam cho đến nay đã
được hình thành và phát triển được hai mươi năm (đánh dấu từ cột mốc tháng 7


23

năm 1992, khi Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1
ngày 07/10/1992 của Thống đốc NHNN Việt Nam, cho phép các TCTD được thực
hiện cho vay và đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993). Với lịch sử
hình thành chưa lâu, thị trường tiền tệ Việt Nam không vẫn chưa gặp phải những biến
động lớn, và không bị ảnh hưởng nhiều từ những cuộc khủng hoảng trên thế giới.
Cùng với những phương thức kinh doanh truyền thống còn phổ biến, việc dự báo
tỷ giá là khá chắc chắn, do đó việc phải sử dụng những kỹ thuật hiện đại và tiên
tiến để phòng ngừa RRTG vẫn chưa trở thành nỗi bức xúc đối với các DN.
Thứ hai là chính sách quản lý tỷ giá của nhà nước đã đem lại sự ổn định trong giá
cả ngoại tệ trong một thời gian dài. Điều này có thể được giải thích như sau:
NHNN Việt Nam chủ trương theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát trong điều
hành chính sách tiền tệ, ổn định tiền tệ, và hỗ trợ các DN trong nước, chính vì thế mà
tỷ giá sẽ không biến động quá mạnh để tránh gây bất lợi cho các DN XK, NK và cả
những DN có vay nợ nước ngoài. VND được định giá thông qua một rổ ngoại tệ

trong đó USD chiếm phần lớn nên VND hầu như được neo với USD. Chính sách
quản lý tỷ giá của NHNN là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, luôn có một biên độ dao
động tỷ giá USD/VND nhất định trong từng thời kỳ phát triển và sự kiểm soát của
NHNN làm cho tỷ giá chỉ dao động xung quanh biên độ này, nếu tỷ giá đi quá xa
theo một hướng nào đó, sẽ có sự can thiệp ngay nhằm đưa tỷ giá trở về quỹ đạo của
nó.
Cung và cầu ngoại tệ, đặc biệt là USD, theo thời gian đã dần giảm đi sự chênh
lệch khiến cho giá cả ngoại tệ ngày càng ổn định hơn. Nền kinh tế quốc gia ngày
càng phát triển đã làm giảm đáng kể khối lượng nhập siêu, làm giảm cầu đồng thời
tăng đáng kể nguồn cung USD. Thêm vào đó là chính sách lãi suất luôn giữ cho lãi
suất VND lớn hơn nhiều so với lãi suất USD, chính vì vậy mà người dân có xu
hướng lựa chọn đồng VND cho các tài khoản ký gửi hơn là USD, điều này phần
nào làm giảm mức độ đô la hóa trên thị trường tiền tệ và góp phần ổn định tỷ giá.


24

thị trường CCPS và các công cụ tài chính khác còn chưa hoàn thiện
Cho đến thời điểm hiện nay, các sản phẩm phái sinh do các NHTM cung cấp vẫn chưa
có hợp đồng giao sau đối với ngoại tệ do chưa được sự cho phép của NHNN. Nguyên
nhân là chúng ta còn lo sợ việc đưa hợp đồng giao sau với lãi suất và tỷ giá vào giao
dịch sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc đầu cơ làm sai lệch thông tin, ảnh hưởng
đến sự ổn định của thị trường và sự phát triển của nền kinh tế.
Các thị trường tài chính của Mỹ, Nhật Bản cơ bản là các thị trường tài chính phát
triển, có độ linh hoạt cao, đa dạng, đồng bộ và phong phú nhất là các sản phẩm tài
chính phái sinh. Đây là điều kiện tiên quyết để đáp ứng yêu cầu phát triển và sử dụng
các sản phẩm phái sinh trong việc quản lý RRTG của DN. Hơn nữa, nó còn giúp các
nước này có thể ngăn ngừa và đối phó một cách có hiệu quả đối với các loại rủi ro tài
chính ở tầm vĩ mô, góp phần giảm tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính trên
thế giới.

Thị trường CCPS chưa hoàn thiện còn thể hiện ở những quy định nhập nhằng, bất
cập và không phù hợp với thị trường.
Quy định về thuế không rõ ràng
Chẳng hạn như quy định về mức thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện nghiệp
vụ hoán đổi sẽ có tác động kìm hãm và khó thực hiện vì lãi suất thả nổi biến động
hàng ngày. Hơn nữa, CCPS mang bản chất phòng ngừa rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận
chứ không phải vì mục đích kiếm lời. Tiếp đó là vấn đề hạch toán kế toán, hiện nay
trong hạch toán kế toán chỉ chú trọng tới phần lãi/lỗ thực tế phát sinh, trong khi
phần lãi/ lỗ dự kiến, chưa phát sinh thì dường như chưa được quan tâm.
Chi phí sử dụng các sản phẩm phái sinh cao
Hiện nay, vai trò của các ngân hàng trong nước đa số là mô giới cho khách hàng có
nhu cầu và những ngân hàng lớn khác có cung cấp các sản phẩm phái sinh. Do đó


25

chi phí phát sinh là không hề nhỏ. Nếu như các ngân hàng muốn có lợi nhuận từ
hoạt động này, chi phí bao gồm: chi phí chính của các ngân hàng đối tác, chi phí phát
sinh trong quá trình thực hiện, khoảng chênh lệch lợi nhuận cho ngân hàng. Còn nếu
ngân hàng trực tiếp cung cấp sản phẩm, sẽ có hàng loạt chi phí như: chi phí tìm kiếm
thông tin, chi phí thương lượng với đối tác, chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm
thích nghi với điều kiện mới của thị trường và thương lượng, chi phí phát sinh từ
những yếu tố bất định và rủi ro về thông tin, thể chế, rủi ro không dự đoán được,
chi phí ủy quyền, chi phí thực hiện và giám sát. Chi phí cao là một rào cản dễ
hiểu cho việc các DN e dè trong việc sử dụng các sản phái sinh.
Năng lực tư vấn của ngân hàng
Vì không có sự am hiểu rõ về việc sư dụng các sản phẩm phái sinh, hầu hết các DN
có nhu cầu ít nhiều đều phụ thuộc vào những tư vấn của ngân hàng, vì các ngân
hàng là được cho là nơi cung cấp những dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp hơn cả. Hơn
nữa, ngân hàng với tư cách là đơn vị cung cấp sản phẩm sẽ có sự hỗ trợ khách hàng

trong việc sử dụng các sản phẩm của mình. Sự hỗ trợ có thể là giới thiệu một cách chi
tiết để khách hàng hiểu rõ hơn về các sản phẩm phái sinh, tư vấn khi khách hàng
quyết định sử dụng sản phẩm, trợ giúp về pháp lý đối với những giao dịch chưa có
tiền lệ... Bởi vì không phải khách hàng nào cũng có thể sử dụng sản phẩm phái sinh
mà việc thẩm định, quyết định cung cấp các sản phẩm này cho khách hàng đòi hỏi
những tiêu chí nhất định, tương tự như khi ra quyết định cho khách hàng vay vốn.
b. Nguyên nhân chủ quan
Đặc điểm các DN Việt Nam đa số với quy mô vừa và nhỏ
Quy mô không lớn nên các DN không có đủ năng lực tài chính để tiếp cận và sử
dụng các sản phẩm phái sinh. Điều đáng ngạc nhiên là mức độ am hiểu về các sản
phẩm phái sinh chính là rào cản lớn nhất cho việc sử dụng các sản phẩm này.


×