Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Mối quan hệ giữa hợp đồng cấp tín dụng và hợp đồng bảo đảm theo quy định pháp luật và những vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật năm 2017.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.47 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng
được coi là ngành dịch vụ đầy tìm năng và nhiều triển vọng, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Trong ngành ngân hàng, hoạt động tín dụng cho vay được
đẩy mạnh. Do đó, bên cạnh các hợp đồng tín dụng luôn tồn tại các biện pháp
bảo đảm tiền vay. Để tạo cơ sở pháp lí cho TCTD và khách hàng trong quá trình
vay vốn, pháp luật về bảo đảm tiền vay không ngừng được hoàn thiện qua từng
thời kì.Tuy nhiên, pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hiện vẫn còn
những bất cập cần tiếp tục hoàn thiện. Để góp phần vào việc tìm hiểu chế định
này, trong khuôn khổ bài tập nhóm em xin nghiên cứu đề bài số 7: “Mối quan
hệ giữa hợp đồng cấp tín dụng và hợp đồng bảo đảm theo quy định pháp
luật và những vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật
năm 2017.”
NỘI DUNG
I – Khái quát về hoạt động cấp tín dụng và bảo đảm tiền vay trong thực
hiện tín dụng
1. Hoạt động cấp tín dụng:
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. (Khoản 14 Điều 3 Luật các tổ
chức tín dụng 2010).
Thuật ngữ “cấp tín dụng” dùng để chỉ một hoạt động nghiệp vụ nằm trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Như vậy, có thể hiểu hợp đồng cấp
tín dụng bao gồm các loại hợp đồng cầm cố, thế chấp, bao thanh toán, chiết
khấu, bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, giao dịch bảo đảm chủ yếu phát sinh cùng


với việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng. Do vậy, nghiên cứu mối
quan hệ giữa hợp đồng cấp tín dụng và hợp đồng bảo đảm, thực chất là mối
quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay..
2. Bảo đảm tiền vay và các biện pháp bảo đảm trong thực hiện tín dụng
ngân hàng:
Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã
cho khách hàng vay. Như vậy thực chất của bảo đảm tiền vay là một trong
2


những biện pháp để phòng ngừa rủi ro của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng đưa ra các hình thức bảo đảm thích hợp áp dụng cho từng đối tượng khách
hàng và biện pháp xử lý các bảo đảm đó nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro tín
dụng xảy ra.
Theo đó, biện pháp bảo đảm tiền vay được chia làm hai loại:
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản gồm: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
khách hàng vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản
hình thành từ vốn vay.
- Bảo đảm không bằng tài sản gồm: tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động lựa
chọn khách hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; tổ chức tín dụng được
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ; tổ chức tín
dụng cho cá nhân, hộ gia đình vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội.
Biện pháp bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp để đảm bảo việc
thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng chính, không phải là điều kiện bắt buộc, dù
có các biện pháp này hay không đều không ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và chịu
các biện pháp xử lý về tài sản nếu vi phạm. Các biện pháp đảm bảo tiền vay
giúp giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các bên, kích thích hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
II – Quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng tín dụng có bảo đảm
bằng tài sản.
1. Hợp đồng tín dụng:
1.1. Khái niệm:
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên
cho vay) với khách hàng là tổ chức, cá nhân (bên vay) theo đó tổ chức tín dụng
thỏa thuận ứng trước một số tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời hạn
nhất định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi dựa trên sự tín nhiệm. Về bản
chất, hợp đồng tín dụng là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong
trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là
các ngân hàng.
1.2.

Đặc điểm:

Thứ nhất, về chủ thể: một bên tham gia hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tổ
chức tín dụng có đủ các điều kiện luật định với tư cách là bên cho vay. Còn chủ
3


thể bên kia có thể là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thỏa mãn những
điều kiện vay vốn do pháp luật hoặc do tổ chức tín dụng quy định.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng tín dụng là tiền.
Thứ ba, hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền
lợi của bên cho vay bởi vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay
chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau thời hạn nhất định. Thời hạn cho vay càng
dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn và vì thế tổ chức tín dụng càng phải
quan tâm đến việc áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro, đồng thời phải quy

định lãi suất cho vay cao hơn nhằm thu hồi đủ các chi phí bỏ ra cho việc quản lý
các khoản cho vay dài hạn vốn có mức độ rủ ro cao.
Thứ tư, về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ. Trong hợp đồng tín dụng,
nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực
hiện trước làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
1.3.

Hình thức:

Hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn luôn được lập thành văn bản. Hợp đồng
tín dụng ngân hàng đa phần là hợp đồng theo mẫu. Tên gọi có thể là: Hợp đồng
tín dụng; Hợp đồng vay; Khế ước vay vốn; hoặc phụ thuộc vào thời hạn vay,
mục đích vay, hợp đồng có thể có thêm các cụm từ: “ngắn hạn”; “trung hạn”;
“dài hạn”; “đồng Việt Nam”; “ngoại tệ”; “tiêu dùng”; “đầu tư”… Hợp đồng tín
dụng có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các
bên.
1.4.

Nội dung của hợp đồng tín dụng:

Hợp đồng tín dụng phải đảm bảo các nội dụng về:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn;
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng, số tiền vay;
- Điều khoản về phương thức cho vay;
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay;
- Điều khoản về lãi suất;
- Điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay;
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay vốn và lãi;
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng.
4



Nếu hợp đồng tín dụng được ký kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ
nằm trong hợp đồng tín dụng hoặc có thể lập một hợp đồng riêng biệt.
1.5.

Giao kết hợp đồng tín dụng:

Doanh nghiệp cần nhận thức rằng giao kết hợp đồng tín dụng là một quá
trình bao gồm nhiều khâu:
- Đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng;
- Thẩm định hồ sơ tín dụng;
- Quyết định cho vay;
- Đàm phán các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng.
Trong đó, khâu đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng và khâu thẩm định hồ
sơ tín dụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Hồ sơ tín dụng
thể hiện mối quan hệ tổng thể giữa doanh nghiệp và ngân hàng, minh chứng cho
doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn. Sự hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ tín
dụng, kết quả thẩm định hồ sơ (chính là việc thẩm định các điều kiện vay vốn
của doanh nghiệp) là cơ sở, căn cứ để doanh nghiệp có thể được vay vốn ở ngân
hàng.
1.6.

Hiệu lực của hợp đồng tín dụng:

Các ngân hàng thường đưa vào hợp đồng tín dụng câu: Hợp đồng này có
hiệu lực cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc, lãi và các chi phí có liên quan. Nếu
thoả thuận này được công nhận, thì dẫn đến tình trạng không hợp lý là hiệu lực
của hợp đồng tín dụng sẽ luôn luôn là vô thời hạn, không bao giờ chấm dứt, nếu

chưa trả hết nợ.
Tuy nhiên trên thực tế, Toà án đã từng thừa nhận thời hiệu khởi kiện không
tính từ ngày hết hạn trả nợ theo thoả thuận, mà tính đến khi bên vay trả hết nợ
trong trường hợp hợp đồng tín dụng có thoả thuận.
Sau khi thực hiện xong, đương nhiên hợp đồng được thanh lý. Các bên
không cần thiết phải lập biên bản thanh lý hợp đồng, trừ trường hợp cần bằng
chứng để cung cấp cho bên thứ ba.
2. Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản
2.1. Khái niệm:
5


Dưới góc độ pháp lý, hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là thỏa
thuận bằng văn bản , trong đó tổ chức tín dụng cam kết chuyển giao cho khách
hàng vay sử dụng số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có
hoàn trả cả gốc và lãi trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay bằng tài
sản cầm cố, thế chấp của người vay hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
Theo pháp luật hiện hành, hợp đồng tín dụng có bảo đảm bao gồm :
- Hợp đồng thế chấp tài sản.
- Hợp đồng cầm cố tài sản.
- Hợp đồng cầm cố thể chấp tài sản hình thành từ vốn vay.
- Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản ( không gắn liền với quyền sử dụng đất
- Văn bản bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội cho
cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
- Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
- Hợp đồng cho bên thứ ba cầm cố và thế chấp.
2.2.

Đặc điểm của hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản:


Thứ nhất, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm luôn tồn tại những điều khoản
về bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay. Các điều khoản này có thể được ghi nhận
ngay trong hợp đồng tín dụng hoặc tách biệt thành hợp đồng riêng đính kèm
theo hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản, tổ chức tín dụng
cho vay luôn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho
mình, bất luận tài sản bảo đảm đang nằm ở đâu và trong sự quản lí của ai.
Quyền ưu tiên này được xác lập trên cơ sở giao dịch bảo đảm giữa tổ chức tín
dụng (bên nhận bảo đảm) với khách hàng vay hoặc người thứ ba (gọi là bên bảo
đảm).
Thứ ba, trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm, quy trình thủ tục kí kết và thực
hiện hợp đồng bao giờ cũng phức tạp hơn so với hợp đồng tín dụng không có
bảo đảm bằng tài sản, bởi các bên phải thỏa thuận thêm về điều khoản bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ tiền vay, ngoài những điều khoản thông dụng khác của hợp
đồng tín dụng.
3. Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm:
6


Thứ nhất, mối quan hệ trong việc kí kết hợp đồng:
Việc kí kết hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản luôn đi kèm với việc
xác lập giao dịch bảo đảm. Về nguyên tắc, do pháp luật hiện hành không có chỉ
dẫn cụ thể nào nên các bên không nhất thiết phải giao kết hợp đồng tín dụng và
hợp đồng bảo đảm tiền vay tại cùng thời điểm. Trong thực tế, nếu xảy ra trường
hợp các bên đã kí kết hợp đồng tín dụng và sau đó một thời gian mới xác lập
giao dịch bảo đảm thì trong suốt thời gian kể từ khi kí kết hợp đồng tín dụng
đến khi giao dịch bảo đảm được xác lập thì hợp đồng tín dụng chỉ được coi là
hợp đồng tín dụng không có bảo đảm. Kể từ thời điểm giao dịch bảo đảm được
xác lập, hợp đồng tín dụng mới chính thức được coi là hợp đồng tín dụng có
bảo đảm và khi đó các bên mới bắt đầu bị ràng buộc với những quyền, nghĩa vụ

phát sinh từ giao dịch bảo đảm. Có thể thấy, hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín
dụng có thể tách biệt nhau trong kí kết.
Thực tiễn cho thấy, việc kí kết hợp đồng bảo đảm riêng tách biệt với hợp
đồng tín dụng vẫn thường được các bên lựa chọn, vì những ưu điểm vốn có của
nó trong việc bảo đảm sự an toàn pháp lý cho cả hai bên tham gia hợp đồng tín
dụng.
Thứ hai, mối quan hệ về hiệu lực pháp lí giữa hợp đồng tín dụng và hợp
đồng bảo đảm:
Theo quan điểm của nhóm, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp
đồng bảo đảm không hoàn toàn là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp
đồng phụ. Quan điểm này dựa trên tinh thần của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
Theo Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định về
quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ bảo đảm có nội dung
như sau:
“Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm
1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực
hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không
chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

7


3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm
dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm
chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được
bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận

khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không
làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo
đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
Theo quy định này, hiệu lực của hợp đồng tín dụng không phải trong mọi
trường hợp đều ảnh hưởng tới hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Để xác định xem
hiệu lực của hợp đồng tín dụng có ảnh hưởng tới giao dịch bảo đảm hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng đã được thực hiện hay chưa.
Như vậy, hợp đồng bảo đảm tồn tại độc lập với hợp đồng tín dụng. Điều này
rất có lợi đối với bên nhận bảo đảm bởi dù hợp đồng tín dụng có vô hiệu nghĩa
là không phát sinh nghĩa vụ bảo đảm, nhưng hợp đồng bảo đảm không vì thế
mà vô hiệu theo. Do hợp đồng bảo đảm vẫn có hiệu lực nên bên bảo đảm vẫn bị
rằng buộc nghĩa vụ bảo đảm mà mình đã cam kết và đồng thời bên nhận bảo
đảm vẫn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình dù
rằng khoản nợ đó không thực sự là khoản nợ chính phát sinh từ hợp đồng tín
dụng có nghĩa vụ được bảo đảm.
Vậy, trong trường hợp hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu thì cách giải
quyết đối với tài sản bảo đảm được thực hiện như thế nào?
Theo quy định đã dẫn ở trên, do hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm là
hai hợp đồng độc lập về mặt hiệu lực pháp lí nên khi hợp đồng tín dụng có bảo
đảm bị vô hiệu thì sẽ không dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Khi đó, khối tài sản bảo đảm sẽ được giải quyết như sau:
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu nhưng các bên chưa thực
hiện, nghĩa là không phát sinh nghĩa vụ hoàn trả tài sản thì do đó sự bảo đảm trở
nên không cần thiết và vì thế giao dịch bảo đảm bị chấm dứt.
- Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bị vô hiệu nhưng các bên đã thực hiện
một phần hoặc toàn bộ thì về nguyên tắc họ phải hoàn trả cho nhau các tài sản

đã nhận. Trong trường hợp này, nếu việc hoàn trả tài sản đã nhận là nghĩa vụ
8


của khách hàng thì do đó sự bảo đảm vẫn là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi
của các bên có quyền nhận lại tài sản. Khi đó, nghĩa vụ được bảo đảm sẽ là
nghĩa vụ mới phát sinh – nghĩa vụ hoàn trả lại tài sản đã nhận do hợp đồng tín
dụng vô hiệu và khối tài sản bảo đảm sẽ được đem ra xử lí để thu hồi đủ số tài
sản này cho bên có quyền nhận tài sản là tổ chức tín dụng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng theo quy định của pháp luật hiện hành về
giao dịch bảo đảm thì nghĩa vụ được bảo đảm không chỉ là nghĩa vụ tài sản phát
sinh từ hợp đồng được bảo đảm mà còn bao gồm cả nghĩa vụ hoàn trả lại tài sản
cho bên nhận bảo đảm (nghĩa vụ này phát sinh do việc xử lí hợp đồng được bảo
đảm bị vô hiệu, theo nguyên tắc các bên phục hồi được trạng thái ban đầu khi kí
kết hợp đồng).
III – Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật và những kiến nghị, đề xuất .
1. Những vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật:
BLDS 2015 có hiệu lực, các quy định về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện hơn. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm:
cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu,
bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ tài sản. So với BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã bổ
sung thêm 2 biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, đó là: bảo lưu quyền sở hữu
và cầm giữ tài sản. Như vậy, BLDS 2015 đã có mức khái quát cao hơn về giao
dịch bảo đảm, đảm bảo tính minh bạch về tình trạng pháp lý của tài sản. Tuy
nhiên, trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo
đảm, trong quá trình áp dụng vẫn còn một số những vướng mắc gây khó khăn
cho các ngân hàng trong việc xác định các biện pháp bảo đảm phù hợp nhằm
thực thi quyền đòi nợ của mình đối với khách hàng trong quan hệ vay vốn. Điều
này được thể hiện trong những bất cập sau đây:
- Thứ nhất, quy định thiếu thống nhất đối với biện pháp cầm cố và thế chấp,

gây khó khăn trong công tác áp dụng biện pháp bảo đảm:
BLDS 2015 quy định : “cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”( Điều 309), “Thế chấp tài
sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây
gọi là bên nhận thế chấp).”( Điều 317).
Từ quy định trên của pháp luật ta thấy cầm cố và thế chấp khác nhau ở việc
chuyển giao mang tính cơ học các tài sản bảo đảm mà không hề có sự phân biệt
về loại tài sản. Vì thế, trong hoạt động cho vay việc cầm cố bất động sản là
9


hoàn toàn có thể thực hiện. Tuy nhiên, pháp luật chuyên ngành lại không quy
định điều này, luật Nhà ở 2014 chỉ quy định tới quyền thế chấp nhà ở mà không
có quy định nào về quyền cầm cố nhà ở. Hay theo quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 167 Luật đất đai 2013 thì “người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế
chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai”. Ở đây không
có các quy định nhắc đến việc người sử dụng đất thực hiện quyền cầm cố. Như
vậy, quy định trong các văn bản Luật chuyên ngành lại hạn chế quyền cầm cố
bất động sản của người sở hữu các quyền này.
- Thứ hai, chưa thống nhất trong xác định giá cho tài sản bảo đảm.
Cụ thể, theo quy định việc định giá tài sản bảo đảm tiền vay là hình thức do
sự thỏa thuận hai bên, bên ngân hàng và bên có tài sản. Trong nhiều trường hợp,
nhất là đối với các tài sản đặc biệt, khó xác định giá, ngân hàng thường thuê tổ
chức thẩm định giá hoặc tham vấn các tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn về
giá trị và giá cả tài sản, nhưng thông thường nhất vẫn là do ngân hàng thực hiện.
Thực tiễn cho thấy việc định giá tài sản bảo đảm gặp khó khăn do có nhiều
căn cứ để xác định cho việc định giá như: giá thị trường của tài sản trên cơ sở

thông tin; giá cả trên sàn giao dịch, phương tiện đại chúng; giá theo khung giá
do Nhà nước quy định đối với loại tài sản mà Nhà nước có ban hành khung giá;
tình hình, khả năng biến động giá cả thị trường, thời hạn sử dụng còn lại; khả
năng hao mòn; mệnh giá đối với các loại giấy tờ có giá; giá theo hợp đồng, hóa
đơn chứng từ mua bán hợp pháp;... Dẫn đến tình trạng các ngân hàng áp dụng
các căn cứ khác nhau để định giá tài sản, nhất là trong lĩnh vực bất động sản.
Điều này một mặt gây khó khăn trong việc lựa chọn căn cứ áp dụng. Mặt khác
tạo sự không thống nhất trong áp dụng của các ngân hàng ảnh hưởng đến quyền
lợi của khách hàng có tài sản đảm bảo.
- Thứ ba, thiếu quy định pháp luật và chưa thống nhất đối với một số loại tài
sản bảo đảm đặc biệt.
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị định số 163/2006 đều không quy định rõ
ràng về việc sử dụng thế chấp hay cầm cố, trong đó có các quyền tài sản. Bộ
luật Dân sự năm 2005 có quy định về việc sử dụng quyền tài sản để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự theo Điều 322. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015
đã bãi bỏ Điều luật này.Việc bãi bỏ quy định này gây khó khăn cho khách hàng
sử dụng quyền tài sản (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp...) để đảm bảo
vay vốn. Đồng thời, việc thiếu quy định quyền tài sản được bảo đảm dưới hình
thức cầm cố hay thế chấp cũng khiến cho cán bộ nhân viên ngân hàng khó khăn
áp dụng trong thực tiễn.
10


Bên cạnh đó, còn nhiều quy định chưa thống nhất tại các văn bản Luật trong
việc cầm cố hay thế chấp tài sản như tài sản là tàu bay, tàu biển... Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định “thế chấp tàu bay,
tàu biển”, không có quy định cầm cố tàu bay nhưng sang đến Nghị định số
83/1010/NĐ-CP ngày 23/07/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch đảm bảo
quy định “cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay”.
- Thứ tư, vướng mắc trong thủ tục sang tên tài sản bảo đảm.

Theo quy định tại Nghị định 163 và Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTPBTNMT-NHNN hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ thì trong trường hợp
pháp luật quy định việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải có sự
đồng ý bằng văn bản của chủ sở hữu thì hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thế
chấp tài sản được dùng để thay thế cho các loại giấy tờ này; trong trường hợp
bên bảo đảm không tự nguyện ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chứng minh việc
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì bên nhận bảo đảm được quyền
ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó. Tuy nhiên, trên thực tế, bên nhận thế chấp khó
triển khai được quyền này, đặc biệt là đối với TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất do pháp luật chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chức
năng như cơ quan tài nguyên và môi trường, cơ quan thuế trong việc sang tên,
tính thuế chuyển nhượng trong trường hợp bên nhận thế chấp chủ động xử lý
TSBĐ là QSDĐ, tài sản gắn liền với đất.
Vì vậy, để đảm bảo quy định pháp luật được thực thi một cách triệt để thì
Nghị định mới về giao dịch bảo đảm cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan này trong việc sang tên, tính thuế khi TCTD chủ động xử lý TSBĐ mà
không cần phải yêu cầu sự chấp thuận, ủy quyền của bên bảo đảm.
- Thứ năm, việc ký kết, thực hiện giao dịch bảo đảm có thể tách rời với kí
kết hợp đồng tín dụng rất có thể xảy ra trường hợp bên vay dùng chính tài sản
bảo đảm để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nhiều nơi, mang tính chất lừa dối. Hoặc
việc bên vay dùng tài sản của người khác để bảo đảm nghĩa tiền vay nhưng đến
hạn trả nợ ngân hàng lại trốn tránh nghĩa vụ trả nợ dẫn đến việc ngân hàng phải
đứng ra xử lí tài sản bảo đảm của người thứ ba, trên thực tế xảy ra không ít tình
trạng ngân hàng, tổ chức tín dụng “mất trắng” số tiền cho vay vì lí do người thứ
ba đứng ra thực hiện nghĩa vụ bảo đảm không chấp nhận xử lí tài sản bảo đảm
của mình khi bên vay trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
2. Một số đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hoạt động tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.

11



Từ thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại còn nhiều khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý
và áp dụng pháp luật, nhóm xin chọn lọc trích dẫn và đưa ra một số đề xuất
nhằm hoàn thiện và tăng cường bảo vệ quyền lợi cho các ngân hàng thương mại
ở Việt Nam, cụ thể:
- Thứ nhất, sửa đổi và thống nhất các quy định về giao dịch bảo đảm trong
Bộ Luật Dân sự 2015 với luật chuyên ngành, cụ thể:
Quy định về cầm cố: Điều 10 của Luật Nhà ở năm 2014 cần được sửa đổi,
theo hướng mở rộng cả quyền cầm cố nhà ở cho chủ sở hữu, đồng thời quy định
chi tiết về cầm cố nhà ở. Tương tự, tại Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 cũng
cần sửa đổi theo bằng việc cho phép các chủ thể có quyền sử dụng đất làm tài
sản cầm cố.
Trong Bộ luật Dân sự 2015 cần bổ sung Điều luật liên quan đến quyền tài
sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó, tại các văn bản hướng dẫn
cần có quy định cụ thế các biện pháp đảm bảo đối với quyền tài sản theo hướng
cụ thế hóa quyền tài sản có thể được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp
hay biện pháp khác khi áp dụng vào thực tiễn các cán bộ ngân hàng thực hiện
thống nhất và có cơ sở.
Nhìn chung, việc thống nhất và hoàn thiện các quy định của pháp luật liên
quan đến các giao dịch bảo đảm là điều quan trọng thiết yếu. Cần có sự thống
nhất trong các quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đề
ra các hình thức thực hiện giao dịch đảm bảo một cách cụ thể, thống nhất, tránh
chồng chéo giữa hai văn bản khác nhau nhưng quy định chung về một vấn đề
gây không ít khó khăn cho các TCTD.
- Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm:
Trong giai đoạn hiện nay đã đến lúc cần thiết phải ban hành luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm là một lĩnh vực quan trọng trong
các giao dịch kinh tế, dân sự cần được điều chỉnh bằng hình thức văn bản pháp
luật cao hơn, tại hầu hết các nước đăng ký giao dịch bảo đảm được điều chỉnh

bằng hình thức văn bản luật. Luật đăng ký giao dịch bảo đảm được ban hành sẽ
tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng
thời tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm, phục vụ tốt hơn các nhu cầu của khách hàng, cung cấp đầy
đủ thông tin liên quan đến giao dịch bảo đảm.
- Thứ ba, hoàn thiện các biện pháp tổ chức thực hiện:
12


Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng: công tác phát triển nguồn
nhân lực đặc biệt là chất lượng hết sức cần thiết. Hiện nay, đa số cán bộ của các
TCTD ở Việt Nam có lợi thế là năng động, tuổi đời còn trẻ, phần lớn điều có
trình độ đại học, tuy nhiên kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiểu, thêm vào đó lại
thiếu am hiểu về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng, Trước tình
hình này, các TCTD cần thiết phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có đầy
đủ kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng hợp, cũng như kinh nghiệm thực tiễn.
Nâng cao chất lượng thông tin: Hiện nay thông tin về khách hàng lưu trữ tại
các TCTD còn hạn chế, sự chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng hầu như không
có do sự canh tranh trong hoạt động. Đối với các TCTD kênh khai thác thông
tin về khách hàng chủ yếu là từ trung tâm thông tin tín dụng NHNN, việc tìm
thông tin từ các cơ quan như thuế, hải quan, kiểm toán, công an, địa chính nhà
đất... còn rất nhiều khó khăn, chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng. Cần xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu giao dịch bảo đảm thống nhất trên toàn quốc nhằm thực
hiện tốt việc cung cấp thông tin và giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp, Ngân hàng
Nhà nước, Tổng cục thống kê, Tổng cục địa chính, cơ quan đăng ký GDBĐ
phối hợp xây dựng kho dữ liệu tập trung, đồng thời, hoàn thiện các quy định
pháp luật điều chỉnh trong hoạt động quản lý, cung cấp, khai thác và sử dụng hệ
thống thông tin.
KẾT LUẬN
An toàn trong cho vay vừa là yêu cầu vừa là mục tiêu đối với hoạt động của

các tổ chức tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, nguồn thu nợ khi cho vay chính
là thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên, rủi ro
luôn tiềm ẩn. Để hạn chế rủi ro các tổ chức tín dụng đã tiến hành áp dụng các
biện pháp bảo đảm tiền vay, hình thức bảo đảm có thể là cho vay có bảo đảm
bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản. Thông qua việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm tiền vay giúp cho tổ chức tín dụng hoạt động ổn định, lành
mạnh, đảm bảo tăng trưởng về lợi nhuận và bảo đảm quyền lợi của người gửi
tiền.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2010.
2. Luật ngân hàng nhà nước năm 2010.
3. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
4. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm
5. Nghị định số 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm
6. Bộ Luật dân sự 2015
7. Luật Đất đai năm 2013
8. Luật Nhà ở năm 2014
9. Nghị định 83/2010 ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm
Một số website:
/> /> />DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:
1. Tổ chức tín dụng - TCTD.
2. Bộ Luật dân sự - BLDS

3. Ngân hàng nhà nước - NHNN.
4. Giao dịch bảo đảm - GDBĐ
5. Tài sản bảo đảm - TSBĐ

14



×