Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÌM HIỂU NGHIỆP VỤ MUA BÁN NỢ TRONG XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.48 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG – PHÂN VIỆN PHÚ YÊN
KHOA NGÂN HÀNG
------------------------------

BÀI TẬP LỚN
TÌM HIỂU NGHIỆP VỤ MUA BÁN NỢ
TRONG XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Đặng Vũ Khánh Vân
Bộ môn:

Quản trị rủi ro tín dụng

Nhóm:

QT - KT

Thành viên nhóm:

1.

Phạm Trung Tuấn (Nhóm trưởng)

2.

Phạm Trung Kiên

3.

Trương Thanh Bách


4.

Huỳnh Thương Tín

5.

Đào Thị Thùy Tâm

6.

Nguyễn Viết Huy

Phú Yên, tháng 9 năm 2017



PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
1. CƠ SỞ PHÁP LÝ:
1.1 Khái niệm về hoạt động mua bán nợ
Có thể hiểu hoạt động mua bán nợ là việc chuyển nợ của người mua hàng (con nợ) từ
người bán hay người cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang công ty mua nợ (chủ nợ mới).
Công ty mua nợ đảm bảo việc thu hồi nợ, tránh các rủi ro về việc không trả được nợ hoặc
không có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước thời hạn toàn
bộ hoặc một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và
phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ chịu. Từ đó hình thành một
quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân hàng, tổ chức tài
chính), người bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hóa hay nhận dịch
vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ mua bán nợ có thể “biến hóa” thành một số dịch vụ phụ như
quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín
dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.

Việc mua bán như vậy dựa trên quyền thu nợ của chủ nợ, chứ không phải nghĩa vụ trả nợ
của con nợ. Bên bán trong giao dịch này được lợi là hóa giải được bài toán tài chính
doanh nghiệp dù phải chịu một khoản “lỗ” nào đó (có khi chỉ là kỹ thuật).
Thuật ngữ tiếng Anh gọi hoạt động này là “factoring”. Factoring (tạm hiểu là giao
dịch ủy quyền) tuy có vẻ không liên quan đến tài chính, nhưng từ lâu, đây là thuật ngữ
được đặt cách dùng trong lĩnh vực giao dịch các khoản sẽ thu và cho vay tại thị trường
Âu - Mỹ. Hoạt động này đôi khi có các biến thể và nghiệp vụ trung gian phức tạp, tuy
nhiên, dù là thế nào chúng ta cũng nên hiểu đúng đó là mua bán khoản sẽ thu hay giao
dịch quyền thu nợ. Đồng thời, cũng là để xóa đi cách hiểu sai, nghĩ lệch gần đây ở ta rằng
“việc mua bán nợ sẽ giúp giải quyết gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp”.
Theo Edward W. Reed và Edward K. Gill, mua bán nợ là việc mua lại các khoản nợ.
Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến
hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua bán nợ
đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán) và xác lập
các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty
mua bán nợ bản sao hóa đơn. Khoản ứng trước thường chiếm khoảng 80% - 90% giá trị
hóa đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa việc hàng

3


trả lại, hàng giao thiếu, hoặc yêu cầu khác của người mua. Thường vào cuối năm, công ty
mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn
cho khách hàng.
Hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay của các TCTD được quy định tại Quy
chế mua, bán nợ của các TCTD kèm theo Quyết định số 09/2015/QĐNHNN của Thống
đốc Ngân Hàng Nhà Nước ban hành ngày 17/07/2015.
Quy chế này ban hành quy định rõ hoạt động mua bán nợ của các TCTD (kể cả các
TCTD có nhiệm vụ thực hiện mua, bán nợ trực thuộc TCTD) được thành lập và hoạt
động theo Luật các TCTD, đối với các khoản nợ mà TCTD cho khách hàng vay.

Mua, bán nợ là thỏa thuận bằng văn bản về việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với
khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh, theo
đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh
toán từ bên mua nợ.
Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay và khoản trả
thay trong nghiệp vụ bảo lãnh theo hợp đồng cấp tín dụng đã ký của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, đang được theo dõi hạch toán nội bảng, ngoại bảng tại
bảng cân đối kế toán
1.2 Bản chất hoạt động mua bán nợ
Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng, cụ thể khi đến
hạn khách hàng không thanh toán khoản nợ cho ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ
chuyển giao khoản nợ trên cho công ty mua bán nợ. Trước đây, mọi người quan điểm
rằng công ty mua bán nợ hoạt động như một tổ chức chuyên đòi nợ thuê, khi nhận được
khoản nợ từ ngân hàng sẽ tổ chức xử lý đòi nợ thay cho ngân hàng. Nhưng thực chất,
ngân hàng thay vì thực hiện quyền đòi nợ đã bán quyền sở hữu khoản nợ, bao gồm
quyền đòi nợ và các quyền liên quan của mình cho công ty mua bán nợ. Như vậy, bản
chất của hoạt động mua bán nợ chính là mua quyền đòi nợ từ ngân hàng, sau đó xử lý
bằng các nghiệp vụ chuyên môn, và tiến hành kinh doanh thu lợi nhuận trên khoản nợ
đó.

1.3 Các chủ thể tham gia:
• Bên bán nợ là các Tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các

4


tổ chức tín dụng, tổ chức có nhiệm vụ thực hiện việc mua, bán nợ trực
thuộc tổ chức tín dụng, tổ chứ c tín dụng nước ngoài sở hữ u khoản nợ và
bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu
cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản

nợ.
• Bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu
cầu mua khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản
nợ.
• Bên môi giới là các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng làm chức năng trung
gian, dàn xếp việc mua, bán nợ giữa các bên mua, bán nợ và được hưởng
phí dịch vụ môi giới theo thỏa thuận.
• Bên nợ là các tổ chức, cá nhân vay nợ tổ chức tín dụng.
1.4 Phạm vi và nguyên tắc hoạt động mua, bán nợ
a. Phạm vi mua, bán nợ

Các khoản nợ được mua, bán bao gồm:
• Các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay (kể cả khoản nợ cho vay đối với
các tổ chức tín dụng khác) đang hạch toán nội bảng.
• Các khoản nợ đã được tổ chức tín dụng xử lý bằng dự phòng rủi ro hoặc bằng nguồn
khác hiện đang được hạch toán theo dõi ngoại bảng.
Một khoản nợ có thể được mua, bán một phần hay toàn bộ do các bên mua, bán nợ thỏa
thuận.
Các bên không thực hiện mua, bán đối với các khoản nợ đã có thỏa thuận không được
mua, bán.
b. Nguyên tắc mua bán các khoản nợ:

• Đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, phù hợp với quy định của pháp luật
Việt Nam và thông lệ quốc tế. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định tại Quy chế
này thì áp dụng các điều ước quốc tế đó. Việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa
thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia mua, bán nợ.

5



• Việc chuyển giao khoản nợ được mua, bán được tiến hành đồng thời với việc chuyển
giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả các quyền gắn
liền với các bảo đảm cho khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ.
• Việc mua, bán nợ có liên quan tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài và thanh toán bằng
ngoại tệ, các bên mua, bán nợ phải chấp hành các quy định của pháp luật hiện hành về
quản lý ngoại hối và các quy định liên quan khác của pháp luật Việt Nam.
• Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có
thể được mua, bán nhiều lần.
c. Phương thức các bên tham gia mua, bán nợ

• Phương thức mua, bán nợ thông qua đấu giá các khoản nợ thực hiện theo quy định của
pháp luật về bán đấu giá tài sản.
• Phương thức mua, bán nợ thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và bên mua nợ
hoặc thông qua môi giới.
Giá mua, bán nợ được xác định như sau:
• Do các bên thỏa thuận trực tiếp hoặc thông qua bên môi giới. Riêng đối với các khoản nợ
thuộc Nhóm 1 theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ
chức tín dụng, thì giá mua, bán nợ không được thấp hơn giá trị khoản nợ được mua, bán.
• Là giá mua cao nhất trong trường hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.
1.5 Nghiệp vụ mua, bán nợ
Mục tiêu của hoạt động mua bán nợ là tối thiểu hóa tổn thất rủi ro do các khoản
nợ quá hạn mang lại, kinh doanh thu lợi nhuận và đồng thời thực hiện các mục tiêu xã
hội. Vì vậy mà các nghiệp vụ của nó mang tính chuyên nghiệp hơn so với bộ phận xử
lý rủi ro tài chính các ngân hàng. Các nghiệp vụ mua bán nợ thông qua ba giai đoạn
sau:
 Nghiệp vụ mua nợ:
- Hàng hóa của các công ty mua bán nợ chủ yếu là các khoản nợ có vấn đề của


các NHTM và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản và quyền
sử dụng đất được sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ. Tiếp nhận để xử lý các
k hoản nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi thực
hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước.

6


- Định giá khoản nợ: dựa trên sự điều tra, phân loại nợ, từ đó xác định mức giá

mua hợp lý bằng các hình thức: thỏa thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá hoặc
theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ.
 Nghiệp vụ xử lý:
Xử lý các khoản nợ đã mua bằng nhiều cách:
- Đối với những khoản nợ có nguy cơ phá sản, hoạt động kinh doanh quá yếu kém

không còn khả năngphục hồi thì đề nghị cho phá sản, thanh lý tài s ản.
- Đối với những khoản nợ có khả năng phục hồi tình hình kinh doanh trong tương

lai đang gặp khó khăn nhất thời thì có thể can thiệp điều hành vào hoạt động,
tư vấn cho doanh nghiệp.
- Đối với những khoản nợ gặp khó khăn nhất thời về tài chính như ng có tiềm

năng phát triển, công ty có thể chuyển nợ thành vốn góp, đầu tư thêm vốn vào
doanh nghiệp.
Xử lý tài sản đã mua, tiếp nhận: Bảo quản, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho
thuê, đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh khai thác tài sản.
 Nghiệp vụ bán nợ:
Sau khi tổ chức xử lý, khai thác, công ty mua bán nợ sẽ thu hồi vốn và lợi nhuận

bằng cách bán ra các khoản nợ và tài sản bằng các hình thức như thỏa thuận trực tiếp,
đấu thầu, đấu giá hay bán qua thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, còn thực hiện các nghiệp vụ như: Tư vấn, môi giới xử lý nợ và tài sản
tồn đọng. Huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu mua nợ để mua một khoản
nợ nhất định có giá trị lớn, có tài sản bảo đảm.

7


PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Điều cốt lõi của nghiệp vụ mua bán nợ là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán nợ của
nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào công việc kinh
doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm đến mọi diễn tiến
xung quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với mua bán nợ, những khoản tiền mặt
“nóng” sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, mua bán nợ không chỉ là sự lựa chọn cho những khoản
nợ khó đòi, việc sử dụng dịch vụ này còn có thể đẩy nhanh những khoản thanh toán từ
khách hàng mua hàng trả chậm. Dịch vụ của các công ty mua bán nợ không giống nhau mà
có thể có những khác biệt về điều khoản, điều kiện mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu
tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, con số nợ nần, khả năng thu hồi nợ…
Sau cuộc khủng hoảng của hàng loạt ngân hàng trên thế giới, phản ứng chính sách đầu
tiên của các quốc gia là cẩn trọng điều hành chính sách vĩ mô khi sử dụng các công cụ như:
tăng dự trữ bắt buộc, trích lập dự phòng rủi ro, các chuẩn mực kế toán, siết chặt cho vay, hỗ
trợ tổ chức tài chính mất thanh khoản…
Đặc biệt, các định chế tài chính ban hành các tiêu chuẩn quản trị rủi ro, an toàn vốn Basel III nhằm tăng cường giám sát, quản lý rủi ro mang tính hệ thống hiệu quả hơn.
Việt Nam không nằm trong danh sách các quốc gia thành viên của Ủy ban Basel về
giám sát ngân hàng, tức không chịu áp lực phải vận dụng các quy định an toàn của các hiệp
ước này, song việc vận dụng các hiệp ước Basel trong hoạt động quản trị ngân hàng là vấn
đề hết sức ý nghĩa và cần thiết đối với hệ thống ngân hàng nước ta.
Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các

nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động
cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
 Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): Hội đồng quản trị phải thực hiện
phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến
lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…).
Ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện các định hướng mà Hội đồng quản trị phê
duyệt và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát

8


nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các
ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm của mình.
 Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): Các ngân hàng phải hoạt động trong
phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Ngân hàng cần xây
dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn
để tạo ra các loại hình rủi ro khác nhau nhưng vẫn có thể theo dõi được trên sổ sách kế toán
kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng. Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng trong việc phê
duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái tài trợ cho các khoản
tín dụng hiện tại. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa
các bên.
 Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên tắc): Các
ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư có rủi ro
tín dụng, cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm mức độ đầy
đủ của dự phòng và dự trữ. Khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần có hệ thống thông tin và
các kỹ thuật phân tích để đo lường được rủi ro tín dụng trong mọi hoạt động nội và ngoại
bảng; phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng;
cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng
có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các

khoản tín dụng có vấn đề.
1. HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Mua, bán nợ và các ngân hàng
Theo quy định của Basel II và III, nợ xấu của ngân hàng không được vượt quá 2% trên
tổng dư nợ.
Nhiều ngân hàng đã vận dụng mua bán nợ như một trong những hoạt động kinh doanh
chính của mình. Với dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng lớn trên thế giới nhận thấy có thể
mở rộng mối liên hệ với khách hàng của họ trong một số ngành công nghiệp. Hơn nữa, họ
có thể tiến hành dịch vụ cho các ngân hàng đại lý có các khách hàng cần đến các dịch vụ
mua bán nợ.
Hiện nay, có không ít các ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay chi
phí sản xuất hàng hoá hoặc thu mua hàng và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho vay như

9


thế đưa đến việc doanh nghiệp sẽ ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Do
vậy, việc cho vay chi phí sản xuất và cho vay luân chuyển hàng hoá sẽ khiến ngân hàng
thương mại chịu rủi ro cùng doanh nghiệp: một khi hàng hoá không tiêu thụ được, khoản nợ
sẽ rất khó thu hồi.
Trong khi đó, sử dụng dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng thương mại cung ứng vốn
cho doanh nghiệp tiếp tục chu kỳ sản xuất sau, nhưng ngân hàng thương mại ấy thu nợ bằng
tiền hàng hoá bán chịu của chu kỳ sản xuất trước nên mức độ rủi ro ít hơn. Nhờ vậy, dịch vụ
mua bán nợ còn giúp doanh nghiệp không lâm vào cảnh nợ nần dây dưa, khó đòi.
Bên cạnh việc các ngân hàng mở dịch vụ chiết khấu thương phiếu đối với hàng hoá
tiêu thụ thì dịch vụ mua bán nợ khiến việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương
mại cho các công ty trên thị trường được đơn giản hơn và an toàn hơn. Đồng thời, việc này
còn khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hoặc thu mua hàng hoá bằng vốn tự có của mình.
Vốn tín dụng của chi nhánh ngân hàng thương mại chỉ là vốn bổ sung khi doanh nghiệp bán
hàng trả chậm.

1.2 Mua, bán nợ và xuất khẩu
Có một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày càng
trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải tìm mọi cách để nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa các nhà xuất
khẩu là điều kiện thanh toán. Nếu như một doanh nghiệp có thể xuất khẩu với phương thức
thanh toán ghi sổ nợ (open account), thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ ký thêm được nhiều
hợp đồng. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu với hình thức này thì rủi ro thanh toán sẽ tăng lên. Vì
vậy, doanh nghiệp chỉ dám chấp nhận phương thức này với những khách hàng uy tín, lâu
năm của mình mà thôi. Ngay cả khi được đảm bảo về rủi ro thanh toán, doanh nghiệp vẫn bị
khách hàng chiếm dụng vốn trong suốt thời gian chờ đợi. Thiếu luồng tiền mặt mà lại không
thể dễ dàng tiếp cận với vốn từ các nguồn truyền thống (như tín dụng ngân hàng), doanh
nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn để duy trì sản xuất. Trong tình thế đó, mua bán nợ đã xuất
hiện như một vị cứu tinh. Mua bán nợ được đánh giá là một dịch vụ tài chính mới, chỉ với
thủ tục rất đơn giản, có thể giúp doanh nghiệp vừa xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện
thanh toán ghi sổ, lại vừa thu được tiền mặt ngay sau khi xuất hàng đi.

10


Với giới kinh doanh xuất nhập khẩu thì mua bán nợ được hiểu là dịch vụ mua bán các
khoản phải thu của khách hàng (purchase/sale of account receivables). Định nghĩa này xuất
phát từ thuật ngữ kế toán: khi xuất hàng bán cho khách hàng nhưng bên bán chưa nhận được
tiền hàng thì khoản tiền này được ghi vào tài khoản phải thu của khách hàng. Mua bán nợ là
dịch vụ mua các khoản tiền nằm trong tài khoản nói trên. Cơ chế của mua bán nợ trong xuất
nhập khẩu rất dễ hiểu. Nhà xuất khẩu ký hợp đồng dịch vụ với công ty mua bán nợ. Khi
hàng được giao đi cho khách hàng, nhà xuất khẩu gửi hoá đơn tới công ty mua bán nợ.
Công ty mua bán nợ sẽ ứng trước cho nhà xuất khẩu khoảng 80% giá trị của hoá đơn. Công
ty mua bán nợ sẽ thu tiền hàng từ nhà nhập khẩu. Sau khi thu được 100% tiền hàng, công ty
mua bán nợ sẽ thanh toán nốt 20% còn lại cho nhà xuất khẩu.
Với ý nghĩa là mua bán nợ nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại mua

bán nợ: mua bán nợ truy đòi và mua bán nợ miễn truy đòi. Đối với mua bán nợ truy đòi,
công ty mua bán nợ có quyền đòi lại khoản tiền đã ứng trước cho nhà xuất khẩu nếu nhà
nhập khẩu không thanh toán. Với mua bán nợ miễn truy đòi, nếu nhà nhập khẩu mất khả
năng chi trả, công ty mua bán nợ có trách nhiệm thanh toán 100% giá trị hoá đơn cho nhà
xuất khẩu.
Dịch vụ mua bán nợ trong xuất nhập khẩu đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên
thế giới. Các nước trong khu vực cũng đã phát triển mua bán nợ như Trung quốc, Indonesia,
Ấn độ, Nhật bản, Malaysia, Hàn quốc, Singapore, Sri Lanka, Đài loan và Thái lan. Thật
không công bằng cho các nhà xuất khẩu Việt nam khi các đối thủ cạnh tranh của họ ở các
nước khác đang được hưỏng lợi thế từ dịch vụ này. Chỉ những năm gần đây, dịch vụ mua
bán nợ mới bắt đầu được đưa vào phục vụ các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam.
“Thương trường như chiến trường”, để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt hiện nay, các doanh nghiệp ngoài nỗ lực tự thân còn rất cần đến sự trợ giúp nhiều
mặt của các ngân hàng cũng như các công ty đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ. Điều đó đòi hỏi các công ty tài chính phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm,
dịch vụ và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh toán thương
mại. Nếu không, các doanh nghiệp khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn sản xuất, kinh doanh
do vốn bị chiếm dụng, các nhà xuất khẩu khó tránh khỏi rủi ro trong thanh toán, kéo theo
gây tâm lý lo lắng, bất ổn cho doanh nghiệp nói riêng, cũng như kìm hãm tốc độ phát triển

11


của nền kinh tế quốc dân nói chung. Để đạt mục tiêu đó, các công ty tài chính không có con
đường nào khác là phải nhanh chóng áp dụng nhiều nghiệp vụ tài chính mới mà các công ty,
tập đoàn trên thế giới đã áp dụng thành công. Và nghiệp vụ mua bánnợ là một trong số đó.
2. THỰC TRẠNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Sự cấp thiết về việc phát triển thị trường mua bán nợ
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong
việc phát triển kinh tế như cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng, lưu chuyển vốn từ nơi

thừa đến nơi thiếu… Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng vẫn chứa đựng tiềm ẩn nhiều rủi ro,
gây ra nhiều nguy cơ đỗ vỡ hoàng loạt cho hệ thống, và minh chứng tiêu biểu là của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007- 2008. Một trong những nguyên nhân quan trọng
của sự suy yếu của ngân hàng chính là tình trạng nợ xấu tồn đọng quá cao trong một thời
gian dài, nhưng không được xử lý dẫn đến tình hình tài chính của ngân hàng rơi vào khó
khăn, tình trạng thiếu thanh khoản trầm trọng và thậm chí chờ phá sản. Vì vậy, vấn đề xử lý
nợ được nhiều quốc gia quan tâm đặc biệt là ở một số nước có tỷ lệ nợ quá cao và vượt mức
giới hạn an toàn. Có nhiều giải pháp để xử lý nợ xấu như xử lý tài sản đảm bảo, bán nợ, cơ
cấu lại nợ, chứng khoán hóa nợ.... Trong đó, việc hình thành các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản như DATC, AMC, VAMC được xem là một công cụ hiệu quả, góp phần khai
thông dòng chảy vốn.
Hiện nay, ở nước ta việc cơ cấu lại ngân hàng đã và đang triển khai nhằm củng cố và
tăng cường sức mạnh tài chính cho hệ thống ngân hàng, công tác xử lý nợ của các NHTM
đang được triển khai. Sự hình thành và phát triển của các công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản cần phải chú trọng và phát huy và xây dựng mô hình phù hợp với tình hình thực tế nước
ta hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng và rất cần thiết để hình thành một thị trường mua bán
nợ hoạt động nhằm giúp các DN đang gặp khó khăn tài chính cũng như tiếp cận các nguồn
tài chính mới, khơi thông dòng chảy tạo đà phát triển kinh tế.

2.2 Thực trạng mua bán nợ tại các NHTM Việt Nam hiện nay
2.2.1 Thực trạng tình hình nợ xấu của Việt Nam giai đoạn 2011-2015.

12


Theo con số thống kê được công bố cho thấy: Xét trên toàn ngành NH, tỷ lệ nợ xấu giữa
các năm có sự biến động trên mức 3%. Đặc biệt vào năm 2012, tỷ lệ này lên đến con số
4.09%. Năm 2013, đánh dấu sự ra đời của VAMC, đã làm cho tỉ lệ nợ xấu có xu hướng
giảm, tuy nhiên ta vẫn thấy sự giảm vẫn là nhất thời và chưa có dấu hiệu giảm thực thụ.
Tuy nhiên, sự chính xác của các con số này trên thực tế còn là một vấn đề rất nan giải

bởi các thủ thuật che, ủ nợ xấu hay các kĩ thuật làm đẹp báo cáo tài chính.

Nguồn: Tổng hợp số liệu của NHNN qua các năm
Hơn nữa, các con số nợ xấu được thống kê thông qua tỷ trọng của các khối ngân hàng
trong nền kinh tế như sau:

2.2.1.1 Giai đoạn 2011- 2013.

13


Năm 2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động công bố tỷ lệ nợ xấu
trong các ngân hàng. Theo đó, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,4 - 3,8% tổng dư
nợ. Con số này tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,09 %, cho dù theo các tổ
chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều.
Bước sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67% vào tháng
4/2013. Tuy nhiên, con số mà NHNN vừa cập nhật tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
tính đến tháng 6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm đáng kể so với mức 4,65% tính đến cuối
tháng 5/2013.
Tại thời điểm đó, có 15 ngân hàng công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm. Trong số
các ngân hàng đã niêm yết thì tỷ lệ nợ xấu của SHB đang dẫn đầu với 9%, tiếp đến là
Navibank với 6,1% và TechcomBank (5,28%). Các ngân hàng còn lại đều có nợ xấu dưới
3% như ACB 2,99%; Sacombank 2,55%; Vietinbank 2,1%; Vietcombank 2,81%; Eximbank
1,49% và MB 2,44%.
Theo báo cáo của các NH, nợ xấu có vẻ đã giảm khi hầu hết NH đều có tỷ lệ nợ xấu
dưới mức 3%- mức được xem là an toàn, nằm trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tính
toán, các ngân hàng này chiếm khoảng 75% tổng dư nợ của toàn hệ thống. Trong khi đó, kết
quả khảo sát mới đây của Vụ Dự báo thống kê tiền tệ, NHNN cho thấy, trong số 124 TCTD
tham gia khảo sát, có khoảng 30 TCTD khai báo tỷ lệ nợ xấu ở mức trên 3%, chiếm khoảng
1/4 số lượng TCTD hiện nay. Báo cáo cũng cho thấy, có tới trên 50% TCTD dự kiến tỷ lệ

nợ xấu tại thời điểm cuối năm 2013 sẽ không đổi hoặc tăng so với cuối năm 2012.
2.2.1.2 Giai đoạn 2014-2015
Giai đoạn 2014- 2015 với tiến trình tái cấu trúc ngành ngân hàng Việt Nam đã có những
cải thiện đáng ghi nhận. Trong đó, với xử lý nợ xấu, chỉ sau hơn 1 năm kể từ khi VAMC ra
đời, công ty này đã mua được khối lượng nợ xấu lên tới trên 100.000 tỷ đồng từ các ngân
hàng thương mại Việt Nam trong năm qua và dự kiến mua thêm trên 80.000 tỷ đồng nợ xấu
trong năm nay.

14


Riêng năm 2014, VAMC đã mua khoảng 90.000 - 95.000 tỷ đồng nợ xấu với giá mua là
trên 70.000 tỷ đồng. Mặt khác, VAMC đẩy mạnh mua nợ xấu của ngân hàng, nhưng đó là
nợ xấu trong quá khứ, tức nợ xấu đã phát sinh.
Sau M&A của một loạt các phi vụ như: Ngân hàng nhà nước mua lại các ngân hàng xây
dựng VNCB, ngân hàng dầu khí GP Bank, và ngân hàng đại dương Ocenbank với mức giá 0
đồng cùng và quá trình tái cơ cấu, nợ xấu của các ngân hàng thương mại được đưa về dưới
ngưỡng an toàn 3%. Hơn nữa, sau sự chỉ đạo NHNN Việt Nam đã ban hành Thông tư
36/2014/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 1/2/2015, buộc các nhà băng thắt chặt lại nguồn tiền
tín dụng vào chứng khoán.
Cho tới thời điểm này, tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức cao hơn so với mục tiêu 3% của Đề án Tái
cơ cấu. Các TCTD yếu kém tuy đã được khu biệt và xử lý, nhưng tiến độ vẫn chậm. Báo
cáo đánh giá chính sách tiền tệ quý I/2015 và dự báo quý II/2015 của Trung tâm Nghiên cứu
BIDV cho biết, nợ xấu trong quý I tăng so với cuối năm 2014. Nếu như tháng 12/2014, tỷ lệ
nợ xấu toàn ngành là 3,25% thì sang tháng 1/2015 tăng lên 3,46% và lên 3,59% trong tháng
2/2015. Tuy nhiên, Báo cáo cũng cho rằng, đây là vấn đề mang tính quy luật (nợ xấu đầu
năm nay thường tăng so với cuối năm trước do các TCTD tích cực xử lý nợ xấu trong
những tháng cuối năm) và vẫn thấp hơn so với cùng kỳ (tháng 1/2014: 3,74%; tháng
2/2014: 3,86%).
2.2.1.3 Giai đoạn 2015 – Quý 1, 2017

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã được kiểm soát ở mức
dưới 3% nhưng nợ xấu có xu hướng tăng trở lại về quy mô. Tính đến 31/12/2016, tỷ lệ nợ
xấu nội bảng, nợ xấu do VAMC quản lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu có khả năng lên đến
8,86% tổng dư nợ do khâu xử lý tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn,
vướng mắc chưa được giải quyết.
Kết thúc 3 tháng đầu năm có hơn 160.000 tỷ đồng nợ xấu nội bảng của các TCTD trong
hệ thống, con số này tương đương 2,56% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế.

15


Nguồn: Tổng hợp số liệu của NHNN qua các năm
Thống kê từ khoảng 10 ngân hàng tính đến 31/3/2017 cho thấy, tỷ lệ nợ xấu đã tăng
lên 1,9% so với con số 1,87% cuối năm 2016.
Tổng số nợ xấu tăng thêm 6%, lên 50.695 tỷ đồng. Trong đó, nợ xấu tăng chủ yếu ở nhóm 1
và 2 với lần lượt là 13% và 18%, lên 15.749 tỷ đồng và 7.940 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất
vốn tuy giảm nhẹ 0,1% nhưng vẫn chiếm áp đảo với 27.005 tỷ đồng.

Tổng nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả
năng mất vốn) của 10 ngân hàng tính đến 31/3/2017.

16


Cơ cấu nợ xấu của 10 ngân hàng tính đến 31/03/2017
Thống kê cũng cho thấy có khoảng 4/6 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm trong quý
I/2017 là Sacombank, VIB, Vietcombank và Kienlongbank. Tuy giảm nhưng tỷ lệ nợ xấu
của Sacombank vẫn trên ngưỡng cho phép khi ở mức 4,89% và cao nhất trong danh sách
thống kê.
Tổng nợ xấu của ngân hàng này tính đến hết tháng 3/2017 cao kỷ lục với hơn 10.083 tỷ

đồng, đó là chưa kể đến 37.760 tỷ đồng nợ xấu bán cho VAMC. Như vậy tổng nợ xấu của
Sacombank gồm nợ bán cho VAMC ước tính khoảng 47.843 tỷ đồng. Điểm tích cực là nợ
có khả năng mất vốn của Sacombank giảm khoảng 7%, còn 6.600 tỷ đồng.

17


Tỷ lệ nợ xấu của 10 ngân hàng tính đến 31/03/2017
Kế đến là Eximbank, trong kỳ tỷ lệ nợ xấu tăng và chạm ngưỡng 3%, tương đương con số
tuyệt đối là 2.589 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất vốn chiếm 1.262 tỷ đồng, tăng đến 11%.
BIDV là “ông lớn” duy nhất nằm trong top 3 có tỷ lệ nợ xấu cao với 2,14%, tăng đáng kể so
với con số 1,99% vào cuối 2016. Tổng nợ xấu của ngân hàng này trong 3 tháng đầu năm
2017 đã tăng thêm 13%, lên mức 16.250 tỷ đồng. Đây có thể được xem là ngân hàng thương
mại cổ phần có tổng nợ xấu cao nhất.

Nợ có khả năng mất vốn của 10 ngân hàng tính đến 31/03/2017
Tỷ lệ nợ xấu đứng thứ 4 trong danh sách là VIB với 1,96%, con số này giảm đáng kể so với
mức 2,58% vào 2016. Tổng nợ xấu của VIB đã giảm nhiều nhất với gần 20% trong 3 tháng
đầu năm 2017, còn 1.247 tỷ đồng; trong đó nợ có khả năng mất vốn giảm gần 13%, còn
khoảng 1.167 tỷ đồng.
Ngược lại, trong kỳ Techcombank có tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1.58% lên 1.89%. Tổng nợ xấu
tăng gần 16%, lên hơn 2.600 tỷ đồng. Nợ có khả năng mất vốn chiếm đến 1.506 tỷ đồng,
tăng 10% so với thời điểm cuối năm 2016.
Một ngân hàng đáng chú ý khác là MBB, tỷ lệ nợ xấu tính đến 31/3/2017 là 1,35%, tăng so
với cuối 2016. Cơ cấu nợ xấu cho thấy nợ có khả năng mất vốn tăng vọt gần 40%, lên 854

18


tỷ đồng. Nợ nhóm 2 cũng tăng lên gấp rưỡi với 730 tỷ đồng; ngược lại thì nợ nhóm 1 giảm

hơn một nửa, còn 435 tỷ đồng.
Tương tự như BIDV, trong quý I, nợ xấu của VietinBank có mức tăng cao nhất với 17%, lên
7.917 tỷ đồng. Điều này chủ yếu từ việc gia tăng nợ nhóm 1 hơn 70%, lên 3.606 tỷ đồng.
Trong khi đó, nợ có khả năng mất vốn giảm 9%, còn 3.487 tỷ đồng.
Báo cáo tài chính không cho thấy nợ xấu VietinBank “gửi” VAMC là bao nhiêu, tuy nhiên
ngân hàng này đang có kế hoạch mua lại nợ từ VAMC trong năm nay. Tính đến cuối tháng
3, tỷ lệ nợ xấu của VietinBank đã tăng từ 1,02% (cuối 2016) lên 1,13%.
Đối với Vietcombank, tỷ lệ nợ xấu tính đến hết quý I/2017 thấp nhất trong ba “ông lớn” với
1,48%, giảm so với con số 1,51% vào cuối 2016. Tổng nợ xấu là 7.377 tỷ đồng, tăng hơn
6%; trong đó nợ có khả năng mất vốn tăng 3% lên 4.369 tỷ đồng. Đáng chú ý là nợ nhóm 2
tăng hơn 40%, lên 1.885 tỷ đồng.
Kienlongbank và BacABank là hai ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu duy trì dưới 1%, lần lượt là
0,96% và 0,82%. Bên cạnh đó, tổng nợ xấu cũng như nợ có khả năng mất vốn trong kỳ thay
đổi không đáng kể. Kienlongbank có khoảng 145 tỷ đồng đồng nợ có khả năng mất vốn,
BacABank là 384 tỷ đồng.
2.2.2 Hoạt động của các công ty mua bán nợ tại Việt Nam
Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu
quả và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu
hiện nay của các tổ chức tín dụng được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh doanh xấu
đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động, vì vậy nợ
xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng nhanh trong thời gian gần
đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không biến động nhiều từ đầu năm 2012 trở lại đây cho
thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là
trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.

19


Do đó, thị trường mua bán nợ tại Việt Nam đang dần hình thành và phát triển như một
tất yếu khách quan của phát triển kinh tế. Thực tế, hoạt động mua bán nợ tại Việt Nam đã

xuất hiện từ năm 2003 với sự ra đời và hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn
đọng của doanh nghiệp (DN) - Bộ Tài chính (DATC) theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg
ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Tháng 6/2013, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) được
thành lập và hoạt động theo Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết
định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Dưới đây là một số điểm khác biệt về mô hình, mục tiêu của hai công ty này:

Với hoạt động trọng tâm, xuyên suốt là mua, bán nợ và tài sản, hỗ trợ doanh nghiệp và
các tổ chức tín dụng trong xử lý nợ xấu, từ năm 2004, DATC đã tham gia hàng trăm phương
án xử lý nợ và tài sản theo nhiệm vụ chính phủ giao và theo cơ chế thị trường với giá trị sổ
sách của các khoản nợ và tài sản trên 85.000 tỷ đồng. Năm 2013, DATC đã ký được 11 hợp
đồng mua bán nợ, giá trị các khoản nợ là 1.210 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là 441,8 tỷ đồng (tỷ
lệ mua nợ bình quân là 36,5 %), đạt 83% so với kế hoạch năm 2013, tăng gấp 1,8 lần so với
thực hiện năm 2012. Doanh thu từ hoạt động mua bán nợ ước đạt 380 tỷ đồng, đạt 103% so
với kế hoạch năm 2013, tăng gấp 1,95 lần so với thực hiện năm 2012.

20


Doanh số mua nợ trong giai đoạn 2015 - 2016 tăng 285% so với doanh số thực hiện giai
đoạn 2010 - 2014, luỹ kế từ 2010 đến nay đã mua nợ của các DN với doanh số 6.707 tỷ
đồng. Bên cạnh việc đẩy mạnh mua nợ, DATC luôn tăng cường hoạt động thu nợ, xử lý nợ,
riêng năm 2016, hoạt động này mang lại doanh thu hơn 1.990 tỷ đồng cho DATC.
Đồng thời với kết quả hoạt động mua bán nợ như trên, Công ty đã triển khai một số
phương án mua bán nợ, tập trung đàm phán với các ngân hàng thương mại để mua nợ xấu,
xử lý tài chính, tái cơ cấu DN khách nợ, chủ yếu là các tập đoàn, tổng Công ty nhà nước,
trước mắt, tập trung đàm phán mua nợ của các DN thuộc Tổng Công ty Tầu thủy Việt Nam
– SBIC (các DN thuộc Vinashin trước đây) và các DN thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt
Nam (Vinalines).

Từ 1/1/2017 đến hết 15/8/2017, VAMC đã mua nợ của 11 TCTD với tổng dư nợ gốc nội
bảng là 15.751 tỷ đồng, giá mua nợ là 15.477 tỷ đồng, đạt 77,4% kế hoạch năm 2017. Như
vậy, tính từ 2013 đến thời điểm 15/8/2017, VAMC đã mua được 26.049 khoản nợ của
16.154 khách hàng tại 42 TCTD, với tổng dư nợ gốc nội bảng 291.306 tỷ đồng, giá mua nợ
là 261.401 tỷ đồng.
Ngoài ra, VAMC đã mua một khoản nợ theo giá thị trường với giá 9,8 tỷ đồng.
2.3

Nguyên nhân phát sinh nợ xấu

Phân tích nguyên nhân nợ xấu là một trong những điểm quan trọng cần phải làm để từ đó
đưa ra được chiến lược cũng như phương pháp quản lý và xử lý phù hợp, khả thi và có hiệu
quả.
2.3.1 Nguyên nhân khách quan phát sinh nợ xấu
2.3.1.1 Môi trường thiên nhiên
Thiên tai, bão lụt, hoả hoạn, mất mùa, dịch bệnh… Đây là những nguyên nhân khách
quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên đã gây ra sự hoạt động thất bại của khách
hàng vay, nhất là các khoản cho vay nông nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh.

21


Nguyên nhân này nằm ngoài tầm kiểm soát và mong muốn của cả NHTM và các khách
hàng vay. Đây là nguyên nhân gây ra rủi ro không thể tránh được, những mất mát do
nguyên nhân này gây ra cần được sự sẻ chia của nhà nước và của cả xã hội.
2.3.1.2 Môi trường kinh tế
Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị trường chưa thực
sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao sẽ dẫn đến việc các cá nhân và tổ
chức cũng như các doanh nghiệp không có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Mặt khác, với sự
thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế vĩ mô như sự thay đổi về cơ chế lãi suất, tỷ

giá… chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng… thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng,
thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế sử dụng đất đai… cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó
nó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại NHTM. Chúng ta có thể
lấy ví dụ như sự thay đổi trong lãi suất: với mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng nhanh sẽ
làm gia tăng các khoản nợ xấu. Trong lịch sử, hậu quả của lãi suất tăng không có điểm dừng
đã được chứng minh khá nhiều. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 với sự tăng mạnh
của lãi suất thị trường các nước trong khu vực. Ở thời điểm đó, lãi suất ở Indonesia tăng
mạnh, và khi vượt trên 30% thì các ngân hàng bắt đầu phá sản.
Điều này có thể được giải thích dễ dàng: những doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận
mức lãi suất quá cao, họ có khả năng tìm đến những nguồn vốn khác thông qua thị trường
chứng khoán. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám chấp thuận mức lãi suất cao.
Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng, năng lực tài chính hạn chế,
độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ
xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này.
2.3.1.3 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là nguyên nhân quan trọng
góp phần gây ra nợ xấu. Sự bất cập và chồng chéo của các luật sẽ khiến cơ quan hữu quan
lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài sản đảm bảo, các quy định về kế toán kiểm toán

22


chưa đủ sức mạnh thực hiện sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho
vay.

2.3.1.4 Tín dụng chỉ định của chính phủ
Theo lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa
hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các NHTM quốc doanh bị ràng buộc tài
chính “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đánh giá sát sao năng lực

tài chính của người vay. Ngoài ra, tại những nước này, chính quyền trung ương có xu hướng
gây áp lực hay khuyến khích các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn cho phép để
đạt được những mục tiêu nhất định đã đề ra. Sự can thiệp của chính phủ vào việc cho vay
của ngân hàng có thể diễn ra trước hoặc sau khi giao dịch đã hoàn tất. Đến tận những năm
gần đây, tại một số nền kinh tế, các ngân hàng quốc doanh vẫn có nghĩa vụ thực hiện các
khoản cho vay chính sách, theo các chương trình phát triển của chính phủ hoặc vì lý do
chính trị.
2.3.1.5 Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không cao ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp vay
vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả từ đó ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ ngân hàng.
2.3.1.6 Đạo đức khách hàng
Một số doanh nghiệp cố ý thông báo số liệu tài chính của doanh nghiệp không chính
xác, gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín dụng đã dẫn đến khó khăn trong việc thụ
hồi nợ NH. (rủi ro do sựa lựa chọn đối nghịch). Hoặc bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức
trong vấn đề sử dụng vốn vay và trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến món nợ đối với
ngân hàng mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có. Môt số doanh nghiệp thì lại có

23


tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính toán, chụp giựt, lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng
vốn sai mục đích kiếm lời, vay không có ý định trả nợ (rủi ro đạo đức)

2.3.2 Nguyên nhân chủ quan phát sinh nợ xấu
Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng. Đó có thể là
do một chính hiệu quả sách tín dụng kém, sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra, giám sát hay
các vấn đề liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng.
2.3.1 Chính sách tín dụng

Một chính sách tín dụng dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất sẽ dẫn
tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho ngân hàng.
Mặt khác để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần, nhiều NHTM đã bỏ qua một
số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được đơn giản hóa, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn
đánh giá khách hàng. Bài học vẫn còn đó, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 xuất phát từ
thị trường tài chính Hoa Kỳ có nguồn gốc sâu sa chính là những món cho vay dưới chuẩn.
Đây là những khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản vho vay này
không được xem xét kỹ lưỡng về khả năng thanh toán của khách hàng như: thu nhập hàng
năm, tiểu sử nghề nghiệp, tài sản… và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy
tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay.
2.3.2 Công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát
Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, kiểm soát là phát hiện sớm những sai phạm trong
hoạt động cho vay đề ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, công tác tổ chức, kiểm tra, kiểm soát của
các NHTM nếu quá yếu kém và lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc phát hiện và xử lý không kịp thời
những trường hợp vi phạm, lợi dụng trong hoạt động cho vay, và nợ xấu phát sinh là điều tất
yếu

24


2.3.3 Chất lượng cán bộ ngân hàng
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp giao dịch với khách hàng, nắm bắt đặc điểm cũng
như chất lượng khách hàng, khoản vay. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức,
kinh nghiệm làm việc cũng như khả năng phân tích, dự báo ... Một bộ phân cán bộ tín dụng
trình độ yếu kém không đánh giá được hết các khả năng rủi ro liên quan đến khoản vay sẽ
dần đến quyết định cho vay sai lầm và nguy cơ phát sinh nợ xấu rất cao.
Một số cán bộ của hệ thống NHTM sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, thiếu vững
vàng do đó đã lợi dụng công việc được giao để móc ngoặc với con nợ, lợi dụng kẽ hở của
luật pháp để làm giàu bất hợp pháp, gây thiệt hại về tài sản và tiền vốn.
Ngoài ra, năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng không tốt như: Buông

lỏng quản lý, khoán trắng mọi việc cho cán bộ tín dụng, hay việc quản lý con người chưa
đúng mức cũng như các hoạt động khác trong quản lý ngân hàng dẫn đến những sai lầm
trong các quyết định cho vay, đưa đến chất lượng tín dụng kém kéo dài. Ngoài ra, vấn đề rủi
ro đạo đức cũng xảy ra khi lãnh đạo ngân hàng có quan hệ lợi ích với khách hàng.
2.4 Giải pháp hiêụ quả xử lý nợ xấu
Tất cả các thống kê về tình trạng nợ xấu ở các ngân hàng thương mại Việt Nam trong
thời gian vừa qua đã minh chứng một bức tranh đầy đủ, toàn diện về hiện trạng nợ xấu ở hệ
thống ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế, khó có thể xác định được nợ xấu là
bao nhiêu, như thế nào và có thể thanh toán được hay không? Theo đó, chúng ta cần tiến
hành xác định nguyên nhân và đưa ra những giải pháp cần thiết để tiến hành giải quyết nợ
xấu đang diễn ra ở nhiều ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay. Dưới góc độ nghiên
cứu và trên cở sở xem xét, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, có thể xét thấy nên áp dụng một số
giải pháp để xử lý nợ xấu đang diễn ra khá phức tạp trong hệ thống ngân hàng thương mại
tại Việt Nam thời gian vừa qua như sau
 Thứ nhất, xây dựng, duy trì, thiết lập hệ thống tài chính vững chắc

25


×