Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh vào xuất khẩu hàng may mặc của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.54 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ

Môn : Thương mại Quốc tế

Hà Nội, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài: Vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh
vào xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam

Giảng viên : PGS.TS. Nguyễn Xuân Thiên
Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Hà Nội – 2016


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
Để thực hiện mục tiêu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước đã
chuyển nền kinh tế nước ta từ tập trung, ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất (công nghiệp
nặng) sang thực hiện đồng thời cả ba chương trình kinh tế: Lương thực, xuất khẩu, hàng
tiêu dùng và thực hiện chính sách mở cửa kinh tế. Vì vậy mà ngành dệt may đã có điều
kiện phát triển nhanh chóng. Đến nay, ngành công nghiệp này là một trong những ngành


công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của nước ta. Kết quả xuất khẩu của ngành dệt may có
ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Lý thuyết thương mại quốc tế là một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, phát triển từ
thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong các lý thuyết kinh tế thì lý thuyết thương
mại được coi là phát triển nhất và có tính hệ thống lôgic với nhau. Lý thuyết sau bao giờ
cũng có sự kế thừa và phát triển của lý thuyết trước và mang tính khoa học ngày càng cao,
ngày càng sát với thực tiễn. Trải qua nhiều thế kỷ, thực tiễn thường xuyên biến đổi, xã hội
ngày càng hiện đại văn minh; nhưng các tư tưởng của Chủ nghĩa Trọng thương, lý thuyết
lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, đặc biệt là lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
vẫn còn sống mãi, vẫn được những con người của xã hội hiện đại tiếp tục nghiên cứu và
vận dụng vào đời sống thực tiễn của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội
nhập quốc tế như hiện nay, ngành dệt may sẽ có những cơ hội và cũng gặp phải những
thách thức nhất định. Vậy Việt Nam đã vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh như thế
nào? Bài viết này sẽ tập trung phân tích làm rõ việc vận dụng lý thuyết Lợi thế so sánh
đối với xuất khẩu mặt hàng may mặc ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp kiến nghị đối
nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh trong việc xuất khẩu hàng may
mặc hiện nay.

5


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
1.1.
Định nghĩa về lợi thế so sánh

Lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế, khi các quốc gia
tập trung chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc
những mặt hàng có lợi lớn nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.
1.2.


Giới thiệu lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo

Mô hình lý thuyết lợi thế so sánh được xây dựng trên cơ sở 6 giả thiết sau:
 Mô hình chỉ có 2 quốc gia và 2 loại sản phẩm. Trên thực tế có rất nhiều hàng

hóa được trao đổi nhưng để đơn giản trong phân tích, mô hình chỉ có 2 sản
phẩm và 2 quốc gia.
 Mậu dịch tự do – thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Cũng như mô hình trước, các
doanh nghiệp tự do hoạt động không có bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ.
 Lao động di chuyển tự do trong một quốc gia, nhưng không di chuyển trên
phạm vi thế giới. Để bảo đảm năng suất cố định cho mỗi quốc gia, nếu không
lao động sẽ chuyển dịch từ nơi có lương thấp sang nơi có lương cao thì mô hình
rất khó phân tích.
 Không tính chi phí vận chuyển hàng hóa.
 Kỹ thuật sản xuất giữa 2 quốc gia giống nhau. Giả thiết là chất lượng sản phẩm

của 2 quốc gia như nhau.
 Yếu tố đầu vào của 2 loại sản phẩm cũng giống nhau – theo lý thuyết tính giá
trị bằng lao động. Chi phí sản xuất chỉ tính có một yếu tố duy nhất là lao động.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh thì một quốc gia dù không có lợi thế tuyệt đối trong cả 2
loại sản phẩm so với quốc gia kia nhưng vẫn có lợi khi tham gia trao đổi mậu dịch nếu
chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tuyệt đối so với sản phẩm còn lại ở trong
nước tức là sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so sánh. Trong lý thuyết này, yêu cầu đặt
ra đối với mỗi quốc gia là họ phải xác định được sản phẩm có lợi thế so sánh để:
6


- Chuyên môn hóa sản xuất các loại sản phẩm có lợi thế so sánh để xuất khẩu.
- Đồng thời, nhập khẩu trở lại những sản phẩm không có lợi thế so sánh.

1.3.

Xác định lợi thế so sánh, mô hình thương mại quốc tế

Nếu trong một thời gian nhất định, quốc gia I (QGI) sản xuất được a1 sản phẩm A và
b1 sản phẩm B, quốc gia II (QGII) sản xuất được a2 sản phẩm A và b2 sản phẩm B thì

QGI sẽ xuất khẩu A và nhập khẩu B nếu

nhập khẩu A. Ngược lại, nếu

a1 b1
<
a2 b 2

a1 a2
>
b1 b 2

hay

a1 b1
>
a2 b 2

và QGII sẽ xuất khẩu B,

thì QGI sẽ nhập khẩu A, xuất khẩu B và QGII xuất

khẩu A, nhập khẩu B. Các bạn lưu ý là nếu tính bằng chi phí thì phải đảo dấu các bất đẳng

thức nêu trên. Nếu các bất đẳng thức trên là đẳng thức thì sẽ có trao đổi mậu dịch quốc tế.
1.4.
Ưu, nhược điểm của lý thuyết
1.4.1. Ưu điểm

-Mang tính khái quát cao.
-Chỉ ra được quốc gia nên chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà quốc
gia đó có lợi thế so sánh.
-Chỉ ra lợi ích quá trình phân công lao động quốc tế.
1.4.2. Nhược điểm

- Không giải thích được vì sao năng suất lao động hơn kém nhau giữa các quốc gia do
trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến có một yếu tố duy nhất là lao động. Còn các yếu tố
khác như vốn, kỹ thuật, đất đai và cả trình độ của người lao động thì không được đề cập
đến. Do đó không thể tìm ra nguyên nhân tại sao năng suất lao động của nước này lại cao
hoặc thấp hơn so với năng suất lao động của nước kia.
- Các tính toán chỉ dựa trên cơ sở hàng đổi hàng.
7


- Không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm đem trao đổi giữa các quốc gia.

2. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH VÀO MẶT HÀNG MAY MẶC

CỦA VIỆT NAM
2.1. Chứng minh lợi thế so sánh của mặt hàng xuất khẩu may mặc
Ta có bảng số liệu về kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam giai đoạn
2007-2013 như sau:

m

200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
201
2
201
3

Kim ngạch (triệu USD)

Tốc độ tăng trưởng
(%)

7732

31.3

9120

17.4

9066


-0.6

11 209

23.54

13 211.7

23.54

14 416.2

25.38

17 933.4

18.7

Sơ đồ số liệu:

8


Hình 2.1 Sơ đồ tình hình xuất khẩu ngành dệ may Việt Nam giai đoạn 2007-2009
Từ sơ đồ ta có thể thấy tình hình xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam tăng trưởng
khá tốt và ổn định (trừ năm 2009 do sức mua của thị trường giảm mạnh, hệ quả từ cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, thế nhưng xuất khẩu của ngành dệt may năm
2009 vẫn tương đối khả quan, là ngành duy nhất giữ vững được kim ngạch xuất khẩu gần
như năm 2008). Hàng dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu đi hơn 180 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới như thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU, các nước Đông Âu, các nước Trung

Đông... Sự đón nhận của các thị trường này chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam bước
đầu đã có sự cạnh tranh về giá cả và chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tỷ lệ
đóng góp của ngành dệt may Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước luôn
ở mức trên 12%.
Tuy nhiên, để có thể trông thấy một cách chính xác lợi thế so sánh của mặt hàng
xuất khẩu may mặc, ta cần dùng một phương pháp để có để kiểm chứng, đó là sử dụng
hệ số lợi thế so sánh trông thấy (Revealed Comparative Advantage – RCA).
Ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu vủa Việt Nam và Thế giới năm 2015
Kim

ngạch

xuất

khẩu

Việt Nam (tỷ
9

Thế giới (tỷ USD)


(2015)

USD)
Dệt may
20.9
503
Tổng

150.18
18 494
(Nguồn: Thống kê Hải quan và Báo cáo Thống kê Thương mại Thế giới năm 2015)
Theo công thức ta có:
RCA = (20.9/150.18) : (503/18494) = 5.12
Theo như kết quả tính, chỉ số RCA = 5.12 > 1, từ đó ta có thể thấy rằng xuất khẩu

ngành dệt may Việt Nam là có lợi thế so sánh lớn.
2.2.

Lợi thế về xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam

Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam.
-

Ngày 5/10/2015, Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được
kí kết, tạo nên những thuận lợi rất lớn về nền sản xuất hàng may mặc tại Việt Nam
hiện nay. Các nước tham gia TPP đều là những đối tác xuất khẩu quan trọng của
Việt Nam, đặc biệt là Mỹ và Nhật với 31% các mặt hàng quần áo, da giày được
xuất sang khu vực này.

-

Ngoài ra, lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn nằm trong mảng
quần áo giá rẻ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu và đang trở
thành địa điểm thu hút mới cho ngành may mặc giá rẻ như một lựa chọn thay thế
Trung Quốc.

-


Cùng với nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là sự phát triển của công
nghệ kĩ thuật, đội ngũ lao động có tay nghề ngày càng chiếm tỉ lệ lớn và sự ưu đãi
từ các chính sách nhà nước, ngành dệt may đã thu được nhiều kết quả đáng khích
lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hóa, vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
Bên cạnh đó, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ. Ước tính, Việt Nam

hiện có khoảng 2,5 triệu công nhân đang làm việc tại 6.000 nhà máy trên toàn quốc. Số
10


lượng nhân công trong ngành dệt may Việt Nam chạm đỉnh vào năm 2015, trong khi ở
quốc gia dệt may giá rẻ Bangladesh phải đến năm 2030 mới chạm đỉnh, theo Ngân hàng
Thế giới (WB).
2.3.

Các chính sách của Nhà nước trong hỗ trợ xuất khẩu hàng may mặc của
Việt Nam
Tháng 2/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Dệt May

Việt Nam (VINATEX) giai đoạn 2013 - 2015. Mục tiêu nhằm bảo đảm VINATEX tập
trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính. Trên cơ sở đó hình thành chuỗi cung ứng
sợi - dệt - nhuộm - may; nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của VINATEX, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Công ty mẹ - Tập đoàn Dệt May Việt
Nam khẩn trương thực hiện cổ phần hóa trong năm 2014. Theo đó, sau khi tái cơ cấu sẽ
có 4 doanh nghiệp do Công ty mẹ - Tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ; 6 doanh nghiệp
do Công ty mẹ - Tập đoàn nắm giữ từ trên 50 - 65% vốn điều lệ và 20 doanh nghiệp do
Công ty mẹ - Tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ. Trong giai đoạn 2013 – 2015 phải
thoái 100% vốn của Công ty mẹ - Tập đoàn tại 37 doanh nghiệp như: Công ty Đầu tư và

Phát triển Bình Thắng; Công ty Tài chính cổ phần Dệt May Việt Nam; Trường đại học
Trưng Vương và một số ngân hàng thương mại cổ phần,...Đồng thời, Bộ Công Thương
phải có lộ trình và phương án cụ thể để hết năm 2015 hoàn thành việc thoái vốn.
Tháng 02/2014, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 288/QĐ-TTg về việc hỗ trợ
kinh phí đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam.
Theo đó, sẽ hỗ trợ 65,6 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương năm 2014 để hỗ trợ đào
tạo nguồn nhân lực Dệt may Việt Nam.
Hiện Chính phủ đã có chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành sản xuất sợi,
nhuộm, ngành thuộc da… nhằm nâng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm dệt may, da giày xuất
khẩu để tận dụng ưu đãi thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã
ký kết hoặc chuẩn bị ký kết như Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA),
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương
11


mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên
minh kinh tế Á - Âu… Xem xét miễn giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN cho
DN sản xuất nguyên phụ liệu trên nhằm giảm giá thành trên sản phẩm, tăng khả năng
cạnh tranh với nguyên phụ liệu của Trung Quốc.
Riêng tại TPHCM, để đảm bảo nâng cao khả năng cung ứng nguyên phụ liệu (nhất
là ngành vải nguyên liệu, nguyên phụ liệu dệt may, da giày) phục vụ cho hoạt động sản
xuất hàng xuất khẩu cũng như tiêu thụ tại thị trường nội địa, UBND TP đã chấp thuận chủ
trương cho phép DN đầu tư vào các khu công nghiệp hiện hữu để sản xuất nguyên phụ
liệu trên cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn môi trường về nước thải. Song song đó, Chính phủ đã
chỉ đạo các ban ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ đa dạng hóa thị trường nhập khẩu các
mặt hàng nguyên phụ liệu. Tại thị trường nội địa thực hiện đẩy mạnh kết nối cung cầu
trực tiếp giữa nhà sản xuất nguyên phụ liệu nước ngoài với DN sản xuất hàng xuất khẩu.
Sự tồn vong của DN dệt may trên thị trường nội địa cũng như thị trường thế giới
phụ thuộc rất lớn vào sự chủ động cải cách hoạt động sản xuất và tận dụng chính sách hỗ
trợ từ phía nhà nước. Đặc biệt là trong bối cảnh số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đầu

tư vào ngành dệt may Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng nhằm đón đầu các hiệp định
thương mại tự do như TPP, FTA Việt Nam - EU, FTA Việt Nam - Hàn Quốc…

3. THÀNH TỰU, CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHO NGÀNH

XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM
Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật, đội ngũ lao động có
tay nghề ngày càng chiếm tỉ lệ lớn và sự ưu đãi từ các chính sách nhà nước, ngành dệt
may đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hòa, vừa đảm bảo
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
3.1.
Thành tựu
Theo báo cáo thường niên hiệp hội dệt may Việt Nam, Việt Nam là một trong 10
nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới với thị phần năm 2014 đạt 3.1%. Những thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam bao gồm Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc (chiếm
12


đến 85% tổng kim ngạch xuất khẩu) với sản phẩm chủ yếu quần áo cho phân cấp thấp và
trung bình. Các doanh nghiệp FDI tuy chỉ chiếm 25% về số lượng nhưng đóng góp đến
hơn 65% vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Theo nghiên cứu mới nhất của Tổ chức Xúc tiến xuất khẩu từ các nước đang phát
triển sang EU (CBI) thuộc Bộ Ngoại giao Hà Lan, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt
may trong giai đoạn 2005 - 2011 của Việt Nam đạt mức cao nhất thế giới với 32%, trong
khi đó Trung Quốc đạt 15%, Ấn Độ 10%, các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Thái Lan đạt
mức 7%.
Bên cạnh đó, xuất khẩu các mặt hàng may mặc của Việt Nam tăng trưởng mạnh tại
các thị trường mới, không phải thị trường truyền thống của Việt Nam. Cụ thể, kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường ASEAN tăng 44,4% so với cùng kỳ năm trước.

Campuchia là nước đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong
khối ASEAN, với kim ngạch tăng 103% so với cùng kỳ năm 2012. Ngoài ra, xuất khẩu
dệt may của Việt Nam tại một số thị trường khác cũng có mức tăng trưởng mạnh như sang
Na Uy tăng 134,6%, sang New Zealand tăng 120%, sang Australia tăng 37%... Như vậy,
không ỷ lại vào các thị trường lớn sẵn có, dệt may Việt Nam tiếp tục mở rộng đối tác sang
các thị trường mới và tiềm năng. Tính đến nay sản phẩm dệt may Việt Nam đã có mặt ở
tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong khi nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU,
Nhật Bản đều giảm thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào những thị
trường này vẫn tăng trưởng ổn định. Cụ thể, nhập khẩu dệt may vào thị trường Mỹ năm
2012 giảm 0,5% nhưng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn tăng 9,2%, tại thị trường Hàn Quốc
giảm 7% nhưng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn tăng 9%, thị trường Nhật Bản còn tăng mạnh
tới 17%... Điều này cho thấy dệt may Việt Nam ngày càng uy tín và có tính cạnh tranh cao
trên thị trường thế giới, nhờ đó, trong năm 2012 chúng ta đã phát triển thêm 1 thị trường
có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là Hàn Quốc.Ngày càng nhiều các mặt hàng nước
giải khát xuất hiện trên thị trường đòi hỏi các nhà sản xuất phải nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình, nếu không sẽ dễ dàng bị thay thế bởi các sản phẩm khác có chất lượng tốt
13


hơn. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa các loại sản phẩm cũng như mẫu mã và kiểu dáng
giúp cho khách hàng có thêm nhiều sự lựa chọn phù hợp với sở thích của mỗi người.
3.2.

Cơ hội
Năm 2015 là một năm có nhiều sự kiện nổi bật trong hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam với việc ký kết các FTA với EU, với liên minh kinh tế Á Âu, với Hàn quốc,
cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hoạt động và đặc biệt là việc ký kết hiệp
định xuyên Thái bình dương (TPP). Do đó, ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội

để phát triển xuất khẩu. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho
các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu
vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.
Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi
nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối
tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của
ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v).
Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác
mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có dân số 92 triệu người với mức sống ngày
càng được nâng cao thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và các doanh nhân.
3.3.

Thách thức
Thứ nhất, Xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, xuất khẩu phần lớn

theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng
theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Trong khi đó, ngành dệt và công
nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa tương xứng với ngành may, không đủ nguồn
nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia
tăng không cao. Tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm hơn
14


so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành may mặc
đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Hiện nay, Việt Nam đang dựa vào nguồn cung vải và sợi chính từ Trung Quốc và

Đài Loan – những nước không nằm trong TPP. Như vậy, khi các hiệp định thương mại có
hiệu lực, Việt Nam có rất ít khả năng để được hưởng ưu đãi thuế.
Thứ hai: Hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn
đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã
khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung
ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt
may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường hoặc
chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển
đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như
Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu.
Với 90% doanh nghiệp ngành Dệt may Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, doanh
nghiệp luôn gặp phải vấn đề thiếu vốn do số vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp phụ trợ
dệt may là rất lớn. Cách làm hiện tại là thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào
lĩnh vực dệt may với trên dưới 20 dự án FDI, chủ yếu đến từ Trung Quốc, Đài Loan và
Hồng Kông.
Các doanh nghiệp Trung Quốc khi có được giấy chứng nhận hàng hóa có thương
hiệu Việt Nam, từ đó sẽ được hưởng mức thuế suất cực kỳ ưu đãi thay vì mức thuế suất
37% khi vào thị trường Mỹ của hàng hóa có thương hiệu Trung Quốc. Doanh nghiệp của
Việt Nam thật sự sẽ gặp khó khăn lớn khi các sản phẩm có thương hiệu từ Việt Nam
“thật” sẽ không thể cạnh tranh về giá so với các doanh nghiệp Trung Quốc khi xuất khẩu.
Có thể nói, ngành dệt may với phần lớn các công ty thuộc quy mô vừa và nhỏ, tiềm
lực tài chính và năng lực cạnh tranh thấp sẽ gặp khó khăn khi mở cửa nền kinh tế. Tuy
nhiên, về lâu dài các Hiệp định thương mại tự do sẽ là động lực thúc đẩy các doanh
nghiệp hoàn thiện và chuyển lên khâu cao hơn trong chuỗi giá trị, hội nhập sâu và rộng
hơn vào nền kinh tế thế giới.
15


Thứ ba: Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng
suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn

các doanh nghiệp dệt may cưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây dựng được
chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.
Năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam thấp hơn nhiều so với các
nước trong khu vực cũng như thế giới. Chỉ số năng suất lao động tại khu vực sản xuất của
Việt Nam chỉ đạt 2,4 trong khi các quốc gia sản xuất dệt may lớn như Trung Quốc là 6,9
và Indonesia là 5,2. Đây là điểm yếu lớn nhất của dệt may và các ngành sản xuất sử dụng
lao động khác. Năng suất lao động là yếu tố quan trọng quyết định giá thành sản phẩm.
Năng suất lao động của Việt Nam thấp sẽ đẩy giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt
Nam lên cao hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước khác dẫn đến sức cạnh tranh
của hàng trong nước sẽ sụt giảm.
Bên cạnh đó, năng lực quản lý yếu kém, thiếu hụt lao động, năng suất lao động
thấp, đơn giá lao động tăng lên… cũng là một trong những yếu tố kìm hãm việc tăng năng
lực sản suất cũng như xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam.
Trong khi đó, năm 2015, Campuchia đã vượt qua vị trí của Việt Nam trên thị
trường EU do đơn giá lao động thấp hơn, còn Ấn Độ, Bangladesh thì triển khai một loạt
chính sách hỗ trợ phát triển nhân lực ngành dệt may trong những tháng đầu năm 2016. Rõ
ràng, nguồn nhân lực ngành dệt may đang mất dần đi lợi thế cạnh tranh và cần những biến
chuyển lớn khi các hiệp định thương mại đi vào thực thi.
Thứ tư: Môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản
pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của
các cán bộ xây dựng và thực thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến
thương mại còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng.
Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật,
trách nhiệm xã hội, nhãn mác sinh thái, bảo vệ môi trường, chống trợ giá nhằm bảo
hộ sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa,
không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt
16


trong các tranh chấp thương mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng

ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Mặc dù chính sách của Chính phủ khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp phụ
trợ nhưng các địa phương có xu hướng không thu hút đầu tư vào các ngành dệt nhuộm vì
vấn đề môi trường..
Giải pháp và kiến nghị
Về phía doanh nghiệp ngành Dệt may
• Đưa ra các chiến lược nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, chú trọng nâng cao sức cạnh tranh
3.4.
3.4.1.

của các sản phẩm thông qua cải tiến công nghệ, mẫu mã, chuyển từ gia công thuần túy
trước đây sang FOB, từ một nước nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, hầu như là 100% thì
hiện đã giảm xuống còn 60-65% và là bước để các doanh nghiệp dệt và sợi thế giới tạo
một niềm tin và mở rộng hợp tác với Việt Nam. Đồng thời, kêu gọi các nhà sản xuất sợi
dệt nhuộm thế giới, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược này của Việt Nam và các
sản phẩm cao cấp. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần tăng cường áp dụng các công nghệ
quản lý cao cấp nhằm tăng năng suất lao động, phấn đấu đạt được mục tiêu đứng thứ hai,
thứ ba trong top các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất trên toàn thế giới.
• Tái cấu trúc ngành để hoàn thiện chuỗi cung ứng, liên kết cung ứng theo nguyên tắc thị
trường từ sợi - vải - đến khâu May. Hiện tại năng lực cung ứng trong nước sẵn có về vải
đạt khoảng 40%, nếu kể cả các dự án sẽ đưa vào vận hành trước 2018 sẽ đạt trên 55%, các
phụ liệu khác đạt trên 70%. Đến năm 2020, ngành Dệt may có thể đạt trên 60% tỷ lệ nội


địa.
Nâng cao năng suất lao động. Hiện tại năng suất lao động kỹ thuật của Dệt may Việt Nam
đã đạt tương đương các quốc gia cạnh tranh chính như Ấn Độ, Bangladesh, Mexico,
Indonesia. Cao hơn các quốc gia Trung Mỹ - Caribe, Myanma, Campuchia. Đạt 80% năng
suất của Trung Quốc với đơn hàng lớn, và trên 90% với đơn hàng vừa và nhỏ. Mục tiêu,

năng suất lao động kỹ thuật của Việt Nam phải đạt trong top 3 quốc gia đứng đầu thế giới
để đảm bảo duy trì và đạt được vị trí là quốc gia xuất khẩu Dệt may lớn từ thứ 3- 5 trên
thế giới. Đây cũng là giải pháp căn bản để hạn chế bớt ảnh hưởng của việc giảm giá đồng
tiền của các quốc gia canh tranh chính như Trung Quốc (giảm 6% năm 2015), Malaysia
17


(giảm 17%), Ấn độ (giảm 4%), Pakistan (giảm trên 6%), Indonesia (14%), đồng euro và
đồng Yên yếu cũng làm giảm nhu cầu nhập khẩu của 2 thị trường này.
• Nâng cao chất lượng nhân lực, trong đó trọng tâm là nhân lực thiết kế kỹ thuật, nhân lực
kỹ thuật ngành sản xuất nguyên liệu, nhân lực xử lý đơn hàng tổng hợp và nhân lực quản
trị sản xuất.
• Tiếp tục đầu tư và thu hút đầu tư cho ngành sản xuất nguyên liệu theo chiến lược chung
cả nước có từ 10-15 trung tâm sản xuất nguyên liệu và thiết kế, cung ứng cho các doanh
nghiệp may phân tán về đến cấp huyện trên cả nước. Vai trò quan trọng của FDI đòi hỏi
các chính sách khuyến khích phù hợp, nhưng cần khắt khe trong lựa chọn các dự án FDI
theo hướng chuẩn công nghệ và môi trường cao.
• Không hạ thấp chỉ tiêu môi trường, nhưng Chính phủ cần hỗ trợ tài chính cho hoạt động
xử lý nước thải trong ngành nhuộm.
3.4.2. Về thể chế quản trị Quốc gia
• Xây dựng các tiêu chí đo lường chi phí và thời gian trong các thủ tục hành chính, hướng
tới chi phí quản trị công mà doanh nghiệp Việt Nam cần chi trả tương đương các quốc gia
cạnh tranh.
• Có quy hoạch ngành Dệt may đến 2050 với chi tiết vê quy mô tại các khu vực cả trong
đất đai, nguồn lao động và trong tổng thể kết nối với hệ thống hạ tầng giao thông - cảng
biển quốc gia.
• Chiến lược đào tạo nhân lực cho ngành theo hướng xã hội hóa, hỗ trợ trực tiếp cho doanh


nghiệp tạo việc làm chuyển đổi cho lao động nông nghiệp sang công nghiệp.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm nhẹ thủ tục và thời gian xử lý trong các thủ
tục xuất nhập khẩu, thuế, hải quan, kiểm định các chỉ tiêu phi thuế quan. Giảm chi phí
logistic của Việt Nam tiến tới ngang bằng với các quốc gia cạnh tranh. Có chính sách tỷ
giá linh hoạt, khuyến khích các ngành nghề xuất khẩu, không gặp khó khăn khi so sánh
tương quan với các quốc gia cạnh tranh chính. Không bỏ lỡ cơ hội từ mở cửa thị trường
và cắt giảm thuế quan từ các FTAs.
3.4.3. Về xã hội
Xây dựng văn minh và tác phong công nghiệp, nhất là ở khu vực nông thôn để đáp ứng
sẵn sàng cho việc chuyển đổi sang làm việc trong khu vực công nghiệp.

18


KẾT LUẬN
Trong những năm trở lại đây, Việt Nam đã và đang ký kết các hiệp định thương
mại tự do, mà gần đây nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, để hòa
mình vào với sân chơi chung của quốc tế. Điều này mang lại nhiều lợi thế cũng như
không ít khó khăn cho các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là may mặc. Mặc dù giá trị gia
tăng trong ngành dệt may là chưa cao nhưng những gì mà ngành dệt may làm được trong
những năm qua là không thể phủ nhận. Xu hướng thế giới đang thay đổi trong việc nhập
khẩu các mặt hàng dệt may đem lại cho nước ta nguồn thu đáng kể. Những lợi thế sẵn có
như ổn định chính trị, chi phí nhân công thấp, đáp ứng được sự đa dạng về chủng loại
hàng may mặc,… đã giúp cho ngành dệt may có mức tăng trưởng ổn định và khả quan dù
các thị trường trên thế giới có những biến động bất lợi. Phát huy lợi thế sẵn có và hạn chế
những yếu điểm của ngành trong thời gian tới là cực kỳ quan trọng khi mà sức ép cạnh
tranh ngành càng tăng như hiện nay. Để làm được điều này, không chỉ cần tới sự hỗ trợ từ
phía nhà nước mà bản thân ngành dệt may cũng cần nâng cao chất lượng sản phẩm
như năng lực đáp ứng tốt các yêu cầu trong đơn hàng theo phương thức FOB, nâng cao kỹ
năng quản lý, kỹ năng của các cán bộ xúc tiến thương mại được nâng cao,… Mọi giải
pháp sẽ chỉ có thể thực hiện hiệu quả được nếu được thực hiện bởi đội ngũ lãnh đạo có

tầm nhìn, quyết tâm, đồng lòng và đội ngũ lao động lành nghề. Con người vẫn là yếu tố
then chốt của sự phát triển.
Từ những phân tích và đề xuất như trên, nhóm chúng em hy vọng đã làm rõ được
tình hình cũng như lợi thế xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam (dựa trên Lý thuyết lợi thế
so sánh). Tuy vậy, với vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn chế nên bài làm khó tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em rất mong được những góp ý để hoàn thiện bài hơn. Nhóm xin
trân thành cảm ơn!

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Đinh Thị Liên, Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Giáo trình Thương mại quốc tế, 2009
Hiệp hội dệt may Việt Nam, Bản tin Kinh tế - Dệt may số tháng 1/2016, tháng 2/2016;
Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, Bản tin ngành hàng dệt may tháng 12/2015;
Công ty CP Chứng khoán Vietcombank, Báo cáo triển vọng ngành Dệt may 2016;
Báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered Bank, 2015, Trans-Pacific Partnership (TPP):

Winners and losers.
6. /> />
20


21




×