Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vai trò của khoa học và công nghệ trong sự phát triển lực lượng sản xuất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.7 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Khoa học và công nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực
lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong
việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và
kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển
cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học kỹ
thuật mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia.
Đối vớiViệt Nam hiện nay, khoa học và công nghệ không chỉ là quá trình
mang tính tất yếu mà đó còn là một đòi hỏi bức thiết. Đứng trước thực trạng đất
nước từ một nền kinh tế nông nghiệp đang phấn đấu vươn lên đạt đến mục tiêu:"
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh" lại vốn là một nước
nghèo bị chiến tranh tàn phá nhiều năm, tình trạng khủng khoảng kinh tế xã hội
vẫn chưa chấm dứt, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, bội chi ngân
sách lớn.
Nhận thức rõ vai trò đó, Đảng và Nhà nước, ta đã có nhiều nghị quyết quan
trọng về Khoa học – Công nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là
điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước bằng cách dựa vào khoa học, kỹ
thuật". Như vậy, vai trò động lực là lực lượng sản xuất hàng đầu của khoa học và
kỹ thuật đã được Đảng ta nhất quán khẳng định và là điều tất yếu không thể thay
đổi được. Song vấn đề đặt ra là làm sao để khoa học và công nghệ đảm nhận được
vai trò đó trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học và kỹ thuật
phù hợp với vài trò là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp
hoá- hiên đại hoá đất nước.
Nghiên cứu về vấn đề khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá không chỉ là công trình khoa học của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, mà còn là của toàn thể xã hội. Và cho tới nay, chúng ta cũng đã thu được


nhiều kết quả không nhỏ trong việc nghiên cứu, góp phần giúp cho đất nước hoàn
thành mục tiêu là một nước công nghiệp vào những năm 2020. Được sự giúp đỡ
tận tình của thầy cô, nhóm đã nghiên cứu về vấn đề "Vai trò của khoa học và
1


công nghệ trong sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam" là một vấn đề
lớn cần có thời gian và sự hiểu biết cũng như sự đầu tư nhiều. Mặc dù nhóm rất cố
gắng nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế vì vậy bài viết này chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự đóng góp chỉ dạy của
các thầy cô.

Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LƯỢNG LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
1. Lý luận chung về lực lượng sản xuất
1.1 Lực lượng sản xuất là gi?
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình sản xuất của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với
kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong
lực lượng sản xuất thì nhân tố con người đóng vai trò quyết định nhất. Song
ngày nay trong công cuộc cách mạng đã mở ra bước nhảy vọt lớn của lực lượng
sản xuất, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Theo quan niệm của Mác, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với
kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động.
Sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, kết hợp với nhau tạo thành lực
lượng sản xuất. Và quan hệ sản xuất là "quan hệ giữa người với người trong q uá

trình sản xuất". Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế
-xã hội nhất định, nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng, đóng vai trò quyết định đối với tất cả
các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã
hội loài người chẳng qua là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động
đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển xã hội loài người, làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người và từ đó
dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Trong tác phẩm "Sự khốn cùng của
triết học", Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những
lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả những mối quan hệ xã hội của mình".
Khi lực lượng sản xuất trước hết là tư liệu sản xuất thay đổi và phát triển thì
quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời đại

2


của một cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, lực lượng sản xuất không chỉ là yếu
tố khách quan, năng động nhất của phương thức sản xuất mà còn là yếu tố cấu
thành nền tảng vật chất của toàn thể nhân loại.
Dựa trên những tư tưởng cụ thể của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã
hội với vai trò then chốt của lực lượng sản xuất là cơ sở lý luận cho phép chúng ta
khẳng định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN là
nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển CNTB, là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta.
1.2 Vai trò của lực lượng sản xuất
Con người muốn tồn tại được thì cần phải có những yếu tố cơ bản như ăn, ở,
uống…muốn vậy con người cần sản xuất vật chất. Tuy vậy muốn sản xuất ra của

cải vật chất thì yếu tố cơ bản và tiền đề quan trọng chính là lực lượng sản xuất. Sản
xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết
định sư biến đổi, phát triển của mọi mặt đời sống, quyết định sự phát triển của xã
hội từ thấp đến cao, do đó lực lượng sản xuất trở nên có ý nghĩa và thực sự quan
trọng.
Lực lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành phương thức sản xuất, là nền
tảng, là cơ sở, là tiền đề của sản xuất. Vì nếu không có công cụ lao động thì con
người không thể sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của
xã hội. Trong quá trình sản xuất con người đã sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến, các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất thỏa mãn nhu cầu và phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành của phượng thức sản xuất, mà
phương thức sản xuất là một bộ phận của hình thái kinh tế xã hội. Sự thay thế hình
thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn đánh dấu một
bước phát triển mới của xã hội. Như vậy sự phát triển của lực lượng sản xuất góp
phần vào việc hình thành nên một chế độ xã hội mới. Trong quá trình đấu tranh cho
sự phát triển xã hội, Lênin đã nói: “Suy cho cùng phương thức sản xuất này thắng
phương thức sản xuất kia chính là ở chỗ tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn”.
Tóm lại lực lượng sản xuất đóng một vai trò quan trọng đối với sản xuất xã
hội và quá trình phát triển của lịch sử loài người. Do vậy vấn đề phát triển lực
lượng sản xuất cần được coi trọng và đề cao trong mọi thời kỳ phát triển của xã
hội.
2. Khoa học và công nghệ trong nền kinh tế toàn cầu.
2.1. Khái niệm về khoa học và công nghệ
Khoa học là một khái niệm thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau: khoa học
là một khối liên kết kiến thức được gom góp từ những nỗ lực năng động của con
người để hiểu được thế giới dựa trên quan sát và thí nghiệm, là một hình thái ý
thức xã hội, là một công cụ nhận thức; khoa học là một lĩnh vực hoạt động xã hội;
khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại được thể hiện bằng những khái

3


niệm, phán đoán, học thuyết…Tuy nhiên định nghĩa cho rằng khoa học là một hệ
thống chỉnh thể các tri thức của tiến trình lịch sử xã hội được coi là định nghĩa đầy
đủ nhất dưới góc độ lịch sử phát triển của khoa học. Ngoài ra, khoa học còn được
hiểu là quá trình hoạt động của con người để có được hệ thống tri thức về thế giới
với chức năng làm cho con người nắm được những quy luật của hiện thực khách
quan, ngày càng làm chủ được những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội.
Công nghệ là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công
cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức,
nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích,
hay thực hiện một chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ đến một tập hợp
những công cụ như vậy, bao gồm máy móc, những sự sắp xếp, hay những quy
trình. Công nghệ ảnh hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con
người cũng như của những động vật khác vào môi trường tự nhiên của mình.
2.2. Vai trò của khoa học và công nghệ trong quá trình phát triền kinh tế
xã hội
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng
to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển và đạt được nhiều thành
tựu to lớn. Khi mà con người đã trải qua những cuộc đại cách mạng công nghiệp
thì khoa học trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất hàng đầu", là yếu tố không
thể thiếu được để làm cho lực lượng sản xuất có động lực để tạo nên những bước
phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Có
thể nói rằng: "Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất
hiện đại”.
Ở Việt Nam hiện nay thì khoa học và công nghệ giữ vai trò là động lực cho
sự phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế. Cụ thể thì vai trò động lực của

khoa học và công nghệ được thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định trong quá trình
trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho nền sản xuất xã hội nói
riêng và cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung. Trên thực tế, nước ta đã tiến
hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX.
Nhưng vẫn tiếp tục để cho lực lượng sản xuất trong tình trạng lạc hậu, các trang
thiết bị máy móc phần lớn là thủ công, thủ công bán cơ giới. Do vậy, mà cả năng
suất lao động và chất lượng các sản phẩm do nền sản xuất xã hội tạo ra vẫn còn rất
thấp so với mặt bằng chung của thế giới, và trong khu vực. Chỉ có trên cơ sở thay
đổi các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại mới có thể đẩy mạnh được sản xuất, nhất là
trong những ngành sản xuất mũi nhọn như bưu chính viễn thông, năng lượng, vật
liệu, chế biến.
Thứ hai, khoa học và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn
lực trí tuệ – một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối với sự nghiệp CNH,
4


HĐH ở nước ta hiện nay. Bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau,
chúng ta đang thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, điều quan trọng và có tính chất quyết định bậc
nhất ở đây là cần phải có những con người có tri thức và năng lực để có thể khai
thác, sử dụng hiệu quả nhất các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Từ chỗ có tri thức
về khoa học và công nghệ, con người và xã hội Việt Nam sẽ chuyển dần từ chỗ chủ
yếu là lao động chân cơ bắp, thủ công với những trang thiết bị kỹ thuật cũ kỹ, thô
sơ, lạc hậu sang lao động trí tuệ, lao động công nghiệp với máy móc, trang bị thiết
bị kỹ thuật hiện đại.
Thứ ba, khoa học và công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi
trường và thị trường thông tin – một môi trường mới đầy sức mạnh và quyền lực
đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng, đối với sự phát triển xã hội, nói

chung. Thông tin trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan hết sức chặt
chẽ đến việc nắm bắt các bí mật, bí quyết công nghệ, được thể hiện qua các
phương pháp, các thiết bị, dữ liệu khoa học và công nghệ mới nhất. Thông tin như
một người hướng dẫn nắm trong tay chiếc chìa khoá thần diệu, giúp chúng ta mở
được những “cánh cửa làm ăn” một cách đúng lúc, đúng cách, giúp ta tìm kiếm
nhưng cơ hội những lĩnh vực làm ăn hiệu quả, và biết rút lui đúng lúc khi tiềm
năng lĩnh vực đó đã cạn. Công nghệ thông tin có vai trò cực kỳ quan trọng trong
quá trình xây dựng kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu về kinh tế của Việt Nam.
Thứ tư, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện
cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá .Trong
sản xuất nói riêng, trong mọi hoạt động xã hội nói chung nếu không có một cơ chế
tổ chức quản lý điều hành quản lý thì chắc chắn không thể mang lại kết quả tích
cực. Điều đó cũng giống như một dàn nhạc lớn, chỉ có các nhạc công mà không có
nhạc trưởng thì troóng đánh xuôi, kèn thổi ngược, không thể hoà tấu bất kỳ bản
nhạc nào.
Chương II
CÁC VẤN ĐỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
1. Vai trò của Khoa học công nghệ tới sự phát triển và biến đổi của lao
động ở Việt Nam
1.1. Sự phát triển và biến đổi của lao động Việt Nam trong thời gian qua
Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là sức lao động, vừa
với tư cách là con người có ý thức, chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ
văn hóa, trình độ kỹ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối
với sản xuất và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kỹ thuật
và tư liệu sản xuất vốn có để sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Ph.Ăngghen đã
nhấn mạnh “Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên mức độ cao…

5



mà chỉ có phương tiện cơ giới và hóa học phù trợ thì không đủ. Còn cần phải phát
triển một cách tương ứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó
nữa”.
Việt Nam là một nước có dân sô đông và trẻ do vậy nước ta có một nguồn
lực về lao động dồi dào. Đó là những người lao động có sức khỏe mang bản chất
cần cù chịu khó, thông minh và và sáng tạo, một lợi thế so sánh quan trọng của
nước ta. Việt Nam có quy mô dân số vào loại lớn hơn 90 triệu dân, là nước đông
dân thứ 14 trên thế giới, thứ 8 Châu Á và thứ 3 khu vực Đông Nam Á… Đó là tiềm
năng cực kỳ to lớn về nguồn lực con người để phát triển đất nước hay có thể nói là
nguồn lao động dồi dào. Dân số trong tuổi lao động có xu hướng tăng lên. Có thể
thấy rõ điều này qua 4 cuộc điều tra dân số năm 1979, 1989, 1999, 2009
Dân số trong tuổi lao động thời kỳ 1979 – 2009
(Đơn vị : 1.000 người)
Năm 1979
Số
tuyệt
đối

Tỉ
trọng
(%)

Năm 1989
Số
tuyệt
đối

Tỉ
trọng

(%)

Năm 1999

Năm 2009

Số
tuyệt
đối

Tỉ
trọn
g
(%)

Số
tuyệt
đối

Tỉ
trọn
g
(%)

Tổng số dân

52,742

100


64,376

100

76,328

100

85,847

100

Dưới tuổi lao động

23,465

44.49

25,223

39.18

25,562

33.5 26,227

30.5

Trong tuổi lao động


24,832

47.08

33,496

52.03

43,556

57.1 52,160

60.7

Trên tuổi lao động

4,445

8.43

5,657

8.79

7,210

9.4

8.8


7,460

Việt Nam có lợi thế lực lượng lao động dồi dào song nhìn chung là chất
lượng chưa cao mặc dù trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn lực đang phát
triển và có xu hướng tăng cao hơn.
Năm 2013, tỷ lệ người biết chữ là 94,7%%, toàn quốc đạt tiêu chuẩn quốc
gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Vào năm 2011, số năm đi
học kỳ vọng là 10,4 năm, số năm đi học trung bình của dân cư là 5,5 năm, được
xếp vào các nước có trình độ dân trí khá trên thế giới và khu vực.
1.2. Vai trò của Khoa học công nghệ tới sự phát triển và biến đổi của lao
động ở Việt Nam
Thứ nhất, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ, người ta đã tiến hành
cơ khí hoá nền sản xuất, giải phóng con người khỏi lao động chân tay nặng nhọc,
cơ cấu lao động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động
bằng máy móc, có kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động lên nhiều lần.

6


Những tiến bộ khoa học – công nghệ làm tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ,
chuyển nền kinh tế truyền thống của ta từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn sang nền
kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiế ưu thế. Ngoài ra, việc
tiếp thu và ứng dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại vào sản xuất góp phần cải
thiện nền công nghiệp lạc hậu của ta. Nhiều công nghệ tiên tiến, hiện đại đã được
chuyển giao vào nước ta trong các lĩnh vực như khai thác dầu khí, thông tin, viễn
thông, xây dựng… tạo nền tảng cho các ngành công nghệ chủ chốt ở nước ta. Từ
đó có thể thấy, những tiến bộ khoa học – công nghệ đã cải thiện môi trường lao
động, nâng cao trình độ tay nghề và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ và tạo điều
kiện cho công tác nghiên cứu khoa học.
Một trong những ưu điểm của người lao động Việt Nam là tính cần cù, siêng

năng, hăng say tìm tòi, sáng tạo. Họ không chỉ biết áp dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ để xoá đói, giảm nghèo, vượt khó làm giàu mà còn phát huy sáng tạo, cải tiến
máy móc, thiết bị phục vụ cho nhu cầu lao động sản xuất. Một trong những gương
mặt điển hình:
Ông K’Sá H Tang, một nông dân K’Ho chưa từng qua trường lớp cơ khí nào
đã mày mò cải tiến thành công máy tuốt bắp, nâng năng suất lao động lên hàng
chục lần so với phương thức thủ công. Thời gian tuốt một gùi bắp chỉ mất 5 phút
trong khi đó để tuốt bằng tay phải mất 1 ngày.
Máy bứt củ lạc của ông Huỳnh Thái Dương, tỉnh Bình Thuận đã đạt được
những thông số cần thiết như bứt củ lạc không sót, không vỡ vỏ ngoài, không dập
vỏ trong, không lẫn tạp chất, chi phí thời gian từ 2-2,5 giờ/ha lạc, tỉ lệ thất thoát
(vỡ vỏ, hao hụt…) chỉ 0,3%. Năng suất tương đương với 80 công lao động. Giá
máy là 38 triệu đồng (trong khi máy nhập của Đài Loan là 600 triệu đồng).
Thứ hai, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã tạo ra những người
lao động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức chuyên
sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát, nhạy bén, vững
vàng trong nghề nghiệp.
Người lao động chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là
nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực của mọi động lực phát triển xã hội. Từ
chỗ có tri thức về khoa học và công nghệ, con người và xã hội Việt Nam sẽ chuyển
dần từ chỗ chủ yếu là lao động chân cơ bắp, thủ công với những trang thiết bị kỹ
thuật cũ kỹ, thô sơ, lạc hậu sang lao động trí tuệ, lao động công nghiệp với máy
móc, trang bị thiết bị kỹ thuật hiện đại.
Khoa học và công nghệ đến với con người thông qua quá trình giáo dục, đào
tạo và hoạt động thực tiễn trang bị cho con người những tri thức và kinh nghiệm
cần thiết để cho họ có thể nhanh chóng thích nghi với các trang thiết bị hiện đại,
tiên tiến trong sản xuất, đời sống. Mặt khác, do sự thường xuyên đổi mới theo
hướng hiện đại dần các trang thiết bị sản xuất và đời sống buộc con người phải
thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức, chuyên môn để khỏi bị đào thải ra khỏi
quá trình sản xuất xã hội thích ứng với cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình

độ và chất lượng của đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất
không ngừng được nâng cao và hiện đại hóa.
7


Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình lao động: lao động phổ
thông và lao động chất lượng cao. Lao động phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông,
trong khi đó, tỷ lệ lao động chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của
Việt Nam hiện nay không phải là lao động phổ thông, mà là lao động chất lượng
cao.
Dự kiến, năm 2015, số lao động qua đào tạo ở bậc sơ cấp nghề khoảng 18
triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số lao động đã qua đào tạo của nền kinh tế;
bậc trung cấp khoảng 7 triệu người (khoảng 23%); bậc cao đẳng gần 2 triệu người
(khoảng 6%); bậc đại học khoảng 3,3 triệu người (khoảng 11%); bậc trên đại học
khoảng 200 nghìn người (khoảng 0,7%). Năm 2020, số lao động đào tạo ở bậc sơ
cấp nghề khoảng gần 24 triệu người (khoảng 54%) tổng số lao động qua đào tạo
của nền kinh tế; bậc trung cấp nghề khoảng gần 12 triệu người (khoảng 27%); bậc
cao đẳng hơn 3 triệu người (khoảng 7%); bậc đại học khoảng 5 triệu người
(khoảng 11%) và bậc trên đại học khoảng 300 nghìn người (khoảng 0,7%). Phát
triển nhân lực đến năm 2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực như công nghiệp;
xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; tài nguyên, môi
trường; du lịch; ngân hàng; tài chính; công nghệ thông tin; năng lượng hạt nhân;
đào tạo nhân lực để đi làm việc ở nước ngoài. Quy mô đào tạo trong các trường đại
học, cao đẳng năm 2020 có khoảng 3,4 - 3,9 triệu sinh viên. Tỷ lệ sinh viên vào
năm 2020 là từ 350 - 400 người/trên 1 vạn dân.
Mạng lưới trường đại học và cao đẳng vào năm 2020 sẽ có tổng cộng 573
trường, trong đó, 259 trường đại học và 314 trường cao đẳng. Trong giai đoạn
2011-2015 sẽ thành lập thêm 158 trường (70 trường đại học và 88 trường cao
đẳng). Về mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy
nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề): Đến năm 2015 có 190 trường cao đẳng nghề,

trong đó, có 60 trường ngoài công lập; 300 trường trung cấp nghề, trong đó, có 100
trường ngoài công lập; 920 trung tâm dạy nghề, trong đó có 320 trung tâm ngoài
công lập. Đến năm 2020 có khoảng 230 trường cao đẳng nghề, trong đó, có 80
trường ngoài công lập; 310 trường trung cấp nghề, trong đó có 120 trường ngoài
công lập; 1.050 trung tâm dạy nghề, trong đó có 350 trung tâm ngoài công lập.
Tổng vốn đầu tư cho phát triển nguồn lao động đến năm 2020 (gồm giáo dục và
đào tạo; dạy nghề; y tế; chăm sóc sức khỏe,...) khoảng 2.135 nghìn tỷ VNĐ, chiếm
12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ ba, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã nâng cao nhận thức
của người lao động.
Cùng với sự phát triển của KHCN, nhận thức của người lao động về thế giới
quan và nhân sinh quan ngày càng tiến bộ. Việc nhận thức và hiểu biết về thế giới
của người Việt Nam đã được cải thiện và nâng cao (thể hiện trong hệ tư tưởng,
nhận thức, việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại…). Trong đó, là sự chuyển biến
về tư tưởng tiến bộ (coi trọng năng suất lao động, nam nữ bình đẳng, xã hội văn
minh dân chủ…) hình thành một thế hệ Việt Nam mới. Trước đây, người lao động
Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng cũ nên phụ thuộc khá nhiều vào tự
nhiên, tuy nhiên cũng đã khẳng định sức mạnh của con người. Nhưng đến nay, khi
8


tiếp cận và thông qua những thành tựu của khoa học công nghệ, Việt Nam đã nắm
bắt được những tri thức mới, có nhận thức và định hướng mới trong việc làm chủ
sự phát triển của đất nước. Đã tiếp thu và học tập những tinh hoa của nhân loại như
các quy luật vận động của tự nhiên, quy luật vận động của xã hội, quy luật vận
động của nền kinh tế…
Khoa học và công nghệ đã và đang tăng cường khả năng truyền dẫn, lan toả
và khuyếch tán văn hoá trong quá trình phát triển của người lao động. Công nghệ
thông tin và truyền thông phát triển, làm cho văn hoá nghệ thuật được phổ biến
rộng rãi. Ở Việt Nam, bên cạnh những thể loại nhạc truyền thống nay đã hội nhập

những dòng nhạc mới theo xu thế của thế giới… Văn hoá đã có sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại. Trong tư tưởng người Việt, phụ nữ vẫn cần quán xuyến
việc gia đình nhưng ngày nay “gánh nặng” này đã được chia sẻ với nam giới, phụ
nữ không còn phải quá ràng buộc trong hệ tư tưởng “tam tòng tứ đức” nữa…
Những suy nghĩ đã được đổi mới, người lao động Việt dám nghĩ dám làm không lệ
thuộc quá nhiều vào gia đình như trước đây. Việc phải lưu trữ những kỷ niệm,
những sự kiện quan trọng không cần phải “sổ lưu bút” mà nay chuyển sang sử
dụng “lưu trữ đám mây”, facebook… bằng những công cụ tiên tiến hiện đại như
điện thoại, laptop, ipad…
Thứ tư, nhờ những tiến bộ khoa học – công nghệ đã cải thiện sức khoẻ, mức
sống và đời sống tinh thần của người lao động.
Khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ gen… ngày
càng phát triển và được ứng dụng rộng rãi vào công tác chăm sóc sức khỏe của
người lao động. Đã có những bước nhảy vọt trong lĩnh vực y tế nhất là trong việc
phát minh ra những loại thuốc, vắc – xin, các thiết bị y tế, các phương pháp trị
bệnh mới … Đồng thời việc phát triển những công nghệ sạch đã cải thiện môi
trường sống của người lao động, giảm việc ô nhiễm môi trường… Tất cả những
điều này đã góp phần cải thiện sức khỏe của người lao động, tăng tuổi thọ trung
bình.
Khoa học và công nghệ tác động thông qua việc đổi mới sản phẩm và đổi
mới quy trình sản xuất đã tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất của máy móc thiết
bị. Một mặt khoa học và công nghệ kích cầu, mặt khác nó tăng năng suất qua đó
tăng cung và từ đó nền kinh tăng trưởng, làm tăng thu nhập bình quân, cải thiện
mức sống của người lao động. Khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ thông
tin góp phần to lớn đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng,
bình đẳng trong xã hội, tự do dân chủ: giúp cho người lao động dễ dàng tiếp cận
với các thông tin hơn, tạo ra một cơ chế phản ánh tiếng nói của người lao động đặc
biệt là của người lao động nghèo đến chính phủ hiệu quả hơn, góp phần nâng cao
chất lượng của dịch vụ công.
Khoa học và công nghệ giúp cho người lao động tiệp cận với các trò chơi

thể thao, tham gia vào các hoạt động văn nghệ… để thư giãn sau giờ làm việc giúp
nâng cao tinh thần của người lao động dẫn đến năng suất lao động tăng.

9


2. Sự tác động của khoa học công nghệ đến sự phát triển của LLSX ở
Việt Nam
Lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu lao động (Tư liệu lao động gồm công cụ
lao động và phương tiện lao động trong đó công cụ lao động giữ vai trò quyết định
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ của công cụ sản xuất là
một tiêu chí biểu hiện trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội) và người lao
động.
Khoa học công nghệ (KHCN) có tác động to lớn tới sự phát triển của lực
lượng sản xuất tại Việt Nam. Ngày nay, khoa học và công nghệ được coi là yếu tố
quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội. Trong các
văn kiện quan trọng, đại hội Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của KHCN trong sự
phát triển của đất nước và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng, toàn dân.
Tác động của KHCN đến lực lượng sản xuất ở Việt Nam được thể hiện trên không
chỉ ở đến sự biến đổi và phát triển của lao động mà chính là tác động đến sự biến
đổi và phát triển của tư liệu lao động, mà trọng tâm là công cụ lao động.
Công cụ lao động là bộ phận trọng tâm, tích cực nhất trong tư liệu sản xuất.
Nó là biểu hiện cụ thể của tiến bộ khoa học kỹ thuật và cũng là cơ sở để phân biệt
thời đại kinh tế. C.Mac đã khằng định rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách
nào, với tư liệu lao động nào”
Sự tác động của KHCN đến tư liệu lao động hay chính là tác động đến công
cụ lao động tại Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở sự cải tiến và biến đổi
của công cụ lao động qua các thời kỳ (chuyển từ thủ công sang hiện đại, tự động
hoá với năng suất và chất lượng cao).

Nếu như trên thế giới, nói đến tác động của KHCN đến tư liệu sản xuất thì
được thể hiện rõ trên các thời đại kinh tế từ công xã nguyên thuỷ cho đến tư bản,
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đề cập đến tác động của KHCN đến tư liệu sản xuất ở
Việt Nam thì được chia thành các thời kỳ sau (gắn với các điểm mốc lịch sử):
* Từ năm 1975 trở về trước: Tư liệu sản xuất còn rất lạc hậu. Do đặc
điểm kinh tế - chính trị, toàn Đảng toàn dân dồn sức cho cuộc chiến chống Pháp,
chống Mỹ do đó việc sản xuất tuy được đẩy mạnh nhưng chủ yếu để phục vụ cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trang bị cho sản xuất lúc bấy giờ ngoài cơ sở
vật chất của Việt Nam thì chủ yếu là do Liên Xô, Trung quốc viện trợ về kinh tế,
kỹ thuật và quân sự (xây dựng các nhà máy điện và hệ thống đường dây điện, trạm
biến thế, đài khí tượng…mở rộng nhiều xí nghiệp và công trình công nghiệp…).
Nhờ sự giúp đỡ của các nước bạn, tư liệu sản xuất Việt Nam đã được cải thiện và
đem lại những kết quả tích cực, góp phần xây dựng hệ thống cơ sở vật chất sản
xuất của Việt Nam.
* Từ năm 1975 đến 1986: tư liệu sản xuất đã dần chuyển từ kỹ thuật thủ
công sang sử dụng máy móc, thiết bị. Tuy nhiên, kỹ thuật thủ công vẫn là chủ
yếu, công suất sử dụng máy móc thiệt bị còn thấp. Trang bị máy móc thiết bị, kỹ
thuật đã được cải tiến xong sản xuất vẫn còn quy mô còn nhỏ, thiếu cân đối, còn lệ
10


thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu của nước ngoài, tình trạng sử dụng
không hết công suất máy móc thiết bị diễn ra phổ biến.
* Từ 1986 đến 2000: công cụ lao động đã chuyển từ thủ công sang tự
động hoá, đã sử dụng và phát triển nhiều máy móc thiết bị có công suất cao, chất
lượng được cải biến theo xu thế phát triển của cuộc cách mạng khoa học. Tin học,
điện tử đang dần được hình thành và phát triển., nhiều công cụ lao động thủ công
đã có cải tiến đem lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất.
* Từ 2011 đến nay: ứng dụng và tiếp thu những thành tựu của KHCN
trên thế giới vào sản xuất kinh doanh để cải tiến công cụ lao động, tăng năng

suất. Nhiều công nghệ kỹ thuật hiện đại được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế - xã hội từ kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế đến quốc phòng an ninh…, đem
lại hiệu quả và những thành tựu quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam.
Ở phương diện tổng thể, KHCN đã tác động mạnh mẽ đến sự cải tiến và
thay đổi tư liệu sản xuất tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Cải tiến, phát triển công cụ lao động nhằm nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giải phóng sức lao động: Căn cứ vào quá trình nghiên
cứu và đúc rút kinh nghiệm từ các quốc gia đã đạt được nhiều thành công và thành
tựu nhờ sự phát triển của KHCN, Việt Nam đã dựa vào những điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội cùng với sự hiểu biết về tri thức khoa học đã tiến hành cải tiến
những tiến bộ trong KHCN của nước ngoài vào áp dụng tại Việt Nam. Công cụ từ
thô sơ, nhờ KHCN đã chuyển thành công cụ được cải tiến làm tăng năng suất lao
động. Ví dụ: máy tuốt lúa khi mới xuất hiện được sử dụng bằng bàn đạp chân, tuy
nhiên do yêu cầu thực tế và sự phát triển của kỹ thuật đã tiến hành cải biến chạy
bằng năng lượng điện của máy nổ chạy bằng xăng, được cải tiến thêm giá đỡ để có
thể di chuyển và phù hợp với địa hình núi, chỗ lầy lội…
Thứ hai, Đổi mới và nâng cao hiệu năng của công cụ lao động: Việt Nam đã
tiếp thu tri thức KHCN của các nước phát triển trên thế giới, đồng thời phát triển
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực để đổi mới và nâng cao hiệu năng của công cụ lao
động. Việc phát triển và ứng dụng KHCN đã tạo ra được nhiều công cụ lao động
hiện đại, có nhiều tính năng giúp con người tiết kiệm được thời gian, nâng cao
năng suất làm việc (ví dụ: máy gặt đập liên hợp…). Trong thời đại Công nghệ
thông tin càng phát triển, việc phát triển hệ thống công cụ liên lạc càng được chú
trọng. Từ điện thoại chỉ để nghe gọi để trao đổi, nay thêm nhiều tính năng nói
chuyện có hình ảnh, lướt web, check mail, được hỗ trợ nhiều ứng dụng. Tại Việt
Nam phát triển công nghệ phần mềm (phần mềm kế toán ứng dụng, mua và phát
triển hệ thống phần mềm của oracle tại VN…)
Thứ ba, tìm hiểu, nghiên cứu và chế tạo ra công cụ lao động hữu ích: theo
yêu cầu của thực tế, cùng với sự hỗ trợ của KHCN việc tìm hiểu và nghiên cứu
sáng chế ra công cụ lao động hữu ích đã được triển khai. Nhiều chương trình đã

được triển khai trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp… đặc biệt là
công nghiệp. Trong ngành công nghiệp, Việt Nam hiện đang nghiên cứu và phát
triển công nghiệp năng lượng (sử dụng năng lượng nguyên tử), chế tạo nhiều máy
tự động hoá: chế tạo robot trong việc thu thập rác thải nơi sông hồ để giảm gánh
11


nặng cho công nhân môi trường. Trong sản xuất hàng hoá, CNTT và KHCN đóng
vai trò hết sức quan trọng và có tác động to lớn. Do yêu cầu về quản lý, ngoài hệ
thống tiêu chí để sử dụng đánh giá, các doanh nghiệp hiện đã sử dụng nhiều dây
truyền sản xuất hiện đại tiên tiến. Các công ty chế tạo, lắp ráp công nghiệp đã sử
dụng tự động hoá (máy móc) có công nhân điều khiển.
Từ những tác động trên của KHCN, tư liệu sản xuất của Việt Nam được cải
thiện và nâng cao đáng kể, góp phần tích cực trong sự chuyển đổi hình thức sản
xuất sang mô hình hiện đại và đạt hiệu quả cao. Tiến tới, kích thích phát triển do có
sự cạnh tranh và thúc đẩy của KHCN toàn thế giới.
3. Quan điểm và sự dự đoán của Mác về quá trình CNH-HĐH
Mác đã xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Hoạt động sản
xuất bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân
con người.Sản xuất vật chất đóng vai trò cực kỳ quan trọng là động lực là nền tảng
của các hoạt động sản xuất còn lại của xã hội. Nhờ có sản xuất mà con người có
thể biến đổi được giới tự nhiên, biến đổi được đời sống xã hội và biến đổi chính
con người. Lực lượng san xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động và
công cụ lao động , sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo thành lực
lượng sản xuất. Mỗi phương thực sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế- xã
hội. Phương thức sản xuất cũ, lạc hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất
mới tiến bộ hơn. Lực lượng sản xuất không chỉ là yếu tố khách quan, năng động
nhất của phương thức sản xuất mà còn là yếu tố cấu thành nền tảng vật chất của cả
nhân loại.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ

thúc đẩy sản xuất phát triển. Qua ba cuộc đại cách mạng công nghiệp khoa học đã
trở thành “lực lượng sản xuất hàng đầu”, là yếu tố không thể thiếu làm cho để làm
cho lực lượng sản xuất có động lực để tạo nên những bước phát triển nhảy vọt tạo
thành cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại.
Với vai trò nền tảng và động lực của khoa học và kỹ thuật trong tiến trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng là nói đến công nghiệp hoá - hiện đại hoá dựa
trên cơ sở khoa học và kỹ thuật. Quan điểm CacMác đã từng dự báo: “Theo đà
phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào
thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những
tác nhân được khởi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến
lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao
động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào
sự ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất”.
Khoa học và kỹ thuật hiện đại là yếu tố không thể thiếu trong đời sống kinh
tế xã hội của một quốc gia mà còn là yếu tố then chốt trong sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, là yếu tố “quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát
triển của các quốc gia”.

12


Đảng và nhà nước ta khẳng định rõ vai trò của quá trình CNH-HĐH trong
các văn kiện của Đảng: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ
là chuẩn bị những tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở
phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, những xu thế chủ yếu
trong quan hệ quốc tế, nêu rõ những thời cơ và thách thức lớn, Đại hội định ra mục
tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước là: tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đảng ta đã xác định khoa học và kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp
quan trọng hàng đầu cho xã hội. Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh phải dựa trên nền
tảng và động lực của khoa học – kỹ thuật.
Vai trò động lực của khoa học và kỹ thuật được thể hiện thông qua sự đổi
mới không ngừng của kỹ thuật và sản phẩm,tạo ra năng suất, chất lượng,và sức
cạnh tranh cao của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu
hoá đang là xu hướng của toàn nhân loại. Chỉ khi nào khoa học và kỹ thuật thực sự
trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu thì vai trò nền tảng và động lực của nó mới
trở nên vững chắc và mạnh mẽ. Việt Nam muốn đẩy nhanh tiến trình đổi mới đất
nước thì phải tiến hành song song cả hai qúa trình vừa thực hiện công nghiệp hoá
hiện đại hoá vừa xây dựng và phát triển nền khoa học kỹ thuật.
Chương III
NHIỆM VỤ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
HIỆN NAY
1. Thành tựu
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về
phát triển kinh tế- xã hội. Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã góp phần quan trọng
làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, sức cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên
đáng kể, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, nâng cao
tiềm lực và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, CNH, HĐH phát
triển chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH chững lại;
những biến động về kinh tế - xã hội trên thế giới tác động đến quá trình CNH,
HĐH khi nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới…
1.1. Về phát triển kinh tế

Thứ nhât, đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh:

13


Giai đoạn 1986-1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990),
công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP
tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm;
công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13
-14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba
chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,
… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp
hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước
quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng
sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch
vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu
tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990 . Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt
nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” .
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan
trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn
1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta
trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông,
lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch
vụ tăng 5,2% . “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP
bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” .
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm
2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu
người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
14


nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) . Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm
phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về
xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao
su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,

từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77%
so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá
thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 .
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm,
tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân
các nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên
2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp
hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó
khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ
số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước
và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu
có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm
2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 72012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ

1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
15


ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005.
Công nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo
với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc
tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng
thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu

cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thứ ba, thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền
kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
16


Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa

Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà
nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần,
số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
1.2. Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư
được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu
tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ
hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư,
khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP
bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988
chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã
tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168
USD/người/năm , nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có
thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có
công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình

hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại
tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa
tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 .

17


Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm
2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống
kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và
nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm
2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn
so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu
Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế
với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á
do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam
được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước
đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến
cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ
sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm
1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô
đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm
2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với
lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,

chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng
dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực
thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao,
thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên.
Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng
28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50%
xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch
bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung
bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ
qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690
năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng
GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13
bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê,
còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao

18


hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của
nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về
HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số
về kinh tế.
Như vậy nhận thấy quá trình công ngiệp hóa ở nước ta từ khi bắt đầu thực
hiện cho đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể, những thành tựu đó gắn

liền với quá trình phát triển lực lượng sản xuất .Điều đó càng them khẳng định chủ
trương về CNH-HDH trong quá trình đổi mới đất nước ta là hoàn toàn đúng đắn.
Và thực tế đã chứng minh rằng việc phát triển lực lượng sản xuất chính là tiền đề
nền tảng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật cho quá trình công
nghiệp hóa nói chung và ứng dụng vào quá trình CNH-HDH ở nước ta nói riêng.
Như đại hội Đảng IX đã nhận định rằng “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất cảu chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển
sản xuất gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu ,quản lý và phân phối”. Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên tất cả các
mặt song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,yếu kém và khó khăn và cần phải có những
gi ải pháp nâng cao lực lượng sản xuất phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
Cùng với đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cũng như tổ chức tuyên truyền các
chủ trương, chính sách về CNH, HĐH của Đảng đã thu được một số kết quả quan
trọng. Các cấp ủy đảng, hệ thống tuyên giáo các cấp, các đoàn thể chính trị - xã
hội, các cơ quan báo, đài Trung ương và địa phương đã quan tâm chỉ đạo công tác
tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách và các thông tin mới,
cập nhật liên quan về CNH, HĐH. Nhờ đó mà nhận thức của các cấp, các ngành và
các tầng lớp nhân dân về CNH, HĐH ngày một nâng lên, điều đó đã tạo điều kiện
cho tiến trình CNH, HĐH được thuận lợi và hiệu quả hơn. Song bên cạnh đó, công
tác tuyên truyền về sự nghiệp CNH, HĐH cũng còn hạn chế: Các chủ trương, quan
điểm của Đảng chưa được quán triệt sâu sắc; còn lúng túng khi tuyên truyền mô
hình CNH, HĐH; lý giải những tác động khách quan và chủ quan đến kết quả thực
hiện CNH-HĐH còn nhiều bất cập.
Phát biểu kết luận tại tọa đàm, đồng chí Bùi Thế Đức nhấn mạnh: Trong thời
gian tới, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về
phát triển kinh tế- xã hội, cần tiếp tục đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền về
nhiệm vụ CNH, HĐH, góp phần biến nhận thức thành hành động, thôi thúc sự
tham gia của mỗi người dân, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương trong

cả nước vào quá trình CNH, HĐH đất nước.
2. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là tiến hành quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Đối với đất nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là cần tiến hành Công nghiệp hoá
- hiện đại hoá như thế nào cho thích hợp? Trong bối cảnh mà cuộc cách mạng khoa
học và kỹ thuật hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và xu thế
quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, mô hình công nghiệp hoá hỗn
19


hợp (kết hợp giữa thay thế nhập khẩu với đẩy mạnh xuất khẩu) theo hướng hội
nhập quốc tế là xu hướng có triển vọng rất lớn ở nước ta, về cơ bản Công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước cũng vận động theo hướng đó. Nhưng xét theo cụ thể,
vớiphương châm "rút ngắn khoảng cách, vừa có những bước tuần tự vừa có những
bước nhảy vọt" công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta không những
khác các nước khác về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà khác
cả về mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù của sự
nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta đã không ngừng đổi mới tư duy nhận thức
về CNH, HĐH phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Hội nghị Trung ương
7 (khóa VII) đã có đột phá nhận thức: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động phổ thông là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng xuất lao
động xã hội cao”.
Xuất phát từ kết quả 10 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, từ những
tiền đề đã được tạo ra, từ việc nhận thức được xu thế phát triển như vũ bão của
cách mạng khoa học- công nghệ và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đại hội VIII đã
có những quyết định có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta

sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đại hội IX và Đại hội X tiếp tục
bổ sung và nêu ra những điểm mới như rút ngắn thời gian CNH, HĐH, thực hiện
CNH, HĐH thông qua tận dụng kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ, thành quả của
các nước; kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt và vai trò của nguồn
lực, trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam và vai trò của giáo dục,
đào tạo, khoa học và công nghệ; đặt vấn đề phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh;
vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế; vấn
đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; nhấn mạnh quan điểm CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức…
Theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng XI đã nhấn mạnh việc đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hướng
tới phát triển kinh tế nhanh, bền vững.
Thứ nhất, Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng
cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững
Đây vừa là yêu cầu đặt ra vừa là mục tiêu của 5 năm tới.
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh
tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc
đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị
nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả
nền kinh tế (đây là nội dung mới so với Đại hội X).
20


- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình thức thu
hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
của các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài, phát huy nội lực, tranh thủ
ngoại lực cho phát triển.
- Phát triển đa dạng các ngành, nghề để tạo nhiều việc làm và thu nhập;

khuyến khích, tạo thuận lợi để người lao động học tập, nâng cao trình độ, tay nghề,
đồng thời có cơ chế, chính sách phát hiện, trọng dụng nhân tài. Phát huy tiềm lực
khoa học, công nghệ của đất nước, nâng cao nhanh năng suất lao động xã hội và
chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Tăng cường liên kết, khai thác, phát huy
đúng tiềm năng, thế mạnh của từng vùng kinh tế; tạo điều kiện cho phát triển và
phát huy vai trò đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm, tạo sức lan toả, lôi cuốn các
vùng kinh tế khác.
Thứ hai, phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục
tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ
của nền kinh tế
- Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những
ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng
bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các dây chuyền sản xuất và mạng
lưới phân phối toàn cầu (đây là điểm mới so với Đại hội X).
- Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt
là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế
biến sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, sản phẩm xuất khẩu; sản xuất phân bón, thức
ăn cho chăn nuôi và thuốc bảo vệ động thực vật...
- Phát triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp lý công nghiệp sử
dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động.
- Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công nghiệp
có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số,
hệ thống tự động hoá, có khả năng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, nâng cao tỉ lệ
nội địa hoá sản phẩm....
- Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu, cụm
công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm,
nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao; đẩy
mạnh việc xây dựng các khu công nghệ cao; hình thành và phát triển các khu kinh
tế tổng hợp ven biển và các khu kinh tế cửa khẩu.

- Phấn đấu giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng
7,8 - 8%.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn

21


- Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với
chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu.
- Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản
xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng
dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hoá
các cơ sở chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục
vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
- Xây dựng nông thôn mới: Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô
thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề
gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù
hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai
đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn Việt
Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để
khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả
chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm.
Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối
tượng chính sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân
cư, bảo đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển (đây là

nội dung mới so với Đại hội X).
-

Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao
động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người
dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
Thứ tư, phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân
hàng, thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao
- Ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn
thông, thương mại, du lịch, vận tải, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ.
- Hình thành các trung tâm thương mại - dịch vụ lớn, vừa là trung tâm giao
thương trong nước, vừa là cửa ngõ giao thương với nước ngoài tại Thủ đô Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Xây dựng một số trung
tâm du lịch lớn trong nước, gắn kết có hiệu quả với các trung tâm du lịch lớn của
các nước trong khu vực.
Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP
và gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất sản phẩm vật
chất; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8 - 8,5%/năm.
Thứ năm, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
22


- Phát triển có trọng tâm, trọng điểm và đầu tư tập trung, dứt điểm, kiên
quyết hoàn thành những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế then chốt theo hướng
hiện đại và tương đối đồng bộ ở các vùng động lực phát triển, các khu công nghệ
cao, các khu công nghiệp, khu kinh tế. Hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông
thiết yếu, đường ven biển, đường vành đai biên giới. Hiện đại hoá một số sân bay,
cảng biển quan trọng và một số tuyến đường bộ trọng yếu nối kết với Trung Quốc,

Lào, Campuchia. Tiếp tục hoàn thiện theo hướng hiện đại hệ thống giao thông đô
thị, tập trung giải quyết tình trạng ách tắc giao thông và ngập úng ở Thủ đô Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phát triển nhanh nguồn điện đảm bảo đủ điện cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân; hoàn chỉnh hệ thống truyền tải điện
gắn với bảo đảm vận hành an toàn, phấn đấu giảm 1/3 mức điện tổn thất so với
hiện nay. Phát triển hệ thống cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp
và dân cư nông thôn.
- Xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn, nước, khí thải và các công
trình bảo vệ môi trường. Sớm hoàn chỉnh hệ thống dự báo khí hậu, thời tiết và cơ
sở nghiên cứu về biến đổi khí hậu toàn cầu để nâng cao năng lực dự báo, phòng,
chống, hạn chế tác hại của thiên tai.
Thứ sáu, phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông
thôn
- Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng
cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình
trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng; đồng thời
tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa các vùng để các vùng đều phát triển, từng
bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân cư giữa các vùng.
- Phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn. Phát triển đô thị phù hợp
với quá trình phát triển kinh tế, theo quy hoạch dài hạn, không khép kín theo ranh
giới hành chính và xử lý đúng mối quan hệ giữa đô thị hoá và hiện đại hoá nông
thôn. Đẩy mạnh việc đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn để hạn chế tình
trạng nông dân ra các thành phố, đồng thời không để một khu vực lãnh thổ rộng
lớn nào trống vắng đô thị (đây là điểm mới so với Đại hội X)./.

23


KẾT LUẬN

Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
đang bước vào thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hoá. Vì
vậy, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao
của học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở lý luận cho
đường lối cách mạng của Đảng cộng sản, so sánh con đường cách mạng của giai
cấp vô sản và quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới XHCN. Khi tiến hành phân tích hình thái kinh tế - xã hội TBCN, Các Mác
đã khẳng định: Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên, song không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải
qua tất cả các hình thái đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ
quan nhất định, một quốc gia, một dân tộc có thể bỏ qua một hình thái kinh tế -xã
hội nhất định nào đó. Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu, khách quan hợp quy luật và về
thực chất đó chính là quá trình thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước
theo phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những
bước nhảy vọt" Nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại. Mọi
sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển
vượt bậc thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất .Tuy nhiên dù phát triển tuần tự
hay phát triển rút ngắn thì cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản
xuất. Như vậy trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước không thể
không dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học- công nghệ hiện đại. Hơn nữa cần
biết phát huy những lợi thế của đất nước và tận dụng được những khả năng vốn có,
đồng thời tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và kỹ thuật. Có như vậy chúng ta mới có thể
phát huy được nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần vốn có của Việt Nam để
biến khoa học công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp như Cac Mác đã từng
dự báo và làm cho khoa học, công nghệ trở thành nền tảng, động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.


24



×