NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Nội dung trình bày
I.Khái quát:
1.Ngân hàng thương mại
2.Tín dụng
3.Nợ và phân loại nợ
a)Nợ
b)Phân loại nợ
c)Nợ xấu
II.Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt nam.
1.Nguyên nhân hình thành nợ xấu ở Việt Nam:
2.Thực trạng nợ xấu ở Việt Nam
a)Sơ lược nợ xấu qua các năm gần đây:
b)Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam
c)Một số địa phương có tỷ lệ nợ xấu cao nhất cả nước
3.Những ảnh hưởng của nợ xấu
a)Tích cực :
b)Tiêu cực:
III.Các biện pháp xử lý nợ xấu:
1.Kinh nghiệm xử lý nợ xấu các nước trên thế giới:
2.Giải pháp xử lý nợ xấu ở Việt Nam
3.Ý kiến của nhóm
I. Khái quát:
1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và
dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc
tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt
động của ngân hàng. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng
thương mại và ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian thực hiện đầy đủ nhất các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
2. Tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Người cho vay chỉ chuyển
quyền sử dụng vốn cho người đi vay, người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả vốn khi đáo hạn, khi
đó người cho vay nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức lợi tức tín dụng.
3. Nợ và phân loại nợ
a) Nợ
Nợ là một thuật ngữ thường được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản. Tuy nhiên, nợ
cũng có thể được sử dụng để chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ là
một cách sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức mua đó. Các công ty
cũng có thể sử dụng nợ như là một phần trong chiến lược tài chính tổng thể của mình.
Nợ được hình thành khi một người cho vay đồng ý cho người vay vay một lượng tài sản
nhất định, thường được đi kèm với sự đảm bảo khả năng thanh toán với một mức lãi suất
nhất định tính theo thời điểm.
b) Phân loại nợ
Căn cứ vào thực trạng tài chính của khách hàng và/hoặc thời hạn thanh toán nợ gốc và lãi
vay, tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm như sau:
Bảng 1: Phân loại nợ theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
Nhóm
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn)
- Các khoản nợ trong hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý)
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 30 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn)
- Các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá
hạn dưới 30 ngày theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu
lại lần đầu;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách
hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng
tín dụng.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn)
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180
ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá
hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn)
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá
hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai
quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ
hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở
lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
c) Nợ xấu
Dựa vào bảng phân loại nợ xấu được xếp vào loại nợ nhóm 4 và nhóm 5:
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả
năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã
tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi
và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch
toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
II. Thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt nam.
1. Nguyên nhân hình thành nợ xấu ở Việt Nam:
Có 5 nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất, do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh doanh và tài chính
của các doanh nghiệp suy giảm dẫn đến khách hàng không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết. Có nhiều yếu tố phát sinh nguyên nhân này mà chủ yếu là các yếu tố
khách quan như:
Tác động của khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm kinh tế toàn cầu đã ảnh
hưởng trực tiếp lên hoạt động kinh doanh của khách hàng;
Công nợ của doanh nghiệp đi vay không thể thu hồi được;
Hàng tồn kho của doanh nghiệp đi vay quá lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh
vực sản xuất và có liên quan đến BĐS như sắt, thép, xi măng, BĐS ;
Thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước.
Thứ hai, do năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém.
Thông tin bất cân xứng giữa Ngân hàng và khách hàng.
Quá trình duyệt hồ sơ vay vẫn còn mang nặng tình hình thức và áp lực với chỉ tiêu đầu
ra.
Công tác thẩm định giá TSBĐ chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức.
Bất cập trong việc định giá lại TSBĐ theo định kỳ khi khoản vay đã được giải ngân.
Bất cập trong việc phân hạn mức cho vay đối với ĐVKD.
Năng lực thanh tra, giám sát, năng lực điều hành và quản trị rủi ro chưa tốt.
Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách hàng kém dẫn đến
tình trạng thông đồng rút ruột ngân hàng.
Thứ tư, do tình trạng sở hữu chéo
Việt Nam cho thấy hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và
cho vay theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn
cho những dự án đầu tư chưa minh bạch.
Các Ngân hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các Ngân hàng thương mại
là các công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng.
Việc sở hữu chéo sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để cho các
doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia,
hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại ngân hàng
vay vốn. Việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu
cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu.
Thứ năm, quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có nhưng chưa
minh bạch, chưa hợp lý.
Quy định phân loại nợ xấu chưa rõ ràng, khiến cho việc giải quyết nợ xấu khó khăn.
Quy định về xử lý nợ thông qua khởi kiện ra tòa án đối với các khoản nợ không có tài
sản đảm bảo nợ phức tạp, gây khó khăn, mất nhiều thời gian của các TCTD trong quá
trình thu hồi nợ.
Khung pháp lý về việc mua bán nợ đã có những chưa hoàn thiện, chưa phát huy hiệu
quả trong hoạt động giải quyết nợ xấu.
2. Thực trạng nợ xấu ở Việt Nam
a. Sơ lược nợ xấu qua các năm gần đây:
Trong giai đoạn từ năm 2008 – 2012, tỷ lệ nợ xấu trên toàn hệ thống tài chính Việt
Nam tăng đáng kể từ 2.17% lên 6 %, đặc biệt trong hai năm 2011 và 2012, tỷ lệ nợ xấu tăng
vọt (hình 1). Năm 2012 tỷ lệ nợ xấu tăng gần gấp đôi so với năm 2011, điều này cho thấy vấn
đề nợ xấu ở Việt Nam đang tăng nhanh đến mức báo động.
Hình 1: Tỷ lệ nợ xấu từ năm 2008- 2012.
Hình 2: Tốc độ tăng nợ xấu qua các năm ( từ năm 2008- 2012).
Về mức tăng trưởng nợ xấu theo năm, tốc độ cao đã thể hiện từ năm 2008 với mức
74.37%, nhưng đến năm 2009 đã giảm mạnh xuống mức 27.33%; năm 2010 tăng trở lại lên
41.92%, tiếp tục tăng trong năm 2011 lên 60.55%, tốc độ tăng nợ xấu đạt mức cao trở lại
trong năm 2012, chỉ tính đến 9 tháng đầu năm 2012 đã tăng tới 66% ( hình 2 ).
Hình 3: Cơ cấu nợ xấu của các nhóm tổ chức tín dụng năm 2012.
Trong cơ cấu nợ xấu của các nhóm tổ chức tín dụng năm 2012, nợ xấu của nhóm ngân
hàng chiếm đa số với 81% trên tổng số, trong đó ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 35%
và nhóm ngân hàng thương mại nhà nước cao hơn với 46%. Theo đánh giá của các chuyên
gia, nợ xấu của hệ thống Ngân hàng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín dụng quá
nóng trong những năm qua, cộng với cơn sốt cho vay bất động sản, chứng khoán ồ ạt trong
thời kì 2006-2007
b. Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hình 5: Tỷ lệ nợ xấu của một số tổ chức tín dụng.
Hình 6: Giá tị nợ xấu của một số tổ chức tín dụng.
Hình 7: Giá tị trích lập quỹ dự phòng rủi ro của một số tổ chức tín dụng.
- Tính đến 30/11/2012, tổng tài sản của ngân hàng thương mại nhà nước đạt hơn 2,108
triệu tỷ đồng
Hình 8 : Biểu đồ tổng dư nợ tín dụng và nợ xấu của 4 ngân hàng Agribank, BIDV,
Vietcombank và Vietinbank tính đến hết năm 2012.
Được biết, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 30/11/2012, tổng tài sản
của ngân hàng thương mại nhà nước (bao gồm Vietinbank và Vietcombank) đạt hơn 2,108
triệu tỷ đồng, vốn tự có đạt 134.339 tỷ đồng, vốn điều lệ đạt 111.550 tỷ đồng.
c. Một số địa phương có tỷ lệ nợ xấu cao nhất cả nước :
Số liệu thống kê từ khoảng 10 chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa phương cho thấy,
Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng có tỷ trọng nợ xấu đứng đầu.
Đó cũng là nơi có tỷ trọng vốn cho 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp và nông thôn, sản xuất -
kinh doanh và xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng
dụng công nghệ cao) thấp hơn so với các địa phương khác.
3. Những ảnh hưởng của nợ xấu
Rõ ràng nợ xấu là một khái niệm ảnh hưởng không tốt tới hệ thống tài chính, các nền kinh
tế luôn tìm cách giảm thiểu nợ xấu. Tuy nhiên, rủi ro thường đi kèm với lợi nhuận nên nợ xấu
có cả mặt tích cực và tiêu cục.
a. Tích cực :
Nợ xấu mang đến nhiều rủi ro cho cho hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói
chung nhưng nợ xấu cũng có mặt tích cực vì rủi ro lớn thường đi kèm với lợi nhuận lớn.
Những khoản nợ xấu là một phần trong việc kinh doanh của ngân hàng, không có gì bất
bình thường. Tuy nhiên, muốn quản lý được nợ xấu, hệ thống quản lý rủi ro phải luôn luôn
sẵn sàng.
Nếu biết và quản lý được rủi ro của khách hàng thì mặc dù nợ xấu có thể tác động không
tốt tới nền kinh tế nhưng xét ở một khía cạnh nào đó nợ xấu sẽ mang lại lợi nhuận lớn cho
những ai đánh giá rõ rủi ro còn khách hàng.
b. Tiêu cực:
Nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của cả chủ nợ và doanh nghiệp.
Chủ nợ mất nhiều thời gian, công sức thu hồi nợ. Trong khi đó, doanh nghiệp gần như mất
khả năng trả nợ, chủ nợ có nguy cơ mất trắng.
Một trong những nút thắt lớn hiện nay của nền kinh tế là vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân
hàng. Nhiều chuyên gia kinh tế gọi đó là “cục máu đông trong mạch máu” của nền kinh tế.
Giải quyết được vấn đề này mới có thể khai thông bế tắc cho nền kinh tế, giúp ổn định kinh tế
vĩ mô và thúc đẩy sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế.
Với những khoảng nợ xấu lớn thực sự đáng lo ngại và gây ảnh hưởng tới hoạt động của
các ngân hàng cũng như nền kinh tế. Việc một khoản tiền lớn không thể đưa vào lưu thông, bị
chôn ở các tài sản đảm bảo sẽ gây lãng phí lớn cho xã hội, nhất là trong bối cảnh kinh tế khó
khăn như hiện nay.
Nợ xấu chính là lý do khiến các ngân hàng thời gian qua không dám tiếp tục cho vay, dù
nguồn vốn không thiếu. Ngân hàng phải thận trọng hơn với các khoản vay để tránh các khoản
nợ xấu tiếp theo, dẫn tới hậu quả là các ngân hàng có tiền mà không cho vay được, còn nền
kinh tế thì vẫn tiếp tục khát vốn.
Khi nợ xấu đã đến ngưỡng báo động, nếu cứ để các ngân hàng thương mại và doanh
nghiệp tự xử lý, thì số lượng doanh nghiệp dừng hoạt động, phá sản sẽ tiếp tục gia tăng do
vẫn đang có nợ xấu tại ngân hàng, hàng hóa chậm tiêu thụ.
Như vậy, nền kinh tế sẽ mất đi một lượng vốn lớn, do vốn không được quay, dòng tiền
trong nền kinh tế không lưu thông được, hệ thống ngân hàng tiếp tục khó khăn về thanh
khoản. Điều này sẽ đe dọa đến sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính. Khi nợ xấu quá
ngưỡng cho phép (dưới 5% trên tổng dư nợ là bình thường), thì phải có biện pháp xử lý nợ
xấu từ nhiều phía.
III. Các biện pháp xử lý nợ xấu:
1. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu các nước trên thế giới:
Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
của các nước trên thế giới cho thấy các nước thường triển khai theo những hướng cơ bản
như sau:
•
Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn: Chính sách xử lý nợ
qua bơm vốn là phương pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ cho các ngân hàng và định chế tài
chính khác nhằm đối phó với khủng hoảng.
•
Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và bên
đi vay: tạo ra một cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) và bên đi
vay nhằm làm trung gian cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi vay
thương lượng phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản, gia hạn hợp
đồng, điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng.
•
Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company - AMC) để
thu mua nợ xấu: cách thức được áp dụng phổ biến tại các quốc gia trong quá trình tái cơ cấu
khu vực ngân hàng. Nhìn chung, việc thành lập các công ty quản lý tài sản trên thế giới được
tổ chức theo 2 hình thức: tập trung hoặc phân tán.
- Hình thức tập trung: Các khoản nợ xấu sẽ được tách khỏi bảng cân đối
của ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được chuyển sang một công ty quản lý tài
sản hoặc một cơ quan quản lý về thanh khoản ngân hàng để các đơn vị này phụ trách việc thu
hồi các khoản nợ xấu. Công ty quản lý tài sản được thành lập dưới hình thức này trong giai
đoạn đầu hoạt động chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
- Hình thức phân tán: Các khoản nợ xấu vẫn được giữ trên bảng cân đối
của ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được xử lý bởi những đơn vị được thành
lập trong chính ngân hàng. Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng các ngân hàng có
đủ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động yếu kém để có thể thúc đẩy quá trình tái cơ cấu
các doanh nghiệp đó; đồng thời, các ngân hàng cũng chính là chủ thể có nhiều động lực nhất
để cố gắng thu hồi đến mức tối đa các khoản nợ xấu.
- Các nước thành lập AMC theo hình thức tập trung gồm có: Hàn Quốc,
Séc, Mỹ…. Ðại diện các quốc gia áp dụng hình thức phân tán là Trung Quốc và Ba Lan.
Hungary và Thái Lan là 2 nước sử dụng kết hợp cả 2 hình thức. Công tác xử lý nợ xấu tại
Hungary đã áp dụng song song cả 2 loại hình AMC trên (một cơ quan thu hồi nợ xấu tập
trung xử lý các khoản nợ lớn và phức tạp; phần còn lại do các ngân hàng tự giải quyết
theo thỏa thuận của ngân hàng với Bộ Tài chính) trong khi Thái Lan sau khi thất bại với
phương pháp phân tán đã thực hiện phương pháp tập trung.
2. Giải pháp xử lý nợ xấu ở Việt Nam
+ Siết chặt thẩm định, lựa chọn khách hàng vay vốn: Một giải pháp để giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu
là siết chặt việc thẩm định, lựa chọn khách hàng vay vốn mới, tăng cường giải ngân tín dụng
vào các lĩnh vực như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu và sản xuất – kinh doanh
+ Đảo nợ, giãn/hoãn/giảm nợ: Các biện pháp truyền thống như cho vay đảo nợ,
giãn/hoãn/giảm nợ cũng mang lại tác dụng trong việc giúp ngân hàng nhanh chóng hạ tỷ lệ nợ
xấu xuống mức thấp hơn. Tôi cho rằng, với việc các ngân hàng liên tiếp đưa ra các cam kết về
gói lãi suất thấp trong thời gian gần đây, làn sóng đảo nợ sẽ diễn ra khá sôi động. Mặc dù
không phải là biện pháp hạ tỷ lệ nợ xấu bền vững, nhưng việc đảo nợ sẽ giúp doanh nghiệp có
nhiều thời gian hơn để chuẩn bị nguồn tài chính trả nợ đồng thời ngân hàng cũng có cơ hội
hạn chế đáng kể việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu.
3. Ý kiến của nhóm
Thứ 1: Là các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp
nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng
bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương
nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.
Thứ 2: Các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó
khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức
trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu.
Thứ 3, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp.
Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả
nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể
chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh
khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.
Phương pháp thứ hai là: chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển
vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận
thấy sau tá cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới . Đối với Việt Nam, từ
trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh
nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các ngân
hàng.
Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, trong vai trò
đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp
với doanh nghiệp để xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty
con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản
lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.
Thứ 4: ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng
lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.
Thứ 5: Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh,
quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những ngân hàng yếu kém là
những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao.
Thứ 6: Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những
ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng
nhà nước.
Thứ 7, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động
mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. Việc miễn
các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu
tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không
làm tốn kém ngân sách nhà nước.
Thứ 8, Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu
doanh nghiệp. Điều này giúp giảm lãi suất huy động, và giúp hệ thống ngân hàng thương mại
có điều kiện huy động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng
khoán hóa các khoản nợ.
Thứ 9: Phá băng thị trường bất động sản. Trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người
chưa có khả năng mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu
thực tế là rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25 m2
thành hiện thực.
Thứ 10: Nhà nước nên cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho năm 2013 theo hướng tăng chi ngân
sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Không nên đặt mục tiêu tăng thâm hụt ngân sách
mà phải là tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng trên cơ sở giảm chi ở các
ngành lĩnh vực chưa cấp thiết.
Thứ 11: Đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đọi ngũ thẩm định cho vay, đồng thời siết
chặt quản lý việc thẩm định, tăng cường các biện pháp xử lý trừng phạt, truy tố việc thẩm
định sai trái. Tránh tình trạng doanh nghiệp yếu kém “đi đêm” với các nhân viên thẩm định,
tiến hành kê giá, thẩm định sai năng lực doanh nghiệp
Thứ 12 : Tiến hành xem xét để bán ngay các khoản nợ xấu để thu hồi vốn.
Nguồn tham khảo
/>tpov.html
/>dong.htm
no-xau-nam-o-dau html
/>
/> />pers_id=42972372&item_id=91519128&p_details=1
/>nhanh.htm
/>
/>