Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập tình huống về đại lý thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.15 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

TM2.N - 1.
Tháng 11 năm 2014, giám đốc Công ty cổ phần Tuấn Anh ký hợp đồng đại lý mua
bán hàng hóa với giám đốc Công ty TNHH Minh Nguyệt. Theo hợp đồng, công ty
Tuấn Anh phải thực hiện việc bán sữa chua do công ty Minh Nguyệt sản xuất với giá
thành sản phẩm do công ty Minh Nguyệt ấn định. Thời hạn đại lý là 3 năm từ ngày
hợp đồng có hiệu lực.
1. Xác định các điều kiện chủ thể để hợp đồng đại lý có hiệu lực. (Nêu rõ ngành
nghề kinh doanh mà công ty Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt phải đăng ký).
2. Các bên có thỏa thuận trong hợp đồng là quyền sở hữu hàng hóa sẽ được chuyển
giao cho công ty Tuấn Anh từ thời điểm hàng hóa được giao đến kho hàng của công
ty Tuấn Anh. Thỏa thuận này của các bên có phù hợp quy định của pháp luật về hoạt
động đại lý mua bán hàng hóa không? Vì sao?
3. Một khách hàng sau khi mua sữa chua tại cửa hàng của công ty Tuấn Anh bị ngộ
độc. Công ty Tuấn Anh hay công ty Minh Nguyệt phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho khách hàng?
4. Tháng 3 năm 2015, công ty Tuấn Anh nhận được đề nghị giao kết hợp đồng đại lý
mua bán sữa chua của công ty Sữa tươi Ba Vì. Công ty Tuấn Anh có thể đồng thời là
đại lý của công ty Minh Nguyệt và công ty Sữa tươi Ba Vì không? Vì sao?
Theo đề nghị của công ty Sữa tươi Ba Vì, công ty Tuấn Anh quyết định đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty Minh Nguyệt và yêu cầu công ty Minh
Nguyệt bồi thường 50 triệu cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh đã làm đại lý

1


cho công ty Minh Nguyệt. Anh (chị) hãy nhận xét về hành vi nói trên của công ty
Tuấn Anh.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


1. Xác định các điều kiện chủ thể để hợp đồng đại lý có hiệu lực. (Nêu rõ ngành
nghề kinh doanh mà công ty Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt phải đăng ký).
Hiện nay, Luật thương mại 2005 không có quy định cụ thể về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng thương mại. Vì vậy, để xác định các điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng thương mại nói chung cũng như hợp đồng đại lý thương mại nói riêng thì
đều được xác định trên các căn cứ của Bộ Luật Dân sự. Điều 122 Bộ luật dân sự
2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định”.
Theo đó, điều kiện chủ thể được xét đến ở đây là người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân, pháp nhân là khả
năng của cá nhân, pháp nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự. Hợp đồng đại lý thương mại có hai bên chủ thể là bên giao đại lý và bên
đại lý. Theo Điều 167 Luật Thương mại 2005 quy định về hai chủ thể này như sau:

2


“1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua
hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý
cung ứng dịch vụ.
2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng
để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.”
Như vậy, theo quy định trên thì điều kiện chủ thể của hai bên trong hợp đồng
đại lý phải đảm bảo điều kiện là thương nhân. Theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương

mại thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Do vậy
chủ thể của hợp đồng đại lý thương mại - công ty Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt
- phải là thương nhân với điều kiện thành lập hợp pháp, có đăng ký kinh doanh theo
đúng trình tự thủ tục và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy
định của Luật Doanh nghiệp 2014. Ngoài ra, buôn bán sữa hoặc chế biến các sản
phẩm từ sữa không thuộc mặt hàng kinh doanh có điều kiện được quy định tại Danh
mục hành hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện (Ban hành kèm theo Nghị định số
59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ), nên việc đăng ký kinh
doanh chỉ cần đảm bảo đăng ký theo đúng trình tự, thủ tục, trong đó có việc đăng ký
mã ngành kinh doanh. Mã ngành được quy định tại Hệ thống ngành kinh tế Việt
Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm
2007 của Thủ tướng Chính phủ) và Nội dung hệ thống ngành nghề kinh tế Việt Nam
(Trích Quyết định số 337/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và đầu tư quy định về hệ thống
ngành nghề kinh tế Việt Nam), theo đó, các ngành nghề kinh doanh mà công ty Tuấn
Anh và công ty Minh Nguyệt phải đăng ký:
- Công ty TNHH Minh Nguyệt phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề chế
biến sản phẩm từ sữa (mã ngành 10500) hoặc bán buôn sữa và các sản phẩm sữa
(mã ngành 46326).

3


- Công ty cổ phần Tuấn Anh phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề đại lý
(mã ngành 46101), bán buôn sữa và các sản phẩm từ sữa (mã ngành 46326), bán lẻ
sữa và các sản phẩm từ sữa trong cửa hàng chuyên doanh (mã ngành 47224).
Trong quan hệ hợp đồng đại lý, do bên giao đại lý thực hiện việc mua, bán
hàng hóa cho mình thông qua bên đại lý nên bên đại lý bắt buộc phải có quyền kinh
doanh những hàng hóa đó, hay nói cách khách là phải có ngành, nghề kinh doanh
phù hợp với hàng hóa đại lý. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bỏ nội dung

ngành nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Doanh
nghiệp vẫn phải ghi ngành nghề kinh doanh trong hồ sơ đăng ký doanh, và không
cần phải ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Khi có sự thay đổi ngành, nghề kinh doanh, doanh nghiệp chỉ phải thông bảo với cơ
quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà
không phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp mới như luật cũ.
Bên cạnh đó, công ty cổ phần Tuấn Anh và công ty TNHH Minh Nguyệt là
những thực thể xã hội, nên năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này không biểu
hiện trực tiếp bằng hành vi và ý chí của một con người cụ thể nào đó, mà được thể
hiện bởi ý chung của các thành viên và được thực hiện thông qua hành vi của người
đại diện, nếu hành vi đó được thực hiện nhân danh chủ thể, trong phạm vi đại diện,
và tương ứng với phạm vi hoạt động của chủ thể đó. Tại Khoản 2 Điều 13 Luật
doanh nghiệp 2014 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có
thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ
thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp”. Như vậy, với công ty TNHH Minh Nguyệt và công ty cổ
phần Tuấn Anh, số lượng người đại diện theo pháp luật, chức danh, quyền nghĩa vụ
của người đại diện theo pháp luật sẽ được quy định trong Điều lệ doanh nghiệp.
Theo đó, những người này có quyền ký kết hợp đồng kinh doanh trong phạm vi
Điều lệ quy định. Tuy nhiên, trường hợp được người đại diện theo pháp luật của
4


công ty ủy quyền để ký kết hợp đồng này theo quy định thì người đại diện của công
ty phải làm giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền trong đó nêu rõ những trường
hợp người được ủy quyền được phép giao kết.
Ngoài ra, các chủ thể tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện
còn là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại. Luật
Thương mại không có các quy định về việc xác lập các giao dịch thương mại một

cách tự nguyện, do đó sẽ dựa theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Theo đó, hợp
đồng bị coi là xác lập vô hiệu nếu thiếu yếu tố tự nguyện và thuộc một trong các
trường hợp sau: Hợp đồng giả tạo (Điều 129); hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn
(Điều 131); hợp đồng xác lập do bị lừa dối hoặc đe dọa (Điều 132); xác lập hợp
đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi (Điều 133). Vì vậy, các
bên khi ký kết hợp đồng đại lý trên cần tuân thủ yếu tố tự nguyện này.
Như vậy, để hợp đồng đại lý có hiệu lực thì chủ thể phải đảm bảo các điều
kiện nêu trên.
2. Các bên có thỏa thuận trong hợp đồng là quyền sở hữu hàng hóa sẽ được
chuyển giao cho công ty Tuấn Anh từ thời điểm hàng hóa được giao đến kho
hàng của công ty Tuấn Anh. Thỏa thuận này của các bên có phù hợp quy định
của pháp luật về hoạt động đại lý mua bán hàng hóa không? Vì sao?
Việc các bên thỏa thuận trong hợp đồng về việc chuyển quyền sở hữu hàng
hóa cho công ty Tuấn Anh từ thời điểm hàng hóa được giao đến kho hàng của công
ty Tuấn Anh là hoàn toàn không phù hợp với quy định của pháp luật, nhóm em đưa
ra quan điểm trên dựa vào một số căn cứ như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào Điều 166 Luật Thương mại năm 2005 thì : “Đại lý
thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa
thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý
hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”.

5


Như vậy, bên giao đại lí và bên đại lí có quyền tự do thỏa thuận trong hợp
đồng về việc bên đại lí sẽ nhân danh chính mình để mua, bán hàng hóa cho bên giao
đại lí, hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lí cho khách hàng, tuy nhiên việc thỏa
thuận của các bên không thể tùy tiện mà phải phù hợp với các quy định của pháp
luật. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy mục đích tham gia quan hệ đại lí thương mại của
hai chủ thể là rất rõ ràng, bên giao đại lí có thể mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng

dịch vụ của mình đến khách hàng một cách nhanh nhất và thuận tiện nhất, còn mục
đích của bên đại lí là hưởng thù lao chứ không phải là quyền sở hữu hàng hóa. Có
thể hiểu một cách đơn giản, trong đại lí mua bán hàng hóa bên đại lý không phải là
người mua hàng của bên giao đại lý mà chỉ là người nhận hàng để tiếp tục bán cho
bên thứ ba, chỉ khi hàng hóa bán được thì quyền sở hữu hàng hóa mới chuyển từ bên
giao đại lí cho bên thứ ba là khách hàng. Bên đại lý được quyền tự do lựa chọn
khách hàng để ký kết hợp đồng theo những quy định cụ thể trong hợp đồng đại lý.
Như vậy, trong trường hợp trên thì công ty Tuấn Anh (bên đại lí) chỉ được nhận sữa
chua từ công ty Minh Nguyệt (bên giao đại lý) để bán cho khách hàng, sau đó nhận
thù lao từ công ty Minh Nguyệt mà không được chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa
từ công ty Minh Nguyệt sang cho công ty Tuấn Anh.
Ngoài ra, nếu thỏa thuận việc quyền sở hữu hàng hóa sẽ được chuyển giao
cho công ty Tuấn Anh từ thời điểm hàng hóa được giao đến kho hàng của công ty
Tuấn Anh (bên đại lý), điều này khiến hợp đồng đại lý trở thành một hợp đồng mua
bán hàng hóa thông thường hoặc hợp đồng phân phối hàng hóa. Quan hệ phân phối
và quan hệ mua bán hàng hóa với tính chất là một quan hệ “mua đứt, bán đoạn”, nhà
phân phối và người mua không có trách nhiệm phải tuân thủ những chỉ dẫn của nhà
cung ứng liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa cho khách hàng của mình.
Nhưng trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đại lý có trách nhiệm phải
tuân thủ những chỉ dẫn của bên giao đại lý khi thực hiện hoạt động đại lý. Quyền sở
hữu cũng sẽ được chuyển sang bên phân phối hoặc bên mua. Như vậy, trong hoạt
động đại lý thương mại, việc các bên thỏa thuận về việc chuyển quyền sở hữu hàng
6


hóa trong hợp đồng đại lý thương mại là trái với bản chất của đại lý thương mại,
khiến hợp đồng đại lý trở thành một loại hợp đồng khác.
Thứ hai, căn cứ vào Điều 170 Luật Thương mại quy định rõ ràng về quyền sở
hữu trong đại lý thương mại theo đó: “Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng
hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý”. Theo đó thì chủ sở hữu hàng hóa trong hợp đồng

đại lý thương mại là bên giao đại lý. Pháp luật không quy định thêm về việc bên
giao đại lý và bên đại lý có quyền thỏa thuận về vấn đề quyền sở hữu này, do đó đây
không phải vấn đề mà các bên có thể tự do thỏa thuận trong hợp đồng. Bên cạnh đó,
trong quan hệ đại lý mua bán hàng hóa, bên giao đại lý chỉ giao hàng hóa hoặc tiền
cho bên đại lý bán hàng, tức là chỉ có sự dịch chuyển quyền chiếm hữu hàng hóa,
mà không chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên đại lý. Khi bên đại lý giao kết,
thực hiện hợp đồng với khách hàng (bên thứ ba), quyền sở hữu hàng hóa sẽ được
chuyển từ bên giao đại lý sang cho khách hàng. Bên đại lý chỉ có vai trò của một
dịch vụ trung gian giữa bên giao đại lý với khách hàng. Như vậy trong thỏa thuận
của hai bên về việc chuyển quyền sở hữu cho công ty Tuấn Anh (bên đại lý) từ thời
điểm hàng hóa được giao tới kho hàng của công ty Tuấn Anh là không phù hợp với
quy định của pháp luật.
3. Một khách hàng sau khi mua sữa chua tại cửa hàng của công ty Tuấn Anh bị
ngộ độc. Công ty Tuấn Anh hay công ty Minh Nguyệt phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho khách hàng?
Như đã nói ở trên, đại lý chỉ là bên đứng ra mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng
dịch vụ thay cho doanh nghiệp để hưởng thù lao, đồng thời, bên đại lý không phải là
chủ sở hữu của hàng hóa. Bên đại lý có mục đích là hưởng thù lao chứ không có
mục đích trở thành chủ sở hữu hàng hóa. Trong quan hệ đại lý thương mại tồn tại hai
loại hợp đồng: hợp đồng đại lý được xác lập giữa bên giao đại lý và bên đại lý, hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa bên đại lý và khách hàng. Việc xác lập quan hệ hợp
đồng này làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả bên giao đại lý, bên đại lý đối với
7


khách hàng. Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao cho bên
đại lý, nhưng bên đại lý mới là bên phát sinh giao dịch với khách hàng bằng các
hàng hóa và dịch vụ đó. Như vậy, do mối quan hệ phức tạp trên khi có rủi ro xảy ra
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì tùy vào từng trường hợp cụ thể để
xem xét trách nhiệm.

Vấn đề bên nào phải chịu trách nhiệm bồi thường , pháp luật về đại lý thương
mại không có quy định cụ thể, do đó phải dựa vào các quy định về quyền và nghĩa
vụ của các bên phát sinh khi tham gia vào quan hệ đại lý thương mại. Hợp đồng đại
lý cũng là một loại hợp đồng dân sự, hình thành dựa trên sự thỏa thuận của các bên
chủ thể, khi các bên đã có sự thỏa thuận (không trái với luật) thì pháp luật tôn trọng
sự thỏa thuận đó. Như vậy, trong trường hợp trên, khi khách hàng bị ngộ độc và phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu trong hợp đồng đại lý giữa bên công ty cổ
phần Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt có quy định về vấn đề này thì giải quyết
theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Trường hợp hai bên không có thỏa thuận về vấn đề này thì giải quyết theo quy
định của Luật thương mại 2005. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 173 Luật Thương
mại 2005, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên giao đại lý phải chịu trách
nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của
đại lý cung ứng dịch vụ. Đồng thời, Khoản 5 Điều 175 Luật Thương mại 2005 quy
định bên đại lý có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa sau khi nhận đối với đại lý bán và
trước khi giao hàng đối với đại lý mua. Như vậy, về nguyên tắc thì bên nào có lỗi
gây ra thiệt hại thì bên đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp cả
hai bên đều có lỗi thì phải liên đới chịu trách nhiệm về hàng hóa đối với khách hàng
(khoản 5 Điều 173 và Khoản 5 Điều 175 Luật Thương mại 2005).
Trong tình huống đề bài, giải quyết như sau:
-

Trường hợp thứ nhất, ngộ độc do lỗi của khách hàng. Trong trường hợp ngộ độc là
kết quả do lỗi của khách hàng như: ăn sữa chua quá hạn sử dụng trong khi ngày mua
8


về vẫn chưa hết hạn, hoặc bảo quản không đúng theo đề nghị của đại lý,… thì khách
hàng không thể bắt các bên đại lý là công ty Tuấn Anh hoặc công ty Minh Nguyệt
chịu trách nhiệm.

- Trường hợp thứ hai, công ty Tuấn Anh (bên đại lý) chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho khách hàng khi lỗi hoàn toàn thuộc về bên công ty Tuấn Anh.
Là bên đại lý, công ty Tuấn Anh có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa sau khi nhận
(Khoản 5 Điều 175 Luật Thương mại 2005). Vì là đại lý bán hàng hóa nên khi bên
giao đại lý (công ty Minh Nguyệt) giao hàng hóa cho mình thì công ty Tuấn Anh
phải có trách nhiệm bảo quản tât cả số lượng hàng hóa đó. Mặc dù Luật thương mại
2005 quy định bên giao đại lý “chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý
mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ” (khoản 2 Điều
173) nhưng trong trường hợp chất lượng hàng hóa không được đảm bảo do lỗi của
bên đại lý thì bên đại lý phải chịu trách nhiệm. Để bảo quản tốt số lượng hàng hóa
công ty Tuấn Anh cần chủ động trong việc chuẩn bị kho, bãi, các điều kiện tối cần
thiết khác phù hợp với từng loại mặt hàng hóa được giao để bán. Nếu bên đại lý làm
không đúng, không đủ đối với nghĩa vụ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật (như tráo
đổi hàng hóa...) thì bên đại lý là công ty Tuấn Anh phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
- Trường hợp thứ ba, công ty Minh Nguyệt (bên giao đại lý) phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng khi lỗi hoàn toàn toàn thuộc về công ty
Minh Nguyệt và công ty Tuấn Anh không có lỗi. Với tư cách là chủ sở hữu của hàng
hóa, bên giao đại lý được toàn quyền định đoạt đối với hàng hóa của mình cũng như
phải chịu rủi ro đối với hàng hóa và gánh chiu trách nhiệm với khách hàng về chất
lượng của hàng hóa (trừ trường hợp hàng hóa hư hỏng do lỗi của bên đại lý). Bên
giao đại lý có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lí mua bán
hàng hóa (Khoản 2 Điều 173 Luật Thương mại 2005). Vì vậy trong trường hợp công
ty Tuấn Anh đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình, và không có lỗi trong việc
khách hàng bị ngộ độc thì công ty Minh Nguyệt phải chịu trách nhiệm bồi thường
9


thiệt hại. Ví dụ như trường hợp công ty Minh Nguyệt giao hàng cho bên đại lý
không đảm bảo chất lượng, giao hàng đã quá hạn mà vẫn ghi còn hạn sử dụng,...

- Trường hợp thứ tư, hai công ty Tuấn Anh và Minh Nguyệt phải liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp cả công ty Tuấn Anh và
Minh Nguyệt cùng có lỗi khiến khách hàng bị ngộ độc thì hai công ty này phải liên
đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (khoản 5, Điều 175 Luật thương mại
2005). Ví dụ như trong trường hợp cả hai công ty cùng biết lô hàng không đạt chuẩn
chất lượng, hàng bị quá hạn,… nhưng vẫn bán cho khách hàng để không phải gánh
chịu lỗ; hoặc khi hàng hóa đã được giao cho công ty Tuấn Anh bảo quản nhưng sai
quy cách, công ty Minh Nguyệt kiểm tra và phát hiện hàng hóa có vấn đề mà vẫn bỏ
qua thì đây là trường hợp thuộc lỗi của cả hai bên;…
Luật Thương mại xác định rõ bên đại lý và bên giao đại lý phải chịu trách
nhiệm về chất lượng hàng hóa trong trường hợp có lỗi do mình gây ra chứ không
phải chịu trách nhiệm về chất lượng và quy cách hàng hóa khi thực hiện hợp đồng
đại lý trong mọi trường hợp.
4. Tháng 3 năm 2015, công ty Tuấn Anh nhận được đề nghị giao kết hợp đồng
đại lý mua bán sữa chua của công ty Sữa tươi Ba Vì. Công ty Tuấn Anh có thể
đồng thời là đại lý của công ty Minh Nguyệt và công ty Sữa tươi Ba Vì không?
Vì sao?
Về bản chất, đại lý thương mại là quan hệ trung gian thương mại, mua hộ bán
hộ để hưởng thù lao. Theo đó bên giao đại lý sẽ yêu cầu bên đại lý thực hiện công
việc, hoặc là mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý, hoặc là cung ứng dịch vụ của
bên giao đại lý cho khách hàng. Bên giao đại lý thanh toán thù lao cho bên đại lý.
Bên đại lý không phải là người mua hàng mà chỉ nhận hàng từ bên giao đại lý rồi
tiếp tục bán cho bên thứ ba. Theo Khoản 1 Điều 174 Luật Thương mại năm 2005
quy định về quyền của bên đại lý :

10


“Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây:
1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy

định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này.”
Như vậy, bên đại lý có quyền giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên
giao đại lý trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định cụ
thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối
với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định (Khoản 7 Điều 175 Luật Thương mại
năm 2005).
Trong tình huống trên, có thể thấy sữa chua không thuộc loại hàng hóa mà
pháp luật hiện hành quy định về việc chỉ được làm đại lý bán sữa chua cho một hãng
sản xuất sữa chua, nên việc công ty Tuấn Anh có thể đồng thời là đại lý của công ty
Minh Nguyệt và công ty Sữa tươi Ba Vì hay không hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa
thuận trong hợp đồng đại lý giữa công ty Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt. Do
trong tình huống không nhắc đến việc thỏa thuận giữa công ty Tuấn Anh và công ty
Minh Nguyệt nên nhóm em xin chia làm hai trường hợp như sau :
-

Trường hợp thứ nhất: Trong hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa giữa công ty Tuấn
Anh và công ty Minh Nguyệt có thỏa thuận về điều khoản hạn chế giao kết hợp
đồng, ví dụ như quy định trong thời hạn 3 năm làm đại lý cho công ty Minh Nguyệt,
công ty Tuấn Anh không được làm đại lý cho bất kỳ một thương nhân nào khác.
Như vậy trong trường hợp này, công ty Tuấn Anh có nghĩa vụ thực hiện đúng thỏa
thuận trong hợp đồng, nghĩa là công ty Tuấn Anh không thể đồng thời là đại lý mua

-

bán sữa chua cho công ty Minh Nguyệt và công ty Sữa tươi Ba Vì.
Trường hợp thứ hai: Trong hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa giữa công ty Tuấn
Anh và công ty Minh Nguyệt có thỏa thuận về việc công ty Tuấn Anh được phép
giao kết hợp đồng đại lý mua bán sữa chua với bên giao đại lý khác trong thời hạn.
Hoặc nếu công ty Tuấn Anh và công ty Minh Nguyệt không có thỏa thuận về việc
công ty Tuấn Anh có được giao kết hợp đồng đại lý sữa chua với bên giao đại lý

11


khác trong thời hạn hợp đồng thì công ty Tuấn Anh vẫn đương nhiên có quyền giao
kết hợp đồng đại lý sữa chua với bên giao đại lý khác theo quy định tại Khoản 1
Điều 175 Luật thương mại 2005. Như vậy, trong trường hợp trên công ty Tuấn Anh
có thể đồng thời là đại lý mua bán sữa chua cho công ty Minh Nguyệt và công ty
Sữa tươi Ba Vì.
Theo đề nghị của công ty Sữa tươi Ba Vì, công ty Tuấn Anh quyết định đơn
phương chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty Minh Nguyệt và yêu cầu công ty
Minh Nguyệt bồi thường 50 triệu cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh đã
làm đại lý cho công ty Minh Nguyệt. Anh (chị) hãy nhận xét về hành vi nói trên
của công ty Tuấn Anh.
Luật Thương mại hiện hành không quy định rõ ràng về các trường hợp chấm
dứt hợp đồng đại lý thương mại, song căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự năm
2005, hợp đồng đại lý thương mại chấm dứt trong các trường hợp sau: Các bên thỏa
thuận hủy bỏ hợp đồng; trường hợp hợp đồng đại lý đã thực hiện xong; trường hợp
hợp đồng đại lý hết thời hạn và không gia hạn; trường hợp một trong các bên tham
gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tư cách thương
nhân và trường hợp hợp đồng đại lý bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
Đồng thời có thể thấy hợp đồng đại lý cũng là một loại hợp đồng dịch vụ, nên theo
quy định tại Điều 525 Bộ luật Dân sự thì các bên tham gia hợp đồng đại lý có quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý trong hai trường hợp xuất phát từ quyền lợi
của hai bên tham gia hợp đồng: trường hợp thứ nhất là trong trường hợp việc tiếp
tục thực hiện hợp đồng không có lợi cho bên giao đại lý thì bên giao đại lý có quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng; trường hợp thứ hai là trong trường hợp bên giao
đại lý không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thỏa
thuận thì bên đại lý có quyền đơn phương chấn dứt hợp đồng. Có thể nhận thấy quy
định về việc chấm dứt hợp đồng đại lý trong Luật thương mại năm 2005 cho phép
các bên tự do hơn trong việc chấm dứt hợp đồng đại lý, tuy nhiên việc quy định như

vậy có thể sẽ gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bên còn lại.
12


Trong tình huống này, theo như đề nghị của công ty Sữa tươi Ba Vì, công ty
Tuấn Anh đã thực hiện hai hành vi đó là quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lý với công ty Minh Nguyệt và yêu cầu công ty Minh Nguyệt bồi thường 50 triệu
cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh làm đại lý cho công ty Minh Nguyệt. Sau
đây, nhóm em sẽ xem xét từng hành vi của công ty Tuấn Anh.
Thứ nhất là việc công ty Tuấn Anh quyết định đơn phương chấm dứt hợp
đồng đại lý với công ty Minh Nguyệt. Theo hợp đồng mà công ty Tuấn Anh kí với
công ty Minh Nguyêt thì công ty Tuấn Anh sẽ làm đại lý cho công ty Minh Nguyệt
trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Để đảm bảo cho các bên tự
do, chủ động hơn trong quan hệ đại lý pháp luật vẫn cho phép các bên đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý, cụ thể được quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 177
Luật Thương mại năm 2005. Theo quy định tại Điều 177 Luật Thương mại năm
2005 về thời hạn đại lý thì “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thời hạn đại lý sẽ
chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày
một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng
đại lý” (Khoản 1 Điều 177). Như vậy theo quy định tại Khoản 1 Điều 177 thì cả bên
đại điện và bên giao đại diện đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
chỉ cần thông báo cho bên kia một khoảng thời gian hợp lí (không sớm hơn 60
ngày). Do vậy việc công ty Tuấn Anh đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý với
công ty Minh Nguyệt là phù hợp với quy định của pháp luật, dù việc đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý của công ty Tuấn Anh theo đề nghị của công ty Sữa tươi
Ba Vì nhưng hành vị này của công ty Tuấn Anh vẫn được cho phép vì Luật Thương
mại không quy định cụ thể về các trường hợp được phép đơn phương chấm dứt hợp
đồng hay các trường hợp không được đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý. Do
vậy, công ty Tuấn Anh hoàn toàn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý
với công ty Minh Nguyệt.

Thứ hai là việc công ty Tuấn Anh yêu cầu công ty Minh Nguyệt bồi thường
50 triệu cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh làm đại lý cho công ty Minh
13


Nguyệt. Theo quy định của luật Thương mại năm 2005 thì vấn đề bồi thường trong
quan hệ đại lý chỉ đặt ra đối với bên giao đại lý khi bên giao đại lý thông báo về việc
chấm dứt hợp đồng đại lý: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý
thông báo chấm dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có
quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã
làm đại lý cho bên giao đại lý đó” (Khoản 2 Điều 177), còn trường hợp hợp đồng
đại lý chấm dứt do yêu cầu của bên đại lý thì không đặt ra vấn đề bồi thường. Cụ
thể, Khoản 3 Điều 177 quy định: “Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên
cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý
bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý”. Như vậy,
trong trường hợp này công ty Tuấn Anh với tư cách là bên đại lý đã đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty Minh Nguyệt, công ty Tuấn Anh không có
quyền yêu cầu công ty Minh Nguyệt bồi thường 50 triệu cho khoảng thời gian công
ty Tuấn Anh làm đại lý và công ty Minh Nguyệt cũng không có nghĩa vụ phải bồi
thường cho công ty Tuấn Anh.
Tuy nhiên, vấn đề bồi thường có thể đặt ra đối với bên đại lý, tức công ty
Tuấn Anh. Bởi, hợp đồng ký kết giữa các bên là hợp đồng đại lý có thời hạn 3 năm.
Nếu hết thời hạn này, công ty Tuấn Anh chấm dứt hợp đồng thì sẽ không phải bồi
thường. Trong trường hợp chưa hết thời hạn 3 năm, công ty Tuấn Anh đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý, trong hợp đồng mà có quy định phạt vi phạm về vấn đề
này thì sẽ giải quyết theo hợp đồng (“mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm” – Điều 301 Luật Thương mại). Còn nếu trong hợp đồng
không có quy định về phạt vi phạm, hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng của
công ty Tuấn Anh mà gây thiệt hại cho công ty Minh Nguyệt thì sẽ phải bồi thường
phần tổn thất này.

Tóm lại, trong trường hợp này thì hành vi công ty Tuấn Anh đơn phương
chấm dứt hợp đồng đại lý với công ty Minh Nguyệt là không trái với quy định của
pháp luật nên công ty Tuấn Anh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý với
14


công ty Minh Nguyệt. Còn hành vi thứ hai, yêu cầu công ty Minh Nguyệt bồi
thường 50 triệu cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh làm đại lý cho công ty Minh
Nguyệt là không hợp pháp, vì theo quy định của pháp luật thì trường hợp hợp đồng
đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không có
quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho
bên giao đại lý; trừ trường hợp nếu trong hợp đồng có thỏa thuận khi bên đại lý đơn
phương chấm dứt hợp đồng vẫn được bồi thường thì công ty Minh Nguyệt có thể sẽ
phải bồi thường 50 triệu cho khoảng thời gian công ty Tuấn Anh làm đại lý cho công
ty Minh Nguyệt.

KẾT LUẬN
Giao dịch trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch
trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua, cung ứng dịch vụ và người bán
hang hóa, sử dụng dịch vụ và việc xác định các điều kiện giao dịch phải thong qua
một người trung gian. Một trong số các hình thức trung gian thương mại khá phổ
biến hiện nay là hình thức đại lý thương mại. Với hình thức này, thương nhân có thể
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình một cách nhanh chóng và tiết kiệm
đáng kể chi phí trong quá trình phân phối sản phẩm. Trong hoạt động đại lý thương
mại, các bên tham gia có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật thương mại
quy định tương đối cụ thể, rõ ràng, đáp ứng được một cách tương đối sự phát triển
của thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Bộ luật Dân sự 2005.
Luật Thương mại 2005.
Luật Doanh nghiệp 2014.
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ
Quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh,

5.

hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ

6.

tướng Chính phủ về Ban hành Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam.
Quyết định số 337/QĐ-BKH của Bộ Kế hoạch và đầu tư quy định về Hệ

7.

thống ngành nghề kinh tế Việt Nam.
Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Thương mại tập 2 – Nhà
xuất bản Công an Nhân dân.


16



×