Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

quan hệ thương mại việt trung thực trạng và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.82 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN: KINH TẾ QUỐC TẾ
  


BÀI TẬP NHÓM

Đề tài :
Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc: Thực trạng và những vấn đề
đặt ra
Giảng viên hướng dẫn :
Lớp
Nhóm thực hiện
:
:
Hà Nội, tháng 11/ 2013
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ đến nay, nhiều
văn bản, hiệp định đã được ký kết giữa hai nước, đã tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy quan
hệ thương mại giữa hai nước phát triển và đạt được một số thành tựu quan trọng. Kim
ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước ngày càng gia tăng. Với tốc độ tăng trưởng
nhanh, hiện nay Trung Quốc đang trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Việc
tham gia vào kinh tế toàn cầu hóa và khu vực đã mở ra cho hai nước nhiều cơ hội, cụ
thể là hệ thống pháp luật và chính sách thương mại ngày càng minh bạch, thị trường
xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng, hàng rào thuế quan đang dần được dỡ bỏ giữa hai
nước, cơ sở hạ tầng thương mại cũng đang được hai nước quan tâm phát triển Tuy
nhiên, hội nhập quốc tế cũng đưa lại những thách thức, đó là cạnh tranh hàng hóa Việt
Nam với hàng hóa của các nước trong khu vực và hàng hóa Trung Quốc ngày càng


diễn ra gay gắt. Bên cạnh đó, quan hệ thương mại giữa hai nước còn nhiều vấn đề phải
tiếp tục giải quyết như: Thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc còn quá
lớn, tình trạng buôn lậu và gian lân thương mại có dấu hiệu gia tăng, các doanh nghiệp
Việt Nam còn thụ động, phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Đề tài “Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc: Thực trạng và những
vấn đề đặt ra”góp phần tìm hiểu thực trạng mối quan hệ thương mại Việt Nam Trung
Quốc từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển
quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC
1.1.Cơ sở của mối quan hệ thương mại Việt Nam Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có hoàn cảnh địa lý gần gũi,
có truyền thống văn hóa tương đồng, gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn hóa phương
Đông. Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hóa và tôn giáo Trung hoa cổ đại. Nhân
dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống, đã trải
qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt được trong những năm qua tạo tiền
đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt – Trung.
1.1.1.Vị trí địa lý
Trung Quốc nằm ở trung tâm Đông Á, có đường biên giới với 14 quốc gia và
vùng lãnh thổ bao gồm: Triều Tiên, Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Tajikistan, Afganistan, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Myanmar, Lào và Việt Nam
nên rất thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động buôn bán qua biên giới với các nước láng
giềng, trong đó có Việt Nam.Phía Đông và Đông Nam Trung Quốc tiếp giáp biển Thái
Bình Dương với đường bờ biển dài 14.500 km.
Trung Quốc là nước lớn thứ tư thế giới với tổng diện tích là 9,6 triệu km2, sau
Nga, Canada và Hoa Kỳ. Đây cũng là nước đông dân nhất thế giới với dân số là 1,3 tỷ
người, vì thế sức mua rất đa dạng, từ hàng chất lượng trung bình đến hàng chất lượng
cao cấp, điều này rất thuận lợi cho việc hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường này.
Đặc biệt Việt Nam nằm ở điểm trung gian nối Trung Quốc với ASEAN trên các

tuyến đường xuyên Á, hành lang Đông Tây, cũng như trong khuôn khổ hợp tác tiểu
vùng sông Mê Kông mở rộng. Với điều kiện vị trí địa lý nêu trên, Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mua bán, trao đổi hàng hóa và phát
triển các hoạt động hợp tác về kinh tế - xã hội khác.
1.1.2 Văn hóa
Việt Nam – Trung Quốc có nét tương đồng về văn hóa, có phong tục tập quán
Á Đông tương đối giống nhau. Có thể nói, sự tương đồng về văn hóa và sự gần gũi về
phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng
tạo nên truyền thống láng giềng hòa mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn nhau
trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt – Trung từ bao đời nay.
1.1.3. Thể chế chính trị
Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống nhau, đều do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác – Leenin, không chấp nhận đa nguyên,
đa đảng. Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân và
chế độ Xã hội Chủ nghĩa.
1.1.4. Kinh tế
Hai nước Việt – Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực hợp tác
kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích riêng của mỗi bên. Hai nước đã có chung đường
biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên thông thương mậu dịch,
đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trường rộng lớn, đầy tiềm
năng, có sức tiêu thụ lớn. Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới,
hơn 86 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó
là những yếu tố bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước
và tiến trình tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu. Trong bối cảnh
chung của tình hình quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của Việt Nam và
Trung Quốc cũng có những thau đổi theo chiều hướng thuận lợi.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng mối quan hệ
với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề
thuộc về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, cũng từng bước thực hiện bình thường hóa quan hệ và

thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng.Trong quan hệ với Việt Nam,
Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của mình đối với việc bình thường hóa
quan hệ giữa hai nước. Hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước trong các
lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hóa theo nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi.
1.2. Quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt - Trung
1.2.1. Giai đoạn từ 1991- 2000
Sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhiều văn bản hiệp đinh liên
quan đến thương mại được ký kết giữa hai nước nhằm đẩy mạnh quan hệ thương mại
giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau. Năm 1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của ASEAN, thông
qua cầu nối giữa Trung Quốc với ASEAN, Việt Nam và Trung Quốc còn phát triển
theo nhiều loại hình kinh doanh. Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác song phương, Chính
phủ hai nước cũng chú trọng đến hợp tác đa phương.
Về phía Việt Nam, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc
tế, Chính phủ Việt Nam cho phép Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng được áp
dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực kinh tế cửa khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ
Việt Nam cũng ban hành nghị định 57/1998/NĐ-CP về việc quy định chi tiết Luật
thương mại, sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước, miễn thuế nhập khẩu đối với
hàng tạm nhập tái xuất, bãi bỏ thuế tiểu ngạch, đơn giản hóa thủ tục gia công, áp dụng
thuế VAT, Những chính sách ưu đãi trên đã khuyến khích một số ngành sản xuất
trong nước phát triển, góp phần làm thay đổi dần cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, để chiếm lĩnh thị trường các nước có chung đường biên
giới trên bộ bằng hàng hóa giá rẻ và thu hút các loại nguyên nhiên liệu phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất, Trung Quốc đã ban hành chính sách ưu đãi
biên mậu, thuế VAT, hoàn thuế VAT cho hàng hóa xuất qua biên mậu. Đồng thời
thành lập hệ thống các cơ quan quản lý biên mậu từ Trung ương đến địa phương và
phân cấp mạnh quản lý cho địa phương. Những chính sách này đã giúp cho Trung
Quốc rất thành công trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước có chung

đường biên giới, luôn ở thế chủ động trong quan hệ trao đổi hàng hóa với các nước.
Ngoài ra chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên
giới, Hiệp định về biên giới trên bộ, tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa qua biên
giới giữa hai nước diễn ra thuận lợi.
1.2.2. Giai đoạn 2001 – 2006
Năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc đã dành cho các
nước đang phát triển được hưởng quy chế tối huệ quốc, trong đó có Việt Nam. Tạo cơ
hội cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và thị trường Trung Quốc.Bên cạnh
đó hệ thống chính sách của Trung Quốc cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu
của WTO. Đặc biệt là hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với
hàng nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc yêu cầu ở mức cao hơn trước đây. Một số
chính sách ưu đãi đối với biên mậu cũng được chính phủ Trung Quốc loại bỏ dần.Điều
này đã gây tổn hại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 14/11/2002, Trung Quốc và ASEAN đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện, tạo tiền đề thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
(ACFTA) vào năm 2010 đối với các nước ASEAN. Hiệp định này mở ra cho Việt
Nam và Trung Quốc một thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Tháng 5/2004, chính phủ hai nước chủ trương xây dựng “hai hành lang và một
vành đai kinh tế”, đây được coi là chương trình hợp tác trung và dài hạn giữa hai nước
nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.
1.2.3. Giai đoạn từ 2007 – nay
Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
điều này khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, Việt Nam và
Trung Quốc đều là thành viên của WTO, hệ thống hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai
nước.Tháng 5-2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện”.
Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc là bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt
Nam; kim ngạch thương mại hai chiều năm 2012 đạt hơn 40 tỷ USD, tăng 15,35% so
năm 2011. Hai bên có nhiều tiềm năng để nâng mức trao đổi thương mại song phương

trong thời gian tới.
Bước sang thế kỷ 21, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt Nam và
Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Vì vậy việc củng cố và
tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước theo phương
châm mười sáu chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai” không những đáp ứng nguyện vọng và lợi ích lâu dài của nhân
dân hai nước mà còn phù hợp với xu thế hòa bình và phát triển khu vực cũng như thế
giới.
1.3. Vai trò của quan hệ thương mại Việt – Trung với nền kinh tế Việt Nam
Thời buổi hiện nay là thời buổi nền kinh tế mở cửa, cho nên xuất nhập khẩu là
một trong những nhân tố vô cùng quan trọng.Mà trong những năm gần đây, Trung
Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.Bởi vậy quan hệ thương
mại Việt – Trung đối với nền kinh tế Việt Nam nắm vai trò quan trọng hàng đầu.
Nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc của Việt Nam bắt đầu gia tăng mạnh từ năm
2000. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam,
vượt qua cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Tỷ trọng nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc trong
tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ năm 2000 đến nay liên tục gia tăng (năm 2000
- 2005 - 2010 - 2012 các tỷ lệ tương ứng là 8,9 - 16,0 - 23,8 - 25,3%), lớn hơn bất kỳ
một nước hay khu vực nào khác.
Năm 2004, Trung Quốc lần đầu tiên chính thức trở thành đối tác thương mại
lớn nhất của Việt Nam.Việt Nam trở thành bạn hàng lớn thứ 5 của Trung Quốc trong
khối các nước ASEAN. Năm 2012, nước ta nhập siêu từ Trung Quốc trên 16,4 tỷ
USD. Trong 6 tháng đầu năm 2013, kim ngạch nhập khẩu cả nước xấp xỉ 63,45 tỷ
USD, trong đó nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc gần 17 tỷ USD (chiếm
26,8%).
Mặt khác, Trung Quốc hiện đang là một trong những thị trường xuất khẩu
nông sản lớn nhất của Việt Nam, với nhiều mặt hàng như gạo, sắn lát, cao su thiên
nhiên, các loại rau và hoa quả, hạt điều và thủy, hải sản
Ngoài than đá, giày dép, khoáng sản (quặng sắt, đồng, titan ), sản phẩm
nhựa, hiện nay, Trung Quốc đang là bạn hàng nhập khẩu số một về gạo, cao su, hạt

điều, là nước nhập khẩu thuỷ sản thứ 3 và nhập khẩu trên 56% giá trị rau quả tươi xuất
khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, một số mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu
thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần trên thị trường Trung Quốc như hàng dệt
may, linh kiện điện tử, Trong những năm gần đây, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang
thị trường Trung quốc đã không ngừng được mở rộng cả về quy mô và chủng loại.
Từ đó, có thể thấy Trung Quốc là bạn hàng không thể thiếu được của Việt Nam,
cả về nguồn hàng cũng như thị trường tiêu thụ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆTNAM - TRUNG
QUỐC
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Trung Quốc
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc
2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại
Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa
hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700
lần. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
a. Giai đoạn 1991 – 2000
Giai đoạn từ 1991 – 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nước
nhà.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2000
Đơn vị: Triệu USD
Năm 199
1
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
XK
sang
TQ
19,3 95,6
0

135,8
0
295,7
0
361,
9
340,
2
474,
1
478,9
0
858,9
0
1536,4
Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam
Qua bảng số liệu ta thấy, năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1536 triệu
USD, tăng 79 lần so với năm 1991 là 19,3 triệu USD. Tính trung bình tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 1991 – 2000 là khoảng 20%/năm. Tốc độ phát triển này khá cao so
với tốc độ phát triển thương mại Việt Nam với một số nước khác (như Mỹ, EU, Nhật
Bản).
b. Giai đoạn 2001 – 2006
Việc Trung Quốc gia nhập WTO (2001) đã tác động đến nhiều nước, trong đó
có nước ta. Hơn nữa, Việt Nam là nước làng giềng, lại có nhiều nét tương đồng về chế
độ chính trị, xã hội, về cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường,
về nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, về nhu cầu đối với chủng loại, chất lượng sản
phẩm, về trình độ kỹ thuật, công nghệ , thì tác động đối với Việt Nam sẽ không nhỏ,
cả về trực tiếp và gián tiếp, cả về thách thức và thời cơ, cả về buôn bán và đầu tư.Khi
Trung Quốc gia nhập WTO, các loại hàng hóa giá trị cao như xe cộ, máy móc, hàng
điện tử và các loại hàng hóa khác sẽ được nhập khẩu mạnh từ Tây Âu, Mỹ, Nhật bản,

Hông Kông, Đài Loan, Xingapo, Hàn Quốc; bản thân Trung Quốc cũng sẽ chuyển
sang các lĩnh vực này để cạnh tranh; khi đó việc nhập khẩu ngô, gạo, các loại nông
sản, hải sản khác sẽ gia tăng. Đây là thời cơ cho hàng của Việt Nam xuất khẩu vào
Trung Quốc.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
XK sang Trung Quốc 1417,4 1595,3 1883,1 2899,1 3228,1 3242,8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Giai đoạn 2001 – 2006 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
liên tục tăng, với tốc độ tăng trưởng bình quân 9,3%/năm. Từ mức 1417,4 triệu USD
(năm 2001) đến 3242,8 triệu USD (năm 2006).
c. Giai đoạn 2007 – nay
Trong giai đoạn 2007- 2012, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc nói riêng biến động mạnh hơn so với giai đoạn trước. Trong khi nền kinh
tế Trung Quốc đang chậm lại, xuất khẩu từ Việt Nam sang nước này lại tăng lên. Điều
đó bắt nguồn từ thực tế là Việt Nam đang ngày càng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong khi chi phí sản xuất ở đất nước lớn thứ hai thế giới tăng lên, dẫn tới việc hàng
hóa sản xuất ở Việt Nam sẽ được xuất sang Trung Quốc khi nước này ngày càng hội
nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2012
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
XK sang TQ 3646,1 4850,1 5403,0 7742,9 11127,0 12388,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 20012 cao gấp 3,4
lần năm 2007, từ3,646 tỷ USD (2007) lên đến 12,388 tỷ USD (2012). Năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu của nước ta đã đạt mức 4,85 tỷ USD (tăng 33,1% so với năm 2007)
và liên tục tăng nhanh trong những năm tiếp theo năm (2010 đã tăng 43,3% và 43,7%
năm 2011). Trong cả giai đoạn 2007- 2012, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân

đạt 24,1%/ năm.
Nửa đầu năm 2013 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường Trung Quốc giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2012, giảm 0,18%, tương đương với
6,1 tỷ USD.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2012 Trung Quốc là thị trường nhập
khẩu hàng Việt Nam thứ năm thế giới với kim ngạch 12,2 tỷ USD (chiếm tỷ trọng
10,6% xuất khẩu của Việt Nam).
Bảng 2.4: Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2012
ST
T
Thị trường Kim ngạch XNK
(tỷ USD)
Tỷ trọng
(%)
1 EU 20,3 17,7
2 Mỹ(nước nhập khẩu số 1 thế giới) 19,6 17,1
3 ASEAN 17,3 15,1
4 Nhật Bản (nước nhập khẩu thứ 4
thế giới)
13,1 11,4
5 Trung Quốc (nước nhập khẩu thứ 2
thế giới)
12,2 10,6
Tổng kim ngạch XNK năm 2012 114,6 100,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
2.1.1.2. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc
Giai đoạn từ 1991 – 2000: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu là khoáng sản, hàng
nông sản, thủy hải sản thu gom.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo
hướng tăng sản phẩm chế biến sâu và tinh, giảm tỷ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy

hàng thô hay mới sơ chế còn khá cao nhưng có thể nói xu hướng tăng tỷ trọng hàng
chế biến là rõ nét. Cụ thể, ở thời điểm năm 2001, trong danh mục những mặt hàng chủ
yếu của nước ta xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt kim ngạch từ 1 triệu USD
trở lên tuy gồm 15 mặt hàng, nhưng tổng cộng cũng chỉ đạt 1,156 tỷ USD và chiếm
81,52% tổng kim ngạch xuất khẩu của năm này. Năm 2006 , tuy danh mục này cũng
chỉ tăng lên 18 mặt hàng, nhưng đã đạt 2,331 tỷ USD và chiếm 76,93% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu. Số mặt hàng đạt quy mô xuất khẩu 10 triệu USD trở lên năm 2001
chỉ gồm 8 mặt hàng, thì con số này trong năm 2008 đã là 11 mặt hàng.
Hiện nay, Trung Quốc đang là bạn hàng nhập khẩu số 1 về cao su, than đá.
Ngoài ra thuỷ sản, rau quả tươi cũng là mặt hàng có tỷ trọng đáng kể. Một số mặt
hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần
trên thị trường Trung Quốc như : giày dép , hàng dệt may, linh kiện điện tử
Như vậy, cơ cấu hàng xuất khẩu đã tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng tiêu
dùng, hàng trung gian và hàng hóa vốn, trong khi tỷ trọng dầu thô giảm.Đây là hệ quả
tích cực từ việc tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất
khu vực. Dù vậy, lợi thế vẫn tập trung ở các nhóm hàng sử dụng tài nguyên khoáng
sản, dựa vào nông nghiệp và các ngành chế biến thâm dụng lao động.
2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam
2.1.2.1. Kim ngạch nhập khẩu
a. Giai đoạn 1991 – 2000
Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2000
Đơn vị: Triệu USD
Năm 199
1
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
NK từ TQ 18,4 31,8 85,5 144,2 329,7 329 404,4 510,5 683,4 1423,
2
Nguồn tổng cục thống kê
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 1991 mới có 18,4 triệu USD, đến năm
1995 đạt xấp xỉ 330 triệu USD, đến năm 2000 đã lên tới 1.423 triệu USD, chiếm 9,4%

tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc đứng thứ 5 sau Xingapo, Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc.
b. Giai đoạn 2001 – 2006
Bảng 2.6: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Kim ngạch nhập khẩu
từ Trung Quốc
1629,9 2158,8 3120,0 4456,5 5770,0 7390,3
Nguồn: Tổng cục thống kê
Các số liệu thống kê cho thấy, nếu như kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ thị
trường Trung Quốc năm 2001 chỉ mới là 1,6 tỷ USD, thì năm 2006 đã đạt gần 7,4 tỷ
USD. Đây thực sự là một kỷ lục xét trên nhiều phương diện: tăng cao 1,64 lần nhịp độ
tăng trưởng nhập khẩu chung từ thị trường thế giới; tăng cao kỷ lục so với nhịp độ
tăng nhập khẩu từ 9 thị trường chủ yếu của nước ta trong giai đoạn này.
Chính vì nhập khẩu hàng hoá từ thị trường này liên tục tăng bùng nổ như vậy,
cho nên ngay từ năm 2003 ,Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành quốc gia xuất
khẩu hàng hoá lớn nhất cho nước ta.
c. Giai đoạn 2007 – nay
Gia nhập WTO cũng đồng thời với việc chúng ta phải cam kết mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ.Thông qua cam kết này hàng hóa của các nước có thể dễ
dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam.Ngay sau khi gia nhập WTO nhập khẩu tăng
nhanh, song đã tăng chậm lại trong thời gian gần đây (do khó khăn trong nước và tăng
năng lực kiểm soát nhập khẩu).Nhập khẩu từ Trung Quốc tăng nhanh nhất, và Trung
Quốc hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nhập khẩu của Việt Nam. Hàng trung gian
chiếm tỷ trọng lớn nhất, dù có giảm (năm 2006 chiếm 62,4%; đến 2011 chiếm 58,7%).
Tỷ trọng hàng hóa vốn và hàng tiêu dùng có tăng trở lại.
Bảng 2.7: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2012
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Kim ngạch nhập
khẩu từ TQ
12710,0 15973,6 15411,3 20203,6 24593,7 28786,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu mới chỉ ở mức 7390,3 triệu USD thì đến năm
2007 đã tăng lên 12710 triệu USD ( tăng 72,0% mức kỷ lục nhất từ trước đến nay).
Năm 2008 vẫn tiếp tục tăng với tốc độ tăng là 25,7% từ 12710 tỷ USD lên 15973,6.
Đến năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới nên kim ngạch nhập
khẩu từ Trung Quốc giảm nhưng không đáng kể. Tuy nhiên đến 2010kim ngạch nhập
khẩu lại tiếp tục tăng với 31,1% và 21,7% năm 201.
2.1.2.1. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
Theo quan điểm ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu về
tiêu dùng trong nước.Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư
liệu sản xuất, giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng. Cụ thể:
Giai đoạn 1991 – 2000: Những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
này chủ yếu là: thuốc bắc, bông, vải sợi, hàng dệt kim và quần áo may sẵn, pin các
loại, thuốc lá, xà phòng giặt, nước giải khát, dầu thực vật, đường sữa, đồ dùng gia
đình, xe đạp, giấy Hàng hóa nhập từ Trung Quốc với khối lượng lớn, chủng loại đa
dạng, chất lượng thấp nhưng giá rẻ, phù hợp với thu nhập ở mức thấp nên chỉ sau một
thời gian ngắn đã tràn ngập thị trường Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ này, hàng hóa
nhập lậu qua biên giới với khối lượng lớn đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến một
số ngành sản xuất của Việt Nam như: dệt kim, may mặc, sành sứ, thuỷ tinh, sản xuất
xe đạp Trong các mặt hàng và nhóm hàng nhập khẩu nêu trên, hàng hóa là máy móc
thiết bị chiếm 27,95%, nguyên liệu chiếm 19,7%; hàng tiêu dùng chiếm 47% Những
nhóm hàng có khối lượng nhập lớn trong thời kỳ này là: máy móc nông nghiệp và chế
biến nông lâm sản, thiết bị sản xuất xi măng lò đứng, máy móc cho ngành dệt, thiết bị sản
xuất phân bón và các loại máy phát điện cỡ nhỏ.
Giai đoạn 2001- 2006: Về cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn này đã có sự thay
đổi cơ bản. Trên 85% hàng nhập khẩu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước
và phục vụ gia công xuất khẩu. Các sản phẩm có kim ngạch nhập khẩu lớn từ Trung

Quốc vào Việt Nam là những tác nhân chính khiến cho biên độ nhập siêu của Việt
Nam từ Trung Quốc ngày càng gia tăng là xăng dầu các loại, phân bón các loại; máy
móc, thiết bị, phụ tùng; sắt thép các loại; nguyên phụ liệu, dệt, may, da và vải các loại;
xe máy dạng CKD, IKD.
Giai đoạn 2007 – nay:Những mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trong giai
đoạn này chủ yếu là máy móc thiết bị (chiếm 60% kim ngạch nhập khẩu từ Trung
Quốc). 30% kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc dành cho nguyên vật liệu, phụ liệu
để sản xuất hàng hóa và 10% còn lại là nhập hàng tiêu dùng.
2.1.3. Đánh giá mối quan hệ thương mại Việt – Trung
2.1.3.1. Thành tựu và nguyên nhân
a. Thành tựu
Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục là bạn hàng thương mại hàng đầu
của Việt Nam. Năm 2007, kim ngạch mậu dịch hai nước đạt gần 16 tỷ USD, hoàn
thành trước 3 năm mục tiêu Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đề ra là đưa kim ngạch
thương mại hai nước đạt 15 tỷ USD vào năm 2010. Kim ngạch thương mại hai
chiều liên tục tăng qua các năm và đạt trên 40 tỷ USD vào năm 2012, trong đó Việt
Nam xuất 12,4 tỷ USD, nhập về 28,8 tỷ USD (xem bảng 2.8).Hai bên tích cực trao đổi
các biện pháp duy trì đà tăng trưởng kim ngạch thương mại đi đôi với cải thiện cán cân
thương mại giữa hai nước, trong đó có việc thực hiện “Quy hoạch 5 năm phát triển
kinh tế thương mại Việt – Trung”.
Bảng 2.8: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam – Trung Quốc giai
đoạn 1991 – 2012
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Tổng XNK Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân
TM
Giá trị
Tốc độ
tăng (%) Giá trị

Tốc độ
tăng (%) Giá trị
Tốc độ
tăng (%)
2001 3047.3 3.0 1417.4 -7.7 1629.9 14.5 -212.5
2002 3754.1 23.2 1595.3 12.6 2158.8 32.4 -563.5
2003 5003.1 33.3 1883.1 18.0 3120.0 44.5 -1236.9
2004 7355.6 47.0 2899.1 54.0 4456.5 42.8 -1557.4
2005 8998.1 22.3 3228.1 11.3 5770.0 29.5 -2541.9
2006 10633.1 18.2 3242.8 0.5 7390.3 28.1 -4147.5
2007 16356.1 53.8 3646.1 12.4 12710.0 72.0 -9063.9
2008 20823.7 27.3 4850.1 33.0 15973.6 25.7 -11123.5
2009 20814.3 0.0 5403.0 11.4 15411.3 -3.5 -10008.3
2010 27946.5 34.3 7742.9 43.3 20203.6 31.1 -12460.7
2011 35720.7 27.8 11127.0 43.7 24593.7 21.7 -13466.7
2012 41174.2 15.3 12388.2 11.3 28786.0 17.0 -16397.8
Nguồn: Tổng cục thống kê – Kim ngạch xuất nhập khẩu theo nước
Thứ nhất, kim ngạch thương mại liên tục tăng caođó là tiềm năng và tính bổ
sung lẫn nhau trong phát triển kinh tế giữa hai nước ngày càng được khai thác và phát
huy, thể hiện qua cơ cấu hàng hoá trao đổi ngày càng phản ánh sát thực lực, trình độ
phát triển kinh tế và nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau của hai nền kinh tế đang trong quá
trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, cùng tiến hành cải cách và
mở cửa và cùng hướng ra xuất khẩu. Có thể thấy, sự gắn bó trong quan hệ thương mại
giữa hai nước đã đủ sức gạt bỏ ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế.
Thứ hai, phương thức mậu dịch ngày càng phát triển và đa dạng.Giai đoạn từ
1991-2000, quan hệ thương mại hai nước chủ yếu thông qua mậu dịch biên giới. Từ
2001 đến nay, mậu dịch chính ngạch đã chiếm vị trí áp đảo trong tổng giá trị thương
mại hai nước với các loại hình thương mại đa dạng như: tạm nhập tái xuất, chuyển
khẩu, quá cảnh, gia công
Thứ ba, quan hệ hợp tác, thương mại giữa các địa phương hai nước từ chỗ chỉ

tập trung giữa các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta với hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam
đã phát triển rộng đến các tỉnh, thành phố nằm sâu trong nội địa như Thượng Hải,
Quảng Đông, Hải Nam, Giang Tô
Thứ tư, bộ mặt xã hội, đời sống của nhân dân ở vùng biên giới hai nước thay
đổi cơ bản.Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng nhộn nhịp cùng với sự ra đời của
hàng loạt các khu kinh tế tại cửa khẩu đã giúp các địa phương điều chỉnh cơ cấu kinh
tế phù hợp với xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, điểm tăng trưởng mới trong quan hệ thương mại hai nước đã hình
thành và ngày càng phát huy tác dụng quan trọng. Đó là các dự án hợp tác kinh tế và
đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực chế biến nguyên liệu, nâng cao giá trị hàng hoá đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của mỗi nước đang được triển khai mạnh mẽ và từng bước
đi vào hoạt động.
b. Nguyên nhân
Sở dĩ quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước có bước phát triển
mạnh mẽ và sâu rộng trong thời gian vừa qua là do mối quan hệ chính trị giữa hai
nước đang ngày càng phát triển tốt đẹp. Các chuyến thăm thường xuyên giữa lãnh đạo
cấp cao hai nước đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy quan hệ toàn diện giữa hai bên
không ngừng nâng cao.
Việc nâng quan hệ hai nước trở thành mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện, việc thành lập và đi vào hoạt động của Ban chỉ đạo quan hệ song phương
giữa Chính phủ hai nước đã góp phần hết sức quan trọng trong việc giải quyết kịp thời
các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển toàn diện quan hệ song phương, nhất là đưa
quan hệ hợp tác kinh tế thương mại lên tầm cao mới.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành của hai nước đã thường xuyên gặp gỡ, trao đổi và
điều chỉnh, bổ sung nội dung các hiệp định trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế thương
mại nhằm không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý cho hợp tác kinh tế và trao đổi
thương mại. Những kết quả trên cũng không tách rời vai trò tác dụng to lớn có hiệu
quả của các chương trình xúc tiến quốc gia, sự nỗ lực của các địa phương, nhất là các
tỉnh biên giới phía Bắc và sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội
ngành hàng VN

2.1.3.2.Hạn chế và nguyên nhân
Biểu đồ 2.1: Giá trị nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2000 – 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
a. Hạn chế
Thứ nhất, buôn bán hai chiều tăng mạnh như thế nhưng Việt Nam luôn ở thế
nhập siêu và kim ngạch hai chiều càng tăng mạnh thì nhập siêu càng lớn. Năm 2001
nhập siêu từ Trung Quốc còn chưa đáng kể, đến năm 2005 ta đã nhập siêu 3,1 tỉ USD
(gần bằng kim ngạch xuất sang Trung Quốc). Năm 2006, nhập siêu lên 4,9 tỉ USD;
năm 2007 nhập siêu 8,6 tỉ USD; năm 2008 nhập siêu vượt mốc 10 tỉ USD (đạt 10,7 tỉ
USD). Năm 2010 nhập siêu lên 12,7 tỉ USD. Cũng từ năm này xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc chỉ tròm trèm 25 - 28% trong tổng kim ngạch buôn bán hai
chiều. Năm 2011 Việt Nam nhập siêu 12,47 tỉ USD; năm 2012 nhập siêu lên tới 16,3 tỉ
USD, lớn hơn nhiều lượng hàng 12,5 tỉ USD ta xuất sang Trung Quốc… Nhập siêu từ
Trung Quốc hằng năm luôn chiếm tới 85 - 90% tổng mức nhập siêu của Việt Nam.
Xem thế rõ ràng Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào hàng nhập từ Trung Quốc và cán
cân thương mại Việt Nam chủ yếu thâm hụt trong buôn bán với Trung Quốc.
Thứ hai, chất lượng nhập siêu. Nhập siêu là căn bệnh chung của nhiều nền kinh
tế bước đầu phát triển. Nhưng nhập khẩu thì cũng phải chọn lọc. 60% kim ngạch nhập
khẩu từ Trung Quốc là máy móc thiết bị. Nhưng Trung Quốc không phải là quốc gia
làm chủ công nghệ nguồn.Nhiều máy móc thiết bị công nghệ của họ cũ kĩ lạc
hậu.Những xi-măng lò đứng, nhà máy đường, nhà máy nhiệt điện mà doanh nghiệp
Việt Nam nhập về những năm qua cho thấy rất rõ điều đó. 30% kim ngạch nhập khẩu
từ Trung Quốc dành cho nguyên vật liệu, phụ liệu để sản xuất hàng hóa và 10% còn lại
là nhập hàng tiêu dùng. Song chất lượng hàng Trung Quốc nhập vào nước ta rất thấp,
độc hại, gây ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường và sức khỏe người dân.Công
bằng mà nói, nguyên vật liệu, phụ liệu nhập từ Trung Quốc cũng giúp chúng ta khắc
phục thiếu hụt nguyên phụ liệu khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng được.Nhưng
cũng có lẽ vì thế doanh nghiệp Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nguyên liệu nhập từ
Trung Quốc.
Thứ ba, xuất khẩu cũng bị lệ thuộc. Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là

khoáng sản, nông lâm thủy sản và than đá, sắn, dưa hấu, thanh long, cao-su… có mặt
hàng xuất tới 70%. Vì thế sự lệ thuộc đầu ra ở Trung Quốc là rất lớn.Mỗi khi họ ngừng
nhập là ta rơi vào tình trạng khốn đốn, khủng hoảng “thừa”.
Có thể nói cả xuất và nhập ta đều bị lệ thuộc vào thị trường này. Đây có thể coi
là một điều bất an cho nền kinh tế. Vì thế khi nhìn tốc độ buôn bán hai chiều với
Trung Quốc tăng mạnh, nỗi lo lắng ngày càng lớn dần là điều có thực.
Thứ tư, việc quản lý buôn bán biên giới giữa hai nước đã có những kết quả
khích lệ nhưng vẫn còn nhiều bất cập.Tình trạng buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương
mại, hàng giả hàng chất lượng kém vẫn còn tiếp diễn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường kinh doanh và tâm lý người tiêu dùng. Và mức tăng trưởng mậu dịch giữa hai
nước chưa phản ánh hết tiềm năng và tính bổ sung còn rất lớn của mỗi nước.
b. Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu
Một là, khả năng tăng mạnh xuất khẩu là rất khó, do cơ cấu hàng xuất khẩu của
ta từ trước đến nay đại bộ phận tương đồng với hàng Trung Quốc: hàng nông sản,
hàng tiêu dùng, hàng dệt may… trong khi chất lượng lại kém hơn nên khó có khả năng
tăng mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng ngoài dầu thô, than đá, cao su, kể
cả rau quả và thủy sản được hưởng các ưu đãi về thuế suất nhập khẩu theo Chương
trình Thu hoạch sớm từ năm 2004 đến nay cũng không phát huy được lợi thế về thuế
suất và không đạt được kết quả như mong muốn.
Hai là, trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh, khoảng
7,2%/năm do đó nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc là rất lớn, đặc biệt là các
mặt hàng nguyên, nhiên liệu phục vụ gia công, chế biến, tái xuất sang các nước.
Ba là, các mặt hàng mà ta nhập nhiều từ Trung Quốc chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc và là những mặt hàng nguyên nhiên liệu
thiết yếu phục vụ cho sản xuất – tiêu dùng, phát triển kinh tế của nước ta, đồng thời là
các sản phẩm mà trong nước chă sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đủ đáp
ứng được nhu cầu trong nước, chủ yếu là các nhóm mặt hàng công nghiệp, nguyên liệu
đầu vào cho sản xuất công nghiệp như: xăng dầu các loại, hóa chất, phân bón các loại,
vải và nguyên phụ liệu dệt may, sắt thép các loại, máy móc thiết bị phụ tùng các loại.
Bốn là, do vị trí địa lý thuận lợi, giá rẻ, giao hàng nhanh, thuận tiện, đáp ứng

ngay được yêu cầu về sản xuất và tiêu dùng đặc biệt trong bối cảnh mà nhiều ngành
sản xuất trong nước chưa thể chủ động được nguồn nguyên liệu nhưng nhu cầu sử
dụng nguyên liệu của các ngành, nghề của Việt Nam vẫn liên tục tăng lên do vậy mà
tốc độ nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu và hàng tiêu dùng từ Trung Quốc vẫn tiếp
tục tăng mạnh.
Năm là, do tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ Trung Quốc trong giai đoạn này
tăng nhanh trong khi giá trị xuất khẩu những nhóm hàng ngoài dầu thô lại không theo
kịp cả về kim ngạch và tốc độ tăng nên việc dẫn tới tình trạng nhập siêu như hiện nay
là tất yếu.
Từ những phân tích nêu trên, dự đoán từ nay đến các năm tiếp theo nhu cầu
nhập khẩu nhiều loại mặt hàng nêu trên của Trung Quốc còn tiếp tục tăng.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong giai đoạn tới
Vấn đề thứ nhất, Trung Quốc là một nước lớn, đang phát triển rất nhanh và có
sức thu hút toàn cầu. Sự phát triển của Trung Quốc là cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Việt Nam phải cải cách, phát triển nhanh mới tận dụng được cơ hội này.
Trung Quốc phát triển nhanh, ổn định là một cơ hội lớn đối với Việt Nam. Vì
rằng với một thị trường rộng lớn, nhu cầu về nhiều mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế
như khoáng sản, nông sản, vị trí địa lý thuận lợi, quan hệ hợp tác hai bên đang ở vào
thời kỳ được đẩy mạnh, thị trường Trung Quốc trong tương lai là nơi tập trung của các
công ty hàng đầu thế giới Các yếu tố này sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam với tư cách
là nước láng giềng nhỏ hơn và trình độ phát triển thấp hơn. Tuy nhiên, thách thức cạnh
tranh cũng sẽ rất lớn. Việt Nam phải thay đổi, phải nhanh chóng lớn mạnh mới tận
dụng được cơ hội này.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao và ổn định như hiện nay, cùng
một thị trường hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng đang trong quá trình chuyển biến mạnh mẽ
về cơ cấu tiêu dùng, thị trường Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục là thị trường trọng điểm, có
tầm quan trọng to lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam. Với xu hướng tăng trưởng khá
nóng như hiện nay, trong vòng 10 năm tới, nhu cầu vềnăng lượng, về nguyên liệu đầu
vào phục vụ sản xuất, tiêu dùng của Trung Quốc sẽ rất cao. Vì vậy, chúng ta cần phát huy

những ưu thế về địa lý, về tính chất bổ sung trong cơ cấu hàng hoá giữa hai nước và các
nhân tố có lợi khác để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
Thị trường Trung Quốc đoạn thay đổi mạnh về cơ cấu và xu hướng tiêu dùng,
song với một số lượng dân số khổng lồ, với mức thu nhập ngày càng cao do kinh tế
tăng trưởng liên tục, dự đoán nhu cầu của thị trường này đối với các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, than đá, thuỷ, hải sản, rau quả, đồ gỗ, hạt
điều và các loại hàng nông sản, trong giai đoạn tới vẫn là rất lớn. Đặc biệt, nhu cầu
đối với nhóm hàng năng lượng như dầu thô, than đá, cao su sẽ ngày càng tăng mạnh.
Trong tương lai, từ năm 2015 trở đi, ngoài nhu cầu về cao su, Trung Quốc sẽ tiếp tục gia
tăng nhập khẩu Boxit Alumi, các loại quặng, hàng điện tử và nhiều loại hàng tiêu dùng
khác. Đây hầu hết là những nhóm hàng hoá mà Việt Nam rất có tiềm năng. Do đó, chúng
ta cần tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng các mặt hàng này để khai thác tối đa lợi thế xuất khẩu.
Vấn đề thứ hai, kể từ năm 2001, Việt Nam luôn ở thế nhập siêu và kim ngạch
hai chiều càng tăng mạnh thì nhập siêu càng lớn. Năm 2012, nhập khẩu từ Trung Quốc
chiếm 25,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. So với năm trước, nhập khẩu
của Việt Nam từ Trung Quốc tăng 17,6%, cao gấp 2,5 lần tốc độ tăng của tổng kim
ngạch nhập khẩu cả nước.
Hiện Việt Nam chủ yếu nhập hàng trung gian từ Trung Quốc, một phần sản
xuất hàng xuất khẩu, một phần để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước, không chỉ phụ
thuộc về nguyên liệu đầu vào mà còn bị ảnh hưởng tác động bởi những vấn đề xã hội

×