Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Quy định của Pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.88 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

I – MỞ ĐẦU :......................................................................................................2
II – NỘI DUNG :.................................................................................................2
1.Quy định của Pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông
đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam...............................2
a.Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông
đối với người khuyết tật :..............................................................................3
b.Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam :...............................................................6
2.Có một gia đình có con bị khuyết tật. Nhưng họ đối xử tệ với người con
này, biểu hiện bằng các hành vi : không cho đi học, cho ăn mặc rách rưới, chô
ở tồi tàn so với những người con khác, dấu diếm không cho người khác biết,
gạt người khuyết tật ra khỏi những quyết định quan trọng trong gia đình…...8
III – KẾT LUẬN...............................................................................................12

1


I – MỞ ĐẦU :
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Hiện nay trên thế giới có khoảng 10% dân số là
người khuyết tật. Số người khuyết tật ở Việt Nam đang chiếm tỉ lệ cao trên khu
vực và trên thế giới. Người khuyết tật luôn cần đến sự trợ giúp, hô trợ của nhà
nước và xã hội. Để tìm hiểu các vấn đề về quy định của pháp luật hiện hành về
công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật, cũng như quyền
và nghĩa vụ của người khuyết tật cũng như trách nhiệm của gia đình đối với
người khuyết tật, em xin chọn đề bài số 5 làm nội dung bài tập lớn học kỳ.
Đề bài :
1. Quy định của Pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông
đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.


2. Có một gia đình có con bị khuyết tật. Nhưng họ đối xử tệ với người con
này, biểu hiện bằng các hành vi : không cho đi học, cho ăn mặc rách rưới,
chô ở tồi tàn so với những người con khác, dấu diếm không cho người
khác biết, gạt người khuyết tật ra khỏi những quyết định quan trọng trong
gia đình…
a. Ý kiến của bạn với tình huống trên ?
b. Hãy phân tích và bình luận quy định của pháp luật hiện hành liên quan
đến tình h́ng trên.
II – NỢI DUNG :
1. Quy định của Pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật. Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.
Trả lời :
2


a. Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền
thông đối với người khuyết tật :
Truy cập thông tin và công nghệ thông tin – truyền thông tạo ra nhiều cơ hội
cho môi người nói chung, cho người khuyết tật nói riêng. Xuất phát từ vai trò đó
của công nghệ thông tin và truyền thông , pháp luật đã xác định trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc khuyến khích các hoạt động nhằm hô trợ sự
tiếp cận công nghệ thông tin của người khuyết tật.
Đối với người khuyết tật, công nghệ thông tin có thể giúp họ phát huy được
vai trò đóng góp cho sự phát triển xã hội. Người khuyết tật ở một số dạng nhất
định như khiếm thính, khiếm thị thường gặp khó khăn hơn trong việc học tập và
trao đổi thông tin với xã hội bên ngoài, bởi người khiếm thị thông thường chỉ có
thể đọc thông tin qua hệ thống chữ nổi, trong khi hầu hết các tài liệu đều không
có ở dạng này. Tuy nhiên công nghệ thông tin và truyền thông có thể giúp họ
tháo gỡ, khắc phục được những khó khăn này, thậm chí họ có thể tìm được việc
làm phù hợp để kiếm thêm thu nhập. Ngoài ra, công nghệ thông tin còn có thể là

công cụ làm tăng khả năng phục hồi, khắc phục khiếm khuyết ở người khuyết
tật. Với người chậm phát triển về não, các trò chơi trên máy tính giúp cho sự
phát triển của trí óc do kích thích sự tư duy,vận động suy nghĩ,…
Bên cạnh công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông một mặt phản
ánh thông tin cần thiết về người khuyết tật trên mọi lĩnh vực đến cộng đồng,
mặt khác cũng cung cấp thông tin từ đời sống cộng đồng đến với người khuyết
tật, nếu họ có khả năng tiếp nhận hoặc được hô trợ phuong tiện tiếp cận thuận
tiện. Chất lượng đời sống tinh thần của người khuyết tật qua đó được nâng lên.
Xuất phát từ vai trò đó của công nghệ thông tin và truyền thông, pháp luật đã
xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc khuyến khích các
hoạt động nhằm hô trợ sự tiếp cận công nghệ thông tin của người khuyết tật.
Theo đó, Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong
3


lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành
cho người khuyết tật. Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với
lãi suất ưu đãi và hô trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch
vụ, phương tiện hô trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyển
thông ; hô trợ việc thu nhập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Bralle
dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người khuyết tật nghe, nói
và khuyết tật trí tuệ. Theo Điều 43 Luật người khuyết tật :
“ Điều 43. Công nghệ thơng tin và truyền thơng
1. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin dành cho người khuyết tật.
2. Cơ quan thơng tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất
và tinh thần của người khuyết tật.
Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng
có phụ đề tiếng Việt và ngơn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy

định của Bộ trưởng Bộ Thơng tin và Truyền thơng.
3.Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và
hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ,
phương tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền
thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille
dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người khuyết tật nghe,
nói và người khuyết tật trí tuệ.”
Điều luật này đưa ra vô cùng hợp lí và cần thiết phù hợp với nguyên tắc
bình đẳng, không phân biệt đối xử của luật khuyết tật. Vì trong thời đại phát
triển công nghệ thông tin và truyền thông là những phương tiện phổ biến, nó
cung cấp cho con người một kho tàng kiến thức rộng lớn. Người khuyết tật tất
nhiên cũng có quyền được tiếp cận với nền khoa học hiện đại này.
4


Luật công nghệ thông tin năm 2006 cũng nhấn mạnh việc Nhà nước có
chính sách ưu đãi để tổ chức, các nhân có hoạt động ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin đối với người khuyết tật:
“a) Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả
năng của người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và tri
thức thông qua sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin;
b) Sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ
thông tin và nội dung thông tin số đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật.”
Ngày 14/9/2009, Bộ thông tin và truyền thông ban hành Thông tư số
28/2009/TT-BTTTT quy định về việc áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hô trợ
người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ban
hành kèm theo Thông tư này là “ Danh mục tiêu chuẩn hô trợ người khuyết tật
tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ban hành kèm theo
thông tư này là “ Danh mục tiêu chuẩn hô trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông”. Các tiêu chuẩn hô trợ người khuyết tật

tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông được quy định áp dụng
theo hai hình thức : bắt buộc áp dụng và khuyến nghị áp dụng.
Trong lĩnh vực truyền thông, cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm
phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật để cộng đồng nắm
bắt được thông tin về bộ phận cư dân đặc biệt này. Ngược lại, để người khuyết
tật có thể tiếp cận được thông tin, Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực
hiện chương trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ kí hiệu cho người
khuyết tật. Các Đài truyền hình trung ương được cấp phép phủ sóng toàn quốc
có trách nhiệm áp dụng công nghệ hô trợ người khiếm thính tiếp cận chương
trình thời sự chính trị tổng hợp phát hành hàng ngày tối thiểu trên một kênh. Đối
với các đài truyền hình thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đài
truyền hình có diện phủ sóng khu vực, nhà nước khuyến khích áp dụng công
nghệ hô trợ người khiếm thính.
5


Tóm lại, công nghệ thông tin nói chung dù được phát triển khá mạnh mẽ
nhưng vẫn là lĩnh vực tương đối mới mẻ ở nước ta. Tuy vậy, ở mức độ nhất
định, pháp luật đã có những quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện để người
khuyết tật có thể tiếp cận với lĩnh vực hiện đại này, đảm bảo quyền hòa nhập
cộng đồng của họ.
b. Thực tiễn thực hiện ở Việt Nam :
Thời gian vừa qua, thực hiện Thông tư số 28/2009/TT-BTTTT ngày
14/9/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tất cả các ngành, các cấp và cả
các doanh nghiệp đã và đang triển khai tích cực các biện pháp giúp người
khuyết tật hòa nhập với cuộc sống, trong đó có việc tiếp cận và ứng dụng công
nghệ thông tin vào cuộc sống.
Hàng năm Bộ Thông tin và truyền thông đều tổ chức giải thưởng Hiệp sỹ
công nghệ thông tin để vinh danh những người khuyết tật có đóng góp cho việc
đưa công nghệ thông tin đến với người khuyết tật và những người khuyết tật có

thành tích trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Bên cạnh đó, sự thành công của việc phát triển phần mềm hô trợ âm thanh
Braille giúp người mù có thể dùng được máy tính do công ty Sitec phối hợp với
nhóm sinh viên của Đại học Bách Khoa TP.HCM. Sau đó là phần mềm NDC để
có thể soạn thảo tiếng Việt... Tháng 10 vừa qua, cổng thông tin
Thegioimatxa.net - cổng thông tin nghề nghiệp của người khiếm thị đã chính
thức ra mắt và đi vào hoạt động…
Vào ngày 10/10/2003 Đài truyền hình Việt Nam đã chính thức phát chương
trình thời sự đầu tiên dành cho người khiếm thính trên sóng VTV2 với thời
lượng 45 phút. Ngoài hình ảnh và lời của phát thanh viên, trên màn hình tivi còn
có dòng phụ đề để những người khiếm thính có thể theo dõi được. Trung bình
cứ 10 giây hình thì truyền tải được 1 đến 2 dòng phụ đề.

6


Đây chính là bản tin thời sự phát trên sóng VTV1 lúc 19h hằng ngày, nhưng
nội dung đã được biên tập cho phù hợp.Theo những người làm chương trình,
với các tin chính trị, kinh tế sẽ khó khăn trong việc truyền tải bởi số lượng chữ
phụ đề sẽ nhiều và người khiếm thính khó tiếp nhận. Vì thế các biên tập viên
phải biên tập cho ngắn gọn hơn. Giám đốc Văn phòng Điều phối các hoạt động
hô trợ người tàn tật VN (NCCD) Nghiêm Xuân Tuệ khẳng định, việc ra đời
chương trình này là một tin vui cho 400.000 người khiếm thính trên toàn quốc.
Bởi bao nhiêu năm qua họ xem bản tin thời sự mà không hiểu gì, hoặc hiểu rất
ít. Trước đó, NCCD và Đài truyền hình VN có ý định dùng thủ ngữ (ngôn ngữ
ký hiệu bằng tay), nhưng vì ngôn ngữ này không thống nhất ở 3 miền nên phải
thay bằng phụ đề.
Ngoài ra, một số dự án hô trợ công nghệ thông tin – truyền thông cho người
khuyết tật cũng đã, đang và sẽ được triển khai trong thời gian tới :
- Ứng dụng công nghệ thông tin đồng thời sử dụng các sản phẩm công

nghệ thông tin nhằm tạo các cơ hội hô trợ người khuyết tật tiếp cần gần
hơn với cộng đồng.
- Duy trì và phát triển các công cụ trung gian để hô trợ những người khuyết
tật, bổ sung và tìm tòi thêm các phần mềm tiên tiến.
- Cung cấp thông tin cho các tổ chức có liên quan, các nhà khoa học và cá
nhân quan tâm đến chương trình phát triển người khuyết tật
- Tập huấn cho người tàn tật về cách sử dụng Internet và về các phần mềm
hô trợ tìm kiếm thông tin trên cổng thông tin dành cho người khuyết tật
và về nhân quyền.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình thúc đẩy công nghệ thông tin
– truyền thông cho người khuyết tật vẫn còn vấp phải nhiều hạn chế. Như việc
chọn việc làm cho người khuyết tật yêu thích công nghệ thông tin rất khó khăn
bởi đa số việc làm liên quan đến lĩnh vực này đều đòi hỏi sự linh hoạt, đây là
7


một đòi hỏi khó khăn đối với người khuyết tật, mặt khác nhiều cơ quan của Nhà
nước vẫn còn e ngại tiếp nhận lao động khuyết tật, có những phần việc có thể
ưu tiên cho người khuyết tật nhưng người khuyết tật vẫn chưa được tiếp nhận…
Vì vậy, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp, cá nhân cần tạo
mọi điều kiện khắc phục tình trạng này, giúp người khuyết tật có cơ hội tiếp cận
CNTT – TT nhiều hơn nữa trong tương lai.
2. Có một gia đình có con bị khuyết tật. Nhưng họ đối xử tệ với người con
này, biểu hiện bằng các hành vi : không cho đi học, cho ăn mặc rách
rưới, chỗ ở tồi tàn so với những người con khác, dấu diếm không cho
người khác biết, gạt người khuyết tật ra khỏi những quyết định quan
trọng trong gia đình…
Trả lời :
a. Ý kiến của bạn với tình huống trên :
Hành vi đối xử tệ với người con bị khuyết tật của gia đình này là hoàn toàn

vi phạm quy định của pháp luật và trái với đạo đức xã hội.
Thứ nhất, hành vi của gia đình đã đi ngược lại với đạo đức xã hội :
Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm yêu thương , đùm bọc lẫn nhau.
Đặc biệt đối với người khuyết tật – những người phải chịu thiệt thòi hơn cả về
vật chất lần tinh thần thì càng cần nhiều hơn nữa sự yêu thương, chăm sóc từ gia
đình. Hành vi không cho đi học, cho ăn mặc rách rưới, chô ở tồi tàn so với
những người con khác, dấu diếm không cho người khác biết, gạt người khuyết
tật ra khỏi những quyết định quan trọng trong gia đình,… là những hành vi đáng
bị xã hội lên án.
Thứ hai, những hành vi của gia đình này thể hiện sự phân biệt đối xử, kì thị
với người khuyết tật, vi phạm quy định của pháp luật
Những hành vi nêu trên của gia đình này đã thể hiện sự phân biệt đối xử
nặng nề đối với người khuyết tật. Theo khoản 3 Điều 2 Luật người khuyết tật :
8


“Phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược
đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lí do
khuyết tật của người đó.” Ta thấy, con người sinh ra đã có quyền được sống,
được học tập và mưu cầu hạnh phúc, đối với người khuyết tật, những quyền này
được ghi nhận trong Công ước về người khuyết tật cũng như Hiến pháp Việt
Nam. Nhưng ở đây, gia đình này đã vi phạm quy định của pháp luật, cụ thể là vi
phạm quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật ( Điều 4 Luật người khuyết tật ),
làm trái trách nhiệm của gia đình đối với người khuyết tật ( Điều 8 Luật người
khuyết tật ) và vi phạm những hành vi bị nghiêm cấm ( Điều 14 Luật người
khuyết tật ). Việc gia đình này dấu diếm không cho người khác biết, gạt người
khuyết tật ra khỏi những việc quan trọng của gia đình thể hiện sự kì thị của gia
đình đối với người khuyết tật, không tôn trọng ý kiến của người khuyết tật khi
tham gia vào các công việc của gia đình,…
Tóm lại, có thể thấy tất cả các hành vi của gia đình này đối với người khuyết

tật cho thấy gia đình này đã có sự phân biệt đối xử, kì thị, không tôn trọng
người khuyết tật, hạn chế quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật một cách trầm
trọng. Đây chính là nguyên nhân cản trở người khuyết tật hòa nhập với cuộc
sống cộng đồng.
b. Hãy phân tích và bình luận quy định của pháp luật hiện hành liên quan
đến tình huống trên.
Qua tình huống trên, có thể thấy một số quy định của pháp luật liên quan đến
vấn đề này như sau :
Tại Công ước về quyền của người khuyết tật quy định người khuyết tật có
quyền được đối xử bình đẳng, được tự do biểu đạt chính kiến, quyền được bảo
vệ, không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng.
Theo điều 4 Luật người khuyết tật cũng quy định :
9


Điều 4. Quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật
1. Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền sau đây:
a) Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội;
b) Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng;
c) Được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội;
d) Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề,
việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận cơng trình cơng cộng, phương tiện giao
thơng, cơng nghệ thơng tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ
khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp
luật.
Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận trách nhiệm của gia đình đối với người
khuyết tật như sau :
Điều 8. Trách nhiệm của gia đình

1. Gia đình có trách nhiệm giáo dục, tạo điều kiện để thành viên gia đình
nâng cao nhận thức về vấn đề khuyết tật; thực hiện các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương tích, bệnh tật và
nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật.
2. Gia đình người khuyết tật có trách nhiệm sau đây:
a) Bảo vệ, ni dưỡng, chăm sóc người khuyết tật;
b) Tạo điều kiện để người khuyết tật được chăm sóc sức khỏe và thực hiện
quyền, nghĩa vụ của mình;
10


c) Tôn trọng ý kiến của người khuyết tật trong việc quyết định những vấn đề
liên quan đến cuộc sống của bản thân người khuyết tật và gia đình;
d) Thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định rất rõ trách nhiệm của gia đình
trong việc :
- Giáo dục, tạo điều kiện để các thành viên gia đình nâng cao nhận thức về
vấn đề khuyết tật.
- Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm
sinh, khuyết tật do tai nạn…
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của gia
đình đối với người khuyết tật, nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ của người khuyết
tật. Cụ thể, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật theo hướng
tạo điều kiện để thực hiện bình đẳng quyền công dân và nhấn mạnh quyền,
nghĩa vụ riêng biệt, cũng như trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá
nhân trong việc bảo đảm quyền, nghĩa vụ của họ.
Theo Điều 14 Luật người khuyết tật quy định :
Điều 14. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật.
2. Xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp

của người khuyết tật.
3. Lơi kéo, dụ dỗ hoặc ép buộc người khuyết tật thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật, đạo đức xã hội.

11


4. Lợi dụng người khuyết tật, tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người
khuyết tật, hình ảnh, thơng tin cá nhân, tình trạng của người khuyết tật để trục
lợi hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
5. Người có trách nhiệm ni dưỡng, chăm sóc người khuyết tật không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm ni dưỡng, chăm sóc theo quy
định của pháp luật.
6. Cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con của người khuyết tật.
7. Gian dối trong việc xác định mức độ khuyết tật, cấp giấy xác nhận khuyết
tật.
Việc quy định những hành vi bị cấm là hành vi người nuôi dưỡng, chăm sóc
không thực hiện đúng trách nhiệm của mình cũng nhằm tạo điều kiện sống tốt
nhất cho người khuyết tật, họ là những người kém may mắn, vì vậy họ phải
được gia đình quan tâm, giúp đỡ để bù đắp sự khiếm khuyết về cơ thể, từ đó
mới có thể hòa nhập cộng đồng xã hội.
III – KẾT LUẬN
Bằng việc phân tích nội dung của đề bài số 5. Em đã hiểu phần nào nội dung
các vấn đề về quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và
truyền thông đối với người khuyết tật, cũng như quyền và nghĩa vụ của người
khuyết tật cũng như trách nhiệm của gia đình đối với người khuyết tật. Bên
cạnh đó giúp nâng cao nhận thức về người khuyết tật, có thái độ tôn trọng cũng
như giúp đỡ họ trong cuộc sống nhiều hơn.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài tập học kì của em. Trong quá trình làm bài
không thể tránh khỏi những thiếu sót không đáng có. Rất mong nhận được ý

kiến đóng góp từ thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn !

12


PHỤ LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo :
1. Giáo trình Luật người khuyết tật Việt Nam – Trường ĐH Luật Hà Nội
( NXB CAND, Hà Nội 2011 )
13


2. Luật Người khuyết tật năm 2010 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
3. Công ước về quyền của người khuyết tật 2006 ( NXB Lao động - xã hội
2008 ).
Link website tham khảo :
/>%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=25823

14



×