Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

DÂN TỘC ÊĐÊ VÀ MỘT SỐ VĂN BẢN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Người Ê Ðê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về
nguồn gốc ra đời của dân tộc Ê Ðê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến
trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Ðê vẫn còn là một xã hội
đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta có giá trị đóng góp không
nhỏ vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. “Có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố
cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, và tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh
dân tộc, tức là sức sống và sự từng trải của dân tộc, nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng
và trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử.” Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu
một số mặt về cộng đồng dân tộc Ê Đê
PHẦN I: LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ

Truyền thuyết của người Ê Đê kể lại rằng: Một người thủ lĩnh từ Ấn Độ tên là
Kudaya đến xứ sở của công chúa mẹ - xứ sở tên là Nagar. Kudaya đã chinh phục đươc
xứ sở của Nagar sau đó kết hôn với công Chúa mẹ Xứ sở Nagar được phong làm Krung.
Con cháu hậu duệ của họ đựơc gọi là Anak Đê-Gar.
Vào đầu công nguyên, xuất hiện hai vương quốc của người Malayo - Polynesia
lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam và Chiêm Thành. Lãnh thổ Phù Nam rộng từ
Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng ảnh hưởng tỏa lên Thượng Lào và Bắc Miến
Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều vương quốc nhỏ sinh hoạt độc lập với nhau dọc các đồng
bằng eo hẹp miền Trung đến chân dãy Trường Sơn về phía Tây: Lâm Ấp hay Bình Trị
Thiên, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Phan Rang.
Sinh hoạt chính của người Malayo - Polynesia là trồng lúa nước và buôn bán. Ðể
tìm thêm nguồn hàng quí hiếm trao đổi với các thuyền buôn, người Malayo - Polynesia
mở rộng tầm kiểm soát lên các vùng rừng núi đồng thời khuất phục luôn các nhóm dân
cư bản địa đã có mặt từ trước, điển hình là nhóm Bih ven krong A-na mà ngày nay được
gọi là Ê Đê Bih. Nhóm Bih là nhóm Malayo - Polynesia định cư và chạy nạn sớm vào
sâu nhất trong lục địa, họ đem theo kỹ thuật trồng lúa nước ven sông,dệt vải thô, trang
sức hạt, và kỹ nghệ làm gốm thô.
1




Theo chiều lịch sử, danh tự Ê Đê có nguồn gốc từ cách đọc âm của
người Champa, bia ký Champa cổ nhất tại tháp Po Nagar vào khoảng thế kỷ VIII đã ghi
chép về tộc danh Rang Đê vùng sông Nha Trang, sông Jing, sông Hing. Những bia ký
sớm nhất của Champa thế kỷ VIII - đã có nhắc đến nhóm Rangde ven sông Ea trang
(Nha Trang). Trong Bia Po Nagar được dựng năm 965 tại tháp Po Nagar (Nha Trang,
Khánh Hòa).
Nội dung bia như sau: Vào khoảng năm 703 - 706 lịch saka (781 - 784 Công lịch),
vua Satyavarman cho dựng một linga (linh vật) thờ thần Siva và lập cháu mình lên làm
vua Vikrantavarman (vì theo chế độ mẫu hệ nên cậu truyền ngôi cho cháu theo dòng
mẹ)... và đức Vua có thu phục được người Randaya (Rang Đê). Rất có thể từ Rang
Đê sau này bị biến âm thành Ra đê, Rađêy hay Ê Đê.
Ðến cuối thế kỷ 7, quân Java của Indonesia từ Biển Ðông lại tràn vào đánh Phú
Yên và Khánh Hòa, một phần lớn dân chúng Chiêm Thành đã chạy lên cao nguyên
M'Đrak tị nạn mang theo những văn hóa tập tục mẫu hệ, kiến trúc, trồng trọt và ngôn
ngữ Chiêm Thành giai đoạn sơ khai có yếu tố Ấn Độ hóa hơn mà tạo thành các nhóm
Rhangdé. Người Rang Đê được cho là tổ tiên của người Eđê và Jarai, đã được ghi chép
khá nhiều trong các bia ký Champa.
Vào năm 1283, quân Mông Cổ tràn xuống xâm lăng Champa. Trước đoàn quân
hùng mạnh của Mông Cổ, vua Champa quyết định rút quân lên vùng Tây nguyên để ẩn
náu. Theo ông Marco Polo, một nhà du hành Âu Châu, vua Champa chịu bỏ trống toàn
bộ lãnh thổ đồng bằng cho quân Mông Cổ chiếm đóng. Trong suốt hai năm chờ đợi
không giao chiến, vì thiếu lương thực, quân Mông Cổ tự rút lui ra khỏi Champa.
Rất có thể là trước sự xâm lược của đế quốc Mông Cổ, sau này là cuộc Nam Tiến
của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng người Champa vùng ven biển
Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với
cộng đồng Ê Đê có trước, từ đó tạo ra nhóm tộc người mới Anak Jarai lấy từ tên Pô
Kurung Garai với hàm ý là những người Rang Đê theo Vua Chế Mân chống xâm lược
Mông Cổ. Trích diễn biến lịch sử như sau:

Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tông dẫn đại quân
đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thất thủ,
vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Champa bị
bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử
Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy trì giao hảo
với Đại Việt, triều cống đều đặn.
2


Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên đe dọa. Năm
1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công
chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử ChayNuk là
con Jaya Paramesvaravarman II lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V tiếp tục
giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột)
sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ. Hay tin
này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả
thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ
Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Quốc triều
cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành dưới sự
bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn
quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Champa nào chịu theo quân Nguyên đều được
phong làm phó vương. Hoàng tử Harijit Pô Đêwađa Svor (hay Pô Đêpitathôr) hay còn
gọi là Pô Đê con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp
nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng núi về Ea Hleo theo đoàn quân hộ tống Rang
Đê, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người Rang Đê sinh sống trên
cao nguyên Ya Heou (Eâ Hleo), tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc
ChiêmThành.
Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250
thuyền đi dọc theo bờ biển Ea ryu (Tuy Hòa-Phú Yên ngày nay) và vào cửa sông Krông
Ea Drăng (sông Đà Rằng, sông Ba,Iapa, Ea Pa, Krong Pa) đổ bộ lên cao nguyên Madrak,

Ea H'Leo nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh tật, không chịu đựng
nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman
III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa
Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm
Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang
thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên.
Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chư Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ,
sau này là tháp Pô Kurung Garai (Tháp Chàm Phan Rang). Chế Mân cho xây một đền
thờ tại Yang Prong gần sông Êâ H'leo (Eâ sup- Tây Bắc Đăk Lăk ngày này) để đón nhận
phẩm vật dâng cúng vua của người Rang Đê trên Tây Nguyên.
Vào năm 1471 Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện người Chămpa đầu
hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau, đứng xa trông thấy
3


toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng
pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông thành tiến vào. Thành
Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn
vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma.
Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng
mà ở Đại Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp
bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm từ
xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt
sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống.
Cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng
người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình
nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó hình thành ra nhóm
tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sông Ba tự gọi mình là Ană
Garai. Ană Pô Garai chính là cụm danh xưng Ană Pô Kurung Garai (Pô Krung Grai là

cách gọi tôn xưng thái tử Champa là Harijit (Rochom Mal) lãnh đạo người Rang
Đê đánh đuổi Mông Cổ. Kurung hay Krung trong ngôn ngữ Rang Đê và Malay cổ có
nghĩa là thủ lĩnh.
Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô KLong Garai phiên âm thành Jarai. Jarai tách
khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận mình là Anăk Jarai với ý nghĩa là những đứa con
của Vua Chế Mân (Pô Krung Grai, Pô Klong Grai hay anak Jarai,DRai) Tiểu quốc Jarai
(tên gọi khác: Ala Car Pơtao Đêgar/ Dhung Vijaya/Nam Vijaya / Nam Bàn / Nam Phan /
Nam Phiên/Chămpa Thượng) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây
Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai và người Ê Đê hình thành từ
khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành các bộ tộc độc lập
vào khoảng cuối thế kỷ 19.Tiểu quốc này được cai trị bởi các vị tiểu vương mà người
Việt gọi là Thủy Xá - Hỏa Xá tức là Pơtao Apui - Pơtao Êa.
Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần Gươm Y Thih (nhân vật trong
các truyền thuyết của người người Ê đê và Jarai). Một tài liệu khác ghi là 20 "đời vua"
tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y Thih để lại. Có kiến khác cho
rằng gươm thần của các Pơtao thực ra là các bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pă
sau khi Lê Thánh Tông tiêu diệt thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định). Xét về hình thái tộc
người Rhade (Ê Đê) lui về phía nam và cùng các nhóm Jarai thực ra la một dân tộc Rang
Đê , hai nhóm tộc người này bị phân li do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng Jarai gọi
là thời kỳ tiah Phara. Nghĩa là cuộc phân ly anh em.
4


Hiện nay, các nhóm cư dân Ê Đê nhận tự thân là Anak Aê diê, đọc chệch thành
Anak Ê Đê - những người con do trời sinh ra, vì cho rằng vị thần tối cao của họ là A.Ê D.I.Ê nghĩa là Thượng đế theo truyền thuyết của người Ê Đê được lưu truyền đến ngày
nay.
Người Ê Đê có nhiều nhóm người địa phương khác nhau như:Ê ĐÊ KPĂ, ADHAM,
M’DHUR, K’TUL, BLÔ, K’RUNG, BIH, ÊPAN,H’WING, DLIÊ RUL, KAH,
KDRAO, DONG MAK, Ê NING,ARUL… nhiều nhóm được nhắc đến trong thư tịch
trước đây nhưng đến nay không còn được nhắc đến nữa. Số nhóm địa phương đã ít đi và

sự phân biệt đã phai nhạt dần. Ước tính hiện nay có khoảng 330.348 người Ê Đê cư trú
tập trung ở tỉnh Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa
và Phú Yên. Tại một số quốc gia khác như: Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước
Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song chưa có số liệu về số lượng chính
thức.
Cho đến nay, cộng đồng người Ê Ðê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những
truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta và có giá trị đóng góp không nhỏ vào kho tàng
văn hóa dân tộc Việt Nam.
PHẦN II: ĐỜI SÔNG VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC ÊĐÊ
CHƯƠNG I: SINH HOẠT – KINH TẾ

I.

Sinh hoạt:

1. Ăn: Người ê Ðê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ
lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức
uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ
đều có tục ăn trầu cau.
2. Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở
trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa
lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng,
vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng.
Ðội đầu có khăn, nón.
5


3. Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắc Lắc, phía nam tỉnh Gia Lai và
miền tây Phú Yên, Khánh Hoà. Ngôi nhà truyền thống của người ê Ðê là nhà sàn dài,
kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng

thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột,
không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc.
Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia
đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có
vách ngăn bằng phên nứa.
4. Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai
quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì
có voi nhưng không phổ biến lắm.
5. Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi,
trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để
truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc ê Ðê nổi
tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một
trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại
có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre
nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ
thuật riêng mang tính độc đáo.
6. Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi
cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên ê Ðê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt
dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em ê Ðê ưa thích.
7. Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt
chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ ê Ðê theo bộ vần chữ
cái La-tinh.
II. SẢN XUẤT KINH TẾ:
1. Nông nghiệp :
Trong nông nghiệp truyền thống,do sống ở Tây Nguyên nên rẫy( HMA) chiếm vị trí
trọng yếu và là nguồn sống chính. Ruộng nước chiếm một tỷ lệ không lớn lắm chỉ có ở
vài nơi,đặc biệt là ven các vùng sông suối, hồ…chủ yếu là người BÍH làm theo lối cổ sơ
dùng đao canh hoả chủng nói chung người Ê ĐÊ thường làm rẫy ở các khu vực đất bằng
phẳng gần nguồn nước. Riêng ở phía Tây, rẫy được làm trên các rừng xavan gọi là HMA
6



H’DRAH. Còn ở vùng trung tâm, rẫy được làm trên các đồi tranh. Khi khai phá, đồng
bào coi trọng việc quan tâm bảo vệ rừng tránh tình trạng làm tất cả trở thành đồi trọc và
hủy diệt giun đất. Bên cạnh
những rẫy đang canh tác thì
vẫn còn những vạt đất còn
những vạt đất còn nhiều cây
( họ coi đó là cách chống xói
mòn đất đồng thời cũng là để
khai thác lâu dài).
Phát rẫy là công việc
chính đầu tiên khi khai phá
nương rẫy vào khoảng tháng 4
bằng cách đốt những cây khô
rồi sau đó dọn và cuốc đất rồi
cuối cùng là chọc lỗ và tra hạt( đao canh hỏa chủng). Trên rẫy lúa là cây trồng chính
nhưng trước kia cây Bao (một loại kê) được trồng phổ biến. Dù rẫy bằng hay rẫy dốc thì
người ta hay dùng gậy chọc lỗ để tra hạt do từng cặp nam nữ tiến hành. Khoảng cách
giữa các lỗ phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất nhưng nói chung các hốc cách nhau
khoảng 0,20× 0,20 m hay 0,30× 0,30 m , hốc có độ sâu từ 0,03 đến 0,05 m. Ngoài lúa,
trên rẫy đông bào Ê ĐÊ còn trồng cả ngô, khoai, bí, dưa, ớt, thuốc lá, bông… ngô và
khoai lang cũng được trồng trên những mảnh rẫy riêng. Các hốc ngô cách nhau 0,80 ×
0,80 m ,mỗi hốc có 3 cây. Khoai lang trồng ngay trên đất bằng ít khi đánh luống. Riêng
các loại hạt giống bầu,bí, dưa,bông thì được trộn cùng với lúa giống để gieo một lúc
hoặc để riêng để gieo vào những chỗ có nhiều tro. Việc xen canh các cây trồng với cây
lúa không những tận dụng được đất đai mà còn có thêm sản phẩm và thuận tiện cho việc
chăm sóc. Đối với các rẫy bằng người Ê ĐÊ thường đào hào xung quanh ngăn cản thú
rừng cào phá hoại hoa màu, họ còn đặt một số bẫy thú xung quanh, trên rẫy thì đặt bù
nhìn và mõ( nhờ sức gió tạo âm thanh) để xua đuổi chim muông.

Cách sử dụng đất đai của hầu hết các dân tộc Tây Nguyên nói chung mà Ê ĐÊ nói
riêng là luân khoảnh tức là bên cạnh những mảnh đất đang canh tác có những mảnh đất
bị bỏ hoang trong thời gian dài để khôi phục độ màu mỡ của đất. Tùy thuộc vào chất đất
mà có thể canh tác liên tục theo chu kỳ 5 , 10, 15 hay 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Rẫy làm
liên tục nhiều năm sẽ bị bạc màu và có nhiều màu. Nhưng rẫy của đồng bào Ê ĐÊ là rẫy
cuốc nên không có cỏ nhiều. Nhưng ngày nay đồng bào đã biết bón phân hóa học nên đã
giảm bớt số rẫy luân khoảnh và yêu cầu định canh thâm canh. Người Ê ĐÊ còn gắn mình
với sản xuất cây công nghiệp như cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao…
7


Cùng với việc canh tác trên rẫy từ lâu nông nghiệp nước đã xuất hiện ở vùng hồ
Lak, ven các con sông Knô và Ana. Tại các ruộng nước họ dùng phương pháp đao canh
thủy nậu tức là khi có mưa phù sa thấm nước nên mềm hơn bấy giờ họ đưa đàn trâu đến
quần cho cỏ dập nát và vùi xuống sâu, bùn nhuyễn ra. Đó là phương pháp canh tác đơn
giản nhất trông lịch sử nông nghiệp. Nhưng việc đắp bờ giữ nước ít được chú trọng. Lúa
nước cũng có nhiều loại tẻ, nếp, dài ,ngắn ngày khác nhau. Khi gặt thì phơi lúa ngay trên
gốc rạ rồi vò dần lấy thóc đem về.
Cách thu hoạch rất đơn giản,lúa tẻ thì suốt bằng tay,bỏ vào cái giò đeo ở ngang
hông,lúa nếp thì dùng liềm gặt rồi bó thành cụm mang về, khi cần mới vò lấy hạt, cũng
có giống lúa tẻ phải dùng liềm gặt, họ cắt thành từng nắm phơi trên rẫy ít lâu rồi đánh
đống lại khi cần mới vò lấy hạt. Khi thu hoạch người ta chọn những hạt to,mẩy làm hạt
giống (giống BLAMA ) hầu hết các giống lúa rẫy đều là những giống lúa sinh trưởng dài
ngày phù hợp với lối canh tác thô sơ trên đất khô.
Công cụ làm rẫy cũng như ruộng của người Ê ĐÊ thường giống nhau và ít kiểu loại
nhưng cũng rất độc đáo. Phổ biến là rìu, chà gạc, wăng briêng, cuốc, wăng wít, gậy chọc
lỗ, ống đựng thóc, tra hạt, cào,gùi, giỏ suốt lúa…
- Rìu có cùng một kiểu loại với rìu của các dân tộc ở nước ta dung để chặt cây, phát
rẫy, làm nhà, làm dụng cụ gia đình.
- Chà gạc (Kgă) là một lưỡi dao thép tra dựng đứng vào gù một cái cán cong bằng

lồ ô đặc. Chà gạc dùng trong sản xuất, chiến đấu, xây dựng nhà cửa và cũng là một công
cụ của nhà bếp.
- Wăng briêng là một
loại cuốc lưỡi sắt nhỏ, hình
trăng lưỡi lèm, tra vào cán
gỗ cong, dùng để xới đất.
Hiện nay, đồng bào dung
cuốc bản ( gọi là wăng
cuốc) để xới đất, phần
nhiều đã được thay thế
công cụ truyền thống:
wăng briêng. Để thích hợp
với kinh nghiệm sản xuất
của mình, đồng bào cắt hai
gốc của rìa tác dụng lưỡi cuốc bản làm cho lưỡi cuốc đó gần giống lưỡi cuốc truyền
thống.
8


- Wăng wít là cái nạo cỏ rẫy, lưỡi sắt, được bẻ gập va vạn vỏ đỗ, một đầu cắm vào
cán gỗ. Đối với người Ê đê, cuốc đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, khiến có thể
nói rằng, hình thái nông nghiệm cuốc đã tồn tại ở họ.
- Cào cỏ (hwar) là một thân tre nhỏ, dài khoảng 1m50, một đầu trẻ làm 6 hay 8 nan,
đan xoè hình giẻ quạt, khi cào thì đứng.
- Ống đựng thóc tra lúa (đing nuh) là một khúc lồ ô dài khoảng 0,80m.
Mặc dù phương pháp canh tác thô sơ,công cụ giản đơn nhưng do đất đai màu mỡ và
được làm đúng thời vụ nên thu hoạch được một khối lượng nông sản đáng kể.
Người Ê đê không tính theo lịch dương, lịch âm mà dựa vào sự vận động của mặt
trời (ngày), mặt trăng (tháng) và mùa rẫy (năm). Tuy vậy người ta vẫn chia 1 năm thành
4 mùa (yan) có tên gọi : yan mnga (mùa xuân), yan mhang(mùa hạ), yan mjao(mùa thu),

yan puit(mùa đông). Còn thời tiết diễn biến theo thực tế thì chỉ có 2 mùa khô (tháng 1-4
năm sau) và mùa mưa(tháng 5-10).Người ta định lịch làm ăn 1 năm là 12 tháng
(mlan)theo 12 lần trăng.Ví dụ : tháng 1 của người Ê đê tương ứng với tháng 4 dương
lịch.
So với phương pháp trồng trọt nguyên thủy :phát, đốt tràn lan ,tiện đâu làm đó thì
cách canh tác rẫy theo chế độ luân khoảnh có nhiều ưu điểm hơn nhưng vẫn là một lối
quảng canh chưa đi vào thâm canh tăng năng suất, vẫn còn phụ thuộc vào tự nhiên.
2. Chăn nuôi:
Chăn nuôi ở gia đình được chú ý phát triển. Đa số đồng bào nuôi gà,vịt, ngan,
ngỗng, lợn, dê, trâu, bò, và một số út gia đình giàu có nuôi cả voi. Hầu hết các gia đình
có đàn gia cầm nhiều con,hàng chục
đầu lợn. Việc chăn nuôi gia súc gia
cầm là để có thực phẩm dùng trong
ma chay, cưới hỏi và cúng bái. Theo
quan niệm của người Ê ĐÊ hiến sinh
nhiều súc vật trong các nghi lễ là
vinh dự trọng đại,là mục tiêu mà
người ta cần đạt tới để khẳng định vị
trí xã hội của mình. Trâu,bò càng
được chú ý nuôi nhiều vì đó là đặc
trưng cho sự giàu có và là vật định
giá trong mua bán cồng chiêng, ché,
cho nên xưa kia có những gia đình lớn nuôi hàng trăm con. Voi cũng là đặc trưng quan
trọng của sự giàu có. Người có voi được coi là có số làm ăn. Voi dùng để vận chuyển và
làm sức kéo đồng thời cũng là vật định giá trong mua bán trao đổi những tài sản lớn.
9


3.Nghề Phụ:
a. Hái lượm và săn bắn:

Do có điều kiện thuận lợi nên cách đây không lâu, hái lượm và săn bắn còn chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của người Ê ĐÊ. Đồng bào lấy rau rừng, mật
ong, hoa quả ,tre gỗ làm nhà và dụng cụ gia đình. Săn bắn chim thú cũng đem lại một số
lượng thịt đáng kể. Ở nhiều nơi đồng bào có thịt chim thú ăn gần như quanh năm.Nhưng
hiện nay người dân đã biết trồng trọt, chăn nuôi tại gia và diện tích rừng và số lượng
động thực vật cũng giảm dần nên việc săn bắt hái lượm đã ít đi.
Người Ê đê có nhiều cách săn bắn.Săn tập thể do Ava Gắp - người đứng đầu nhóm
săn bắt chỉ huy.Người ta chỉ săn đêm khi có đèn săn, tổ chức vây khu vực chắc chắn có
thú, bố trí người lùa 3 phía để 1 phía chặn đầu đón lõng, bắn nỏ. Đây là lối săn vây. Còn
cách săn đuổi thì có 1 tốp người đuổi thú làm ầm ĩ, gõ mõ, đập dao, kêu la, làm cho thú
hoảng hốt chạy theo lối đã định và cũng có tốp đón, bắn nỏ. Thời xưa còn có cách sắn
nữa là đốt lửa 1 khu rừng nhỏ,lùa thú ra người săn phục sẵn ở bìa rừng. Nhưng lối này
nay ít dùng vì hiệu quả không lớn dễ gây cháy rừng.
Phân chia thú rừng : người bắn trúng con mồi được phần lướn nhất : đầu, thân, bộ
lòng (tim, gan, phổi...), mọi người đi săn được phần bằng nhau,người bắn trúng cũng
được một xuất chung này.
b. Đánh cá:
Đánh cá cũng đem lại nguồn lợi không nhỏ ở những vùng gần hồ, sông,suối…
nhiều gia đình không những có cá ăn quanh năm và còn có cá sấy khô để đổi lại muối,
vải, lụa… săn bắn và đánh cá là những hoạt động được ưa thích đồng thời biểu hiện tài
năng của nam giới( những người giàu kinh nghiệm về mặt này luôn có niềm vinh dự
trong làng)
c. Nghề thủ công:
Hoạt động của các nghề thủ công tuy chưa tách khỏi kinh tế nông nghiệp nhưng đã
làm ra những sản phẩm cần thiết. Xưa kia,khi giao thông chưa thuận lợi,sự trao đổi hàng
hóa bị nhiều hạn chế nên công cụ sản xuất và đồ dùng phần lớn là đồng bào tự làm
lấy.Phần lớn người dân tự làm đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm…Nghề
rèn có thể làm lười rìu, chà gạc , các loại lưỡi cuốc ,mũi lao dùng cho săn bắn. Người ta
còn làm được đồ trang sức bằng đồng,làm đồ gia dụng bằng tre,dệt chiếu,dệt và nhuộm
vải… một vài nơi còn có nghề làm nồi đất để nấu cơm làm âu đựng thức ăn. Nhưng hiện

nay một số nghề thủ công đang mai một dần (như gốm, dệt) ,một số nhóm nghề khác
( rèn, đan lát,đồ gỗ) vẫn còn tồn tại và đóng vai trò quan trọng trong đời sống ở địa
phương.
10


Nghề dệt thổ cẩm của người Ê ĐÊ : để tạo nên những tấm thổ cẩm đẹp thì sợi bông
chính là nguồn nguyên liệu chủ yếu. Xưa kia bông thường được trồng ở khắp nơi trên
đất của đồng bào Ê ĐÊ ; đất rẫy, đất thổ,
gieo hạt vào tháng 2, 3 thu hoạch vào
tháng 6, 7 hàng năm. Công đoạn sơ chế
gồm nhặt bông, cán bông, lăn con cúi,
kéo sợi, chế biến sợi, nhuộm màu, cuối
cùng là mắc sợi chỉ vào khung dệt dụng
cụ dệt vải là những bộ phận rời go dài
trên 1m để luồn sợi dọc và dập sợi
ngang. Khi dệt họ ngồi trên nền đất, 2
chân duỗi thẳng đạp lên 1 thanh gỗ nằm
ngang để căng mặt sợi trên khung dệt, tất
cả các đầu sợi được gộp lại buộc vào cây cột nhà hay một gốc cây. Khi dệt người thợ
dùng chân và lưng của mình làm căng dàn sợi, 1 tay giật co, 1 tay giật thoi. Trong quá
trình luồn sợi chỉ vào khung dệt, để tạo hoa văn người dệt sắp xếp trật tự màu sắc của sợi
vải hợp thành thảm dọc ứng với kiểu trang trí được lựa chọn. Chính vì dệt thủ công nên
thời gian hoàn thành sản phẩm rất lâu thậm chí kéo dài tới vài tháng. Những hoa văn trên
nền vải có nhiều mô típ liên quan đến động vật và thực vật. Đó là: chim dang cánh, bọ
cạp ấp con, trứng thằn lằn, bầy ong bám cành cây, trứng chim đại bàng...Bên cạnh những
hoa văn đó, là những hoa văn phản ánh sinh hoạt kinh tế: hoa ngô, hột dưa, cần uống
rượu, con chỉ, đuôi mũi tên...Và cũng có những hoa văn liên quan đến tôn giáo tín
ngưỡng như dây treo chiêng, cột nhà mồ, mặt trăng. Phần lớn hoa văn trên nền vải là
những đường hình học. Màu trang trí của hoa văn nổi bật nhất là màu đỏ, thứ đến là màu

trắng đục, nâu tươi, vàng óng, vàng úa, xanh lá cây, xanh nước biển, xanh rêu cau.
Do có 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa nên hoạt động kinh tế cũng theo từng
mùa. Trước đây vào mùa khô bên cạnh việc làm nghề thủ công thu hái, săn bắt tổ chức
các nghi lễ gia đình … vào mùa mưa hoạt động nông nghiệp là chính và trong mỗi tháng
họ phân chia công việc làm cụ thể:
Ví dụ: -Mlan sa
(tháng giêng) :phát rẫy,dệt vải,ăn tết Mnăm thun
-Mlan dua (tháng hai) :phát rẫy , dệt vải ,ăn tết bỏ mả
-Mlan tlao (tháng ba)
:
- nt –
-Mlan pa
(tháng tư)
:đốt và dọn rẫy
-Mlan ema (tháng năm) :dọn rẫy ,xới đất, tria lửa
-Mlan năm (tháng sáu) :trỉa lúa
-Mlan kjuk (tháng bảy) :trỉa lúa,làm cỏ lúa
11


-Mlan sopăn (tháng tám) :làm cỏ phát và cuốc rẫy mới

CHƯƠNG II: VĂN HÓA

I. Trang phục truyền thống.
Dân tộc Ê đê sinh sống ở vùng miền núi tỉnh Phú Yên nhưng tập trung chủ yếu ở
huyện Sông Hinh. Cùng với dân tộc Chăm, Bana, Tày, Nùng…, dân tộc Êđê có bản sắc
văn hoá truyền thống riêng thể hiện qua trang phục. Đây cũng là một trong những yếu tố
cơ bản để nhận biết, phân biệt bản sắc văn hoá giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Theo các cụ già kể lại thì trang phục truyền thống của dân tộc Êđê, đối với phụ nữ là

chiếc áo chui đầu, dài tay, có hai hàng nút chạy dọc theo vai, những tua chỉ nhiều màu
được kết lại thành chùm sau đó đính vào vai áo thả dài xuống đến đầu gối. Khi những
thiếu nữ Êđê bước đi, những tua chỉ này bay mềm mại và uyển chuyển trông thật duyên
dáng. Ngoài ra còn quấn váy, chiếc váy dài đến gót chân. Còn đối với đàn ông thì mặc áo
cài nút, dài tay, cổ áo hình chữ V, đóng khố.
Cũng như các dân tộc anh em: Chăm, Bana, Tày… thì dân tộc Êđê đã biết dệt vải để
mặc, có khi còn trao đổi mua bán với các dân tộc khác trong vùng. Nghề dệt truyền thống
đã được họ truyền từ đời này sang đời khác. Ở thời sơ khai, người Êđê trồng bông, xe sợi,
dệt thành vải, sau đó nhuộm màu từ các loại vỏ cây, quả… Trang phục của dân tộc Ê đê
lấy màu đen, đỏ làm màu chủ đạo. Hiện nay dân tộc Ê đê dùng chỉ của người Việt, mua
màu về nhuộm thành nhiều màu: đen, đỏ, vàng…
Nhìn vào trang trí trên trang phục, ta có thể nhận biết ngay trang phục của dân tộc
Êđê. Qua màu sắc, hoa văn trang trí bằng những đường song song chạy sát mép vải, mô tít
trang trí trên vải bằng cách điệu hình học. Hoa văn trên trang phục của dân tộc Ê đê có ấn
tượng mạnh mẽ về phong cách. Chính những hoa văn phản ánh nét văn hoá truyền thống
và đời sống sinh hoạt hàng ngày của dân tộc Ê đê.
Rất tiếc bộ trang phục dân tộc Ê đê chỉ còn thấy trong dịp lễ hội còn ngày thường thì
hiếm thấy. Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Ê đê, thiết nghĩ Nhà nước có
12


sự đầu tư, mặt khác tuyên truyền giúp người dân hiểu được bản sắc văn hoá của dân tộc
mình./.
1. Trang phục Thiếu nhi người Ê Đê
Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục
và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc
khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê
là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc
áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo.
Người Ê Đê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng,

hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người
đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ
ngày nay không cà răng nữa.

2. Trang phục nam
- Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống
gồm áo và khố.
- Áo có hai loại cơ bản:
+ Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang
phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu.
Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ,
nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có
mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.
+ Loại áo dài quá gối: Đây là loại
áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay
bình thường không trang trí như loại
áo dài trùm mông nói trên,...
+ Khố: Khố có nhiều loại và được
phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa
văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại
ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại
bong và băl là loại khố thường. Áo
13


thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy,
hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa
văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm.
Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
3. Trang phục nữ

- Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường

nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó
và đội nón duôn bai. Họ mang đồ
trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng
tay thường đeo thành bộ kép nghe
tiếng va chạm của chúng vào nhau
họ có thể nhận ra người quen, thân.
+ Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn
dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình
thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo
dài đến mông khi mặc cho ra ngoài
váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các
bộ phận được trang trí là: cổ áo lan
sang hai bên bả vai xuống giữa cánh
tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các
đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của
trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa
thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở
gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo
yếm).
+ Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là
chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn
quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia
công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên,
mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương
tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép
trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong
cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy
có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia

14


công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại
bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
II. Chữ viết – Ngôn ngữ
Người Ê ĐÊ thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô – Pôlinêxia (ngữ hệ Nam đảo).Họ tự gọi
mình là “ANAK Ê ĐÊ” (người Ê ĐÊ) những dân tộc xung quanh gọi họ là RAĐÊ
nhưng không phổ biến nên Ê ĐÊ trở thành phổ biến cho một tộc danh Người Ê Đê hay
Đêgar, còn có các tên gọi khác là Rađê. Tộc danh này được giải thích là thuật ngữ chỉ
những người sống trong rừng tre,( Ê TÊ hay Ê ĐÊ) hoặc tộc danh đó là một tên gọi của
một vị thần tối cao trong tín ngưỡng dân gian là AE, DIE …(Và còn nhiều cách giải
thích khác nữa). Là ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với tiếng Gia rai, Chăm, Malaisia,
Inđônêsia, Philipin, tiếng Ê đê ngày nay phát triển 1 âm tiết đơn lập. Đây là kết quả của
sự ảnh hưởng tiếng Môn-khmer, Khmer, Lào, Việt, Pháp. Trong lễ hội họ vẫn sử dụng
tiếng Ê ĐÊ kpă (Ê ĐÊ gốc).

Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Êđê - Việt

1. Chữ viết
So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết
theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà
truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ
Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1971,
các chuyên viên này phối hợp với Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa phát hành sách dạy
tiếng Ê Đê. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng Ê Đê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh Thánh
Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt phát hành năm 2001. Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo
15



của chính phủ Việt Nam, với sự hỗ trợ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn
cuốn Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số
lượng phát hành nhiều nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay.
2. Ngôn ngữ
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia. Tiếng Êđê là một
ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia, Philipin.
Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập, Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của
tiếng Mon-Khmer, Khmer,Lao, Viet,Phap. Hầu như nói và viết đều có sự khác biệt, khi
nói chữ "Kngan" nghĩa là "Tay" người Êđê chỉ phát âm là " Ngan" o mot so vung. Đăc
biệt vùng Buôn Đôn một số người Êđê nói tiếng Lào . Măc dù vậy trong khi lễ tôn giáo
và các ngày Lễ hội họ vẫn sữ dụng Tiếng và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc), cùng với sự
phát triển và vai trò to lớn của đạo Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei
mrâo mrang jăk Đêgar", sự thống nhất càng thể hiên rõ, Tin lành Đêgar là niềm kiêu
hãnh văn hóa của người Êđê người Êđê thường sử dụng chử ối ,ái dà, ồ lé .,lớ
So sánh một số từ vựng trong tiếng Ê Đê với các ngôn ngữ Nam Đảo
Tiếng Việt
Một
Hai
Mười
Một trăm
Hai nghìn
Tôi
Chúng ta
Mắt
Tay
Mưa
Nước
Uống
Cơm
Chua

Đêm
Con đường
Trong (cái gì đó)
Người (chỉ người)
Con

Tiếng Ê Đê
Sa
Dua
Pluh
Saêtuh
Dua êbâo
Kâo
Drei
Mta
Kngan
Hjan
Êa
Mnăm
Êsei
Msăm
Mlam
Êlan
Hlăm
Arăng
Anak

Tiếng Gia Rai
Sa
Dua

Pluh
Sa rơtuh
Dua rơbâo
Kâo
Ta
Mơta
Tơngan
Hơjan
Ia
Mnhum
Rơsơi
Msăm
Mlam
Jơlan
Hrom
Arăng
Ană
16

Tiếng Chăm
Sa (Tha)
Dua
Pluh
Satuh
Dua bâo
Kâo
Drei
Mưta
Tangan
Hujan

Ya
Nhum
Sei
Mưsam
Mưlam
Jưlan
Dalam
Urang
Anưk

Tiếng Malay
Satu
Dua
Puluh
Se rituh
Dua ribu
Ku
Kita
Mata
Tangan
Hujan
Air
Minum
Nasi
Masam
Malam
Jalan
Dalam
Orang
Anak



Sống
Tháng (trăng)

II.

Hdip
Mlan
Kan

Hơdip
blan
Kan

Hadiip
bilan
Kan

Hidup
bilan
Ikan

Tổ chức xã hội và chế độ gia đình

1. Tổ chức xã hội
a. Buôn và thiết chế buôn
* Cơ cấu buôn:
Toàn bộ xã hội ÊĐê được phân thành những đơn vị cơ sở gọi là buôn, tương ứng
với khái niệm về làng của người Việt. Các buôn đã qua nhiều biến đổi dưới thời mỹ

ngụy, nhưng tính cộng đồng của nó vãn còn rõ nét.Dưới buôn có khi có những đơn vị
nhỏ hơn gọi là ahi (như xóm) nhưng về mặt kinh tế - xã hội và văn hóa thì nó chỉ là
những bộ phận hữu cơ của buôn. Nó có thể trở thành buôn khi số dân phát triển và có
mâu thuẫn với làng gốc.Hợp thành buôn là những gia đình lớn(thường là gia đnh lơn
mẫu hệ). Các thành viên trong buôn đều là thân thuộc của nhau hoặc cùng huyết thống,
hoặc do quan hệ hôn nhân . Do đó quan hệ cộng đồng buôn được duy trì khá bền vững.
Xưa kia trong các làng Ê Đê, những gia đình có cùng họ thường cư trú bên nhau với
người trưởng họ (khoa djuê) đứng đầu, có lai lịch về dòng họ và những tập tục sinh hoạt
riêng, song về sau mối quan hệ cư trú đó đã bị phá vỡ.
Tinh thần cộng đồng của buôn thể hiện ở sự giúp đỡ nhau trong sản xuất và sinh
hoạt. Từ lâu ở họ tại hình thức gọi là “bring”, hình thức đổi công tự nguyện đối với
nhiều khâu canh tác của các gia đình trong một buôn. Sự giúp đỡ lẫn nhau đó có vai trò
quan trọng trong cuộc sống, là một truyền thống tốt đẹp của buôn nhưng lại mang tính
chất bình quân chủ nghĩa mặt khác thể hiện sự trì trệ của các quan hệ tiền tư bản chủ
nghĩa . . Xét về quá trình lịch sử, tính cộng đồng của buôn là 1 truyền thống tốt, nhưng
mặt khác cũng là một thể hiện sự trì trệ của các quan hệ tiên tư bản chủ nghĩa.Chế độ tư
hữu dựa trên cơ sở chiến hữu tư nhân và thừa kế tài sản từng gia đình ,từng cá nhân đối
với đất đai, rừng núi, đã nẩy nở từ lâu nhưng phát triển chậm. Sự phân công lao động
vẫn theo lối tự nhiên, việc trao đổi sản phẩm còn ở mức độ và hình thức thấp. Dưới chế
độ Mỹ - Nguỵ ở trung tâm đắc lắc và bên lề dưới quốc lộ mới bắt đầu có những khu đất
trồng cà phê của tư nhân.
Xưa kia, khi đến làng Ê đê, người ta cũng có thể nhận thấy những ngôi nhà của giầu
có một số nét phân biệt nỗi bật so với những ngôi nhà khác trong làng. Đó nhà những
ngôi nhà dài có khi đến 200 mét, sàn hiên rộng, cầu thang to bản trang trí hình nồi. Phía
đầu sàn thấy hai cột nhô lên là một biểu hiện chỉ có những gia đình nuôi voi. Trong nhà
có nhiều trang trí, có ghế dài kphan, ghế jhưng, độc mộc, những đồ chỉ có ở nhà giầu có
17


vị trí xã hội cao mới làm được. Nhà giầu, mdrong, ngoài thóc dư thừa còn nhiều của quý

như đồ trang sức, bát đĩa bằng sứ và bằng đồng, chiêng, ché, nồi đồng, chăn, áo, nhiều
trâu bò mà theo quan niệm của họ thì có những thứ đó mới là “con người”. Nhà giầu còn
có nô lệ, gia đinh, tôi tớ. Trong số những người nhà giầu phân biệt thành: Mdrong
prong , Mdrong ana Mdrong puk sang , người nghèo là bun rin, người quá nghèo là bun
hin rin táp. Để có vị trong xã hội và được thừa nhận là lớp người trên của địa phương,
ngoài sự giầu có còn, phải tổ chức một số lễ hiến sinh cúng cho bản thân mình (ngã yang
asei mlei) để có dịp khoản đãi dân làng.
Nghi lễ phong tục này cũng có nhiều tang vật mà thứ tự nhỏ đến lớn như sau:
1.Mnu tlao, kpiê tlao : Hiến sinh 3 con gà và ba chén rựơu cúng 1 lần
2.Un bong, kpiê tlao : Hiến sinh 3 con lợn chưa thiến và 2chén rựơu cúng3lần
3. Un kreo, kpiê êna : Hiến sinh 1 con lợn và 5 chén rựơu, cúng 2 lần
4. Un kreo, kpiê êma : Hiến sinh 1 con lơn thiến và 7 chén rựơu cúng 1 lần
5. Emô knô, kpê êma : Hiến sinh 1 con bò đực và 5 chén rựơu, cúng 2 lần
6. Kbao knô kpiê êma : Hiến sinh 1 con trâu đực và 5 ché rựơu, cúng 2 lần
7. Kbao knô kpiê kjuh: Hiến sinh 1 con trâu đực và 7 chén rựơu, cúng 2 lân
Với sự phân hoá tài sản, thì trong lòng công xã hình thành và tác khỏi quần chúng
lao động những gia đình giầu mạnh hơn, có uy thế và địa vị xã hội cao. Hơn có thể gọi là
tầng lớp trên của xã hội. Những ngày nay, khi có lao động nhưng cũng đã bóc lột quần
chúng, sử dụng nô lệ trong nhà, nhận của biếu xén, cho vay nợ lãi, mượn nhân công. Nô
lệ gia đình thường là những chiến tù, và những người goá bụa và người nghèo không nơi
nương tựa, những người mắc tội không có của nộp phạt. Họ có thể có gia đình, có bếp ăn
riêng ngay trong nhà chủ. Những được chủ thừa nhận là tốt, có thể được giải phóng và
trở thành người tự do (ên giê ). Song, xưa kia buôn bán nô lệ sang Lào, Thái Lan, đôi khi
có người biến thành vật tuỳ táng của chủ. Lớp người đông đảo nhất trong xã hội vẫn là
nông dân, dân tự do của công xã với kinh tế và nhà ở riêng.
Chế độ tư hữu dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân và thừa kế tài sản từng gia đình,
từng cá nhân đối với đất đai, rừng núi đã nảy nở từ lâu nhưng phát triển chậm. Sự phân
công lao động vẫn theo lối tự nhiên, việc trao đổ sản phẩm còn ở mức độ và hình thức
thấp.
Đứng đầu buôn làng là Pôpinea, người “đầu bến nước. thực tế thì người này ngoài

việc trông nom bến nước, còn điều hành quản lý mọi công việc của buôn về các mặt dân
chính quân sự, an ninh, thần quyền và quan hệ với bên ngoài. Giúp việc về quân sự
cho Pôpinea có K’eng, về tòa án có pôphátkeli ,về cúng bai cópôriuyang (người tế tự)
và miâo (thày cúng) . Bộ máy quản lý buôn tồn tại cho đến những năm đầu thế kỷ này.
18


Về sau, vai trò người đầu làng truyền thống có giảm đi do sự xuất hiện các khoa buôn
thuộc hệ thống chính quyền địa phương
b.. Thiết chế buôn
Các gia đình trong buôn chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất vật chất và không gian
Tính cố kết của sinh tồn là điều kiện quan trọng hàng đầu.Mỗi buôn có một phạm vi
đất đai của mình được xác định và được các buôn láng giềng thừa nhận . Các buôn đối
với phạm vi đất đai của mình có quyền sở hữu và nhiệm vụ bảo vệ cũng như quyền lợi
khác mà mỗi thành viên có quyền sử dụng theo tập tục. Mặt khác nhân dân các buôn vẫn
có thể sử dụng đát đai ngoại vi của các buôn khác nếu được buon sở tại đồng ý. Các gia
đình không chỉ chiếm hữu những đất đai đang canh tác mà cả những đất đai hữu canh.
Mảnh đất mới được khai thác thuộc phạm vi của người canh tác nó nếu ai xâm phạm
phạm vi đó sẽ bị coi là hành vi “đạp lên đầu” có thể bị phạt .
2. Chế độ gia đình
Gia đình người Ê Đê, theo chế độ mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ, con cái mang họ mẹ.
Khi lấy vợ, người chồng về nhà ở. Con trai không được hưởng thừa kế. Ngày nay tính
chất mẫu hệ không còn rõ nét, vai trò của người đàn ông trong gia đình cũng như trong
xã hội ngày càng được khẳng định. Tín ngưỡng của người Ê Đê là tín ngưỡng đa thần
nên thực hiện nhiều kiêng cữ và tổ chức nhiều lễ cúng như lễ cúng bến nước, lễ chọc tỉa,
lễ cúng lúa mới, lễ thổi tai cho trẻ mới sinh… với niềm mong ước mùa màng bội thu,
con người khoẻ mạnh, tránh được rủi ro, hoạn nạn.
Ngoài hệ thống tổ chức buôn, trong quan hệ xã hội người ÊĐê còn có Pôlăn là
người đại diện cho quyền sở hữu đất đai dòng họ .Người Ê Đê cho rằng, tất cả dòng họ
của mình đều sinh ra từ 2 dòng họ gốc Niê và Mlô, trong đó họ NiêKdăm là họ làm chủ

đất , Pô lăn quản lý đất đai. Pô lăn là người đại diện cho quyền sở hữu đất đai của dòng
họ. Phạm vi đất đai một Pô lăn quản lý có thể từ một đến vài buôn . Ngược lại có khi
một buôn lại có nhiều Pô lăn. Pô lăn do người đàn bà dảm nhiệm, là người giữ vật thiêng
của dòng họ, được coi là do thần ban cho.
Hạt nhân của gia đình là người đàn bà cùng chồng và con gái của mình hay nhiều
người có quan hệ chị em ruột với nhau hoặc chị em họ bậc hai. Sinh hoạt gia đình đông
người tất yếu dựa trên những nguyên tắc nhất địn, nổi bật là dân chủ, bình đẳng, công
bằng, nhường nhịn nhau, do một người(đàn bà) gọi là Khoa sang điều khiển, bà chủ
hướng dẫn con cháu làm ăn và giúp đỡ nhau. Thừa kế tài sản theo dòng nữ. Con mang
họ mẹ và hôn nhân cư trú bên nhà vợ.
19


Về quan hệ hôn nhân thì hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng tương đối
phổ biến mà người Ê Đê gọi là nối nòi(chuê nuê). Tập quán qui định: “gẫy cái rùi thì
phải thay thế, gẫy cái giát thì phải thay thế, người chết phải nối”. Chồng chết, người đàn
bà góa có quyền đòi hỏi nhà chồng một người em chồng thay thế, và cũng như vậy đối
với người đàn ôn. Theo tập tục Ê Đê, người ta chỉ có thể lấy em của người quá cố mà
không thể lấy anh hay chị. Họ còn có tục nối nòi khác là: cháu lấy mợ, ông lấy
cháu.nhưng là cháu nội không phải cháu ngoại . Bên cạnh đó, hình thức hôn nhân khá
phổ biến là con trai cô lấy con gái cậu theo quan niệm người đàn ông họ này có nghĩa vụ
kết hôn với người đàn bà ở họ kia, trong khuôn khổ người của Niê lớn phải nuôi M lô và
ngược lại. Bởi vậy một số họ như Hdơk (M lô) và Niê KDăm (Niê) ở buôn Co sir chẳng
hạn đã gần mười đời có quan hệ hôn nhân với nhau.
Những tàn tích của tổ chức lưỡng hợp cũng được thể hiện rõ nét trong trong hệ
thống thuật ngữ thân tộc. Người đàn bà gọi các con của chị em gái mình như gọi con của
chính mình là Anek(con), gọi các con của con chị em gái mình là Kchô (cháu) ; nhưng
gọi con của chị em gái chồng là Amuôn . Còn Ê gô gọi tất cả chị em gái cả mẹ mình là A
mí(mẹ), gọi những người chồng của chị em gái mẹ và bố đẻ là A ma (cha. Có khi người
ta gọi anh em trai mẹ là Awa A miết và người nà gọi người kia là A muôn (cháu ngoại),

nhưng quan hệ cậu cháu lại tương ứng với Kmhà (bố vợ) và Mtâo (con rể).
IV. Kiến trúc
1. Nhà cửa – Vật dụng
- Nhà sàn của người Ê Đê
+ Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m
tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không
giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu
hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của
cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa
đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ,
ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp
đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về
bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi
lại, về phía cuối là nơi đặt bếp...

20


+ Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách.
Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.
* Văn hóa nhà dài của đồng bào dân tộc Êđê
- Khi đến làng của đồng bào dân tộc Êđê, bạn không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy
nhiều ngôi nhà xây hiện đại,
thậm chí còn có những ngôi
nhà cao tầng, bê tông cốt
sắt rất kiên cố. Tuy nhiên
bên cạnh những căn nhà
hiện đại đó, chúng ta cũng
thường thấy có nhiều ngôi
nhà sàn được làm bằng vật

liệu thô sơ như gỗ, tre, nứa,
tranh…
- Những ngôi nhà này
người ta thường gọi là nhà
dài, có nhiều ngôi nhà được làm dài như một tiếng chuông ngân. Vậy bạn đã biết gì về
căn nhà dài truyền thống của đồng bào dân tôc Êđê? Để tìm hiểu cụ thể và chi tiết hơn,
xin bạn hãy dành một chút thời gian ghé lại quê tôi để được mắt thấy – tai nghe về
những phong tục tập quán đầy kỳ thú này.
- Người Êđê có truyền thống dựng nhà theo hướng Bắc - Nam và buôn làng Êđê
truyền thống thì được bố trí theo hướng Đông - Tây. Vật liệu chủ yếu dùng để dựng nhà
là gỗ, tre, nứa, tranh... Ngoại cảnh nhà sàn mô tả được đặc điểm, tính chất và công dụng
của hai cầu thang truyền thống (đực và cái); cửa trước và cửa sau, sân sàn trước và sân
sàn sau Phần nội thất được chia làm hai phần chính như sau:
+ Phần Gah: là nơi đón khách và là khu vực dùng cho mọi sinh hoạt chung của gia
đình và dòng họ như hội họp, cúng điếu, đánh cồng chiêng. Có 3 cặp cột chính dùng sắp
xếp vị trí của các vật dụng như:
Hướng Tây: Cột chiêng, cột trống tương đương với vị trí ghế Kpan, trống cái H/gơr.
Hướng Đông: Cột khách, cột chủ tương đương với vị trí của bếp khách và Djhưng Pô
Sang, ché. Vị trí đón tiếp khách ngủ qua đêm dành cho từng đối tượng khách.

21


+ Phần Adú: Là chỗ sinh hoạt của vợ chồng chủ nhà cùng các thành viên trong gia
đình. Không gian và nội thất trong gia đình cũng được phân chia theo hướng Đông và
Tây.
Phía Đông: được ngăn thành nhiều buồng, làm chỗ ngủ cho nhiều cặp vợ chồng
theo thứ tự từ sau ra trước: buồng vợ chồng chủ nhà, kho và là phòng để dành cho cô
con gái út khi đi lấy chồng, phòng của vợ chồng các cô con gái theo thứ tự trước sau.
Phía Tây: là bếp lửa sinh hoạt cho cả gia đình (trước phòng chủ nhà) và là bếp riêng

của các cặp vợ chồng (đặt trước mỗi cửa phòng) và các vật dụng sinh hoạt trong gia
đình. Kho lúa để ở sau cùng, được tách rời khỏi không gian nhà trước nhưng nhỏ hơn và
có hình dáng hư hnh uông. Những sắc thái chung mang đậm ý nghĩa nhân văn của văn
hóa nhà dài đã nói lên truyền thống, tín ngưỡng và chế độ mẫu hệ của đồng bào dân tộc
Êđê.
2. Đồ gỗ và điêu khắc

22


Nghệ thuật điêu khắc của người Ê đê nay còn rất ít, chủ yếu là chạm khắc tượng
nhà mồ, cầu thang, cột . Họ chạm khắc bằng các công cụ rất thô sơ như chà gạc, wăng
wit, rìu…Trên các xà ngang của
các nhà giàu hiện còn chạm khắc
rất nhiều hình các con vật như rùa,
kỳ đà,voi… do ngày xưa người Ê
đê sống ở gần biển (đảo) nên họ
chạm khắc các con vật này để lưu
giữ lại truyền thống xa xưa, đây
cũng là một trong những yếu tố
còn lại của biển của người Ê đê.
Hình khắc đôi bầu vú xuất hiện hầu
khắp trong nhà của người Ê đê thể
Điêu khắc hình động vật trên xà nhà người Êđê
hiện uy quyền của người mẹ trong
gia đình, đồng thời biểu trưng cho chế độ mẫu hệ của người Ê đê.Còn hình vầng trăng
khuyết khắc trên bậc thang và các đôi cột là để thể hiện sự mong muốn sự đầy đủ, đi lên,
người Ê đê không khắc vầng trăng tròn bởi nếu đã trăng đã tròn thì sau đó sẽ khuyết dần
rồi đi xuống vì vậy người ta luôn khắc hình trăng khuyết.Trên các cột nhà ta cũng thấy
các hình cây cỏ thể hiện sự gần gũi với thiên nhiên.Ngày xưa người Ê đê có tục chôn nô

lệ theo hầu người chết (đối với nhà giàu) nhưng sau đó thay bằng tượng nhà mồ với ý
niệm về việc cần phải có người theo hầu người chết sau đó ý niệm này không còn mà
thay bằng ý nghĩa trang trí xung quanh nhà mồ nên việc thể hiện hình tượng và nội dung
các bức tượng cũng phong phú và đa dạng hơn.Phong cách của các bức tượng này một
số thể hiện tính chất hoạt động và trần thuật, một số thể hiện tính gợi tả và sống động
như tượng Phụ nữ giã gạo ở easol – eahleo – Đak lak – Bảo tàng Dak lak, tượng người
đánh trống cao 94 cm ở Phú Yên – bảo tàng Mỹ Thuật, tượng múa trống cao 61 cm Phú
Yên – Bảo tàng Mỹ thuật…

V. Tôn giáo, luật tục, lễ hội:
1. Tôn giáo:

Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành được các nhà truyền giáo phương Tây
truyền vào những năm đầu của thế kỷ XX. Đăk Lăk nơi tập trung đông người Ê Đê nhất
cũng là nơi có tín đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung
23


tâm đạo Tin Lành lớn nhất khu vực Đông Dương. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại
các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Công giáo Rôma
được truyền bá thông qua các nhà truyền giáo sau này là người Pháp.Tỉ lệ người Ê đê
theo Công giáo Rôma rất thấp, do yếu tố tấm lý và nguyên nhân lịch sử, Sau Hiệp định
Genève, Ngô Đình Diệm cho hủy bỏ quy chế Hoàng triều Cương thổ, tức chấm dứt đặc
quyền của Quốc trưởng Bảo Đại
trên vùng Cao nguyên và gom
vùng đất này vào lãnh thổ chung
của Quốc gia Việt Nam. Về mặt
kinh tế có khoản mở rộng đất đai
canh tác và lậpcác khu dinh điền,
định cư hàng trăm nghìn người

Công giáo từ miền Bắc di cư vào
Nam. Một số được đưa lên vùng
Tây Nguyên chiếm một số đất
người Thượng làm các khu dinh
điến, sự xuất hiện đông đột ngột
người Kinh Công giáo, cùng với sự
kỳ thị chủng tộc, mất đất đai, văn
hóa bị xâm phạm, đã để lại vết đau
trong tâm lý của người Ê đê, trừ
những người Ê đê Công giáo thời
Pháp thuộc, thì hầu như người Ê đê Bên trong nhà thờ Tin Lành Buôn Alê A – tỉnh Đăk Lăk
còn lại đa phần chọn Tin Lành như
là một tôn giáo để có thể đối chọi lại từ sự đồng hóa từ phía công giáo mà chính quyền
Ngô Đình Diệm ủng hộ lúc đó. Những người Ê đê theo Công giáo Rôma thì thường đến
các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Một số rất ít theo Phật giáo tại các vùng
đô thị. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình.
Lịch pháp theo tôn giáo truyền thống của người Êđê có sự khác biệt so với lịch pháp
công lịch,thứ lịch đếm ngày chậm hơn một ngày so với công lịch. Người Eđê sử dụng
lịch pháp Moise có nguồn gốc từ Do Thái giáo. Đó là ngày bắt buộc người Eđê phải nghỉ
ngơi thờ phượng vào ngày thứ Bảy (Hruê Kjuh) hay còn gọi là Hrue Sabbath (shabbawth') tức ngày Chủ Nhật (Sunday) trong Công Lịch.
So sánh Lịch pháp Ê-đê với các lịch pháp Công Lịch
24


Lịch thứ tiếng Lịch thứ Hebrew
Ê-đê
(Do Thái giáo)
Yom Rishon (1) –
Hruê 1 (SA)
‫יום ראשו‬

Yom Sheni (2) – ‫יום‬
Hruê 2(DUA)
‫שני‬
Yom Shlishi (3)– ‫יום‬
Hruê 3 (T'LÂO)
‫שלישי‬
Yom Reviʻi (4) – ‫יום‬
Hruê 4 (PĂ)
‫רביעי‬
Yom Chamishi (5) –
Hruê 5 (ÊMA)
‫יום חמישי‬
Yom Shishi (6) – ‫יום‬
Hruê 6 (NĂM)
‫ששי‬
Hruê 7 (KJUH) Yom Shabbat (7) –
(SABAT)
‫יום שבת‬

Lịch
Việt

thứ

tiếng

Lịch thứ tiếng Anh

Thứ 2 (HAI)


Monday (2'TH-DAY)

Thứ 3(BA)

Tuesday (3'TH-DAY)

Thứ 4 (TƯ)

Wednesday (4-DAY)

Thứ 5 (NĂM)

Thursday (5-DAY)

Thứ 6 (SÁU)

Friday (6-DAY)

Thứ 7 (BẢY)

Saturday (7-DAY)

CHỦ NHẬT

Sunday (1-FIRST DAY)

Người Ê Đê coi số 7 là con số linh thiêng, và con số tận trong hàng đơn vị tiếng
Ê Đê cùng sau con số 7 đều là những số ghép. Người Êđê theo Tin Lành thờ phượng
đúng vào ngày Thứ Bảy mà họ gọi là (Hrue Sabbath): Ngày Nghỉ ngơi Trùng vào ngày
Chủ Nhật (Sunday) trong Công Lịch. Những ngày này đa số tín đồ thường kiêng không

làm việc nương rẫy hay lao động chân tay khác. Đạo Tin Lành truyền thống của người
Êđê hòa trộn nhiều tín ngưỡng bản địa có trước với nhiều quy tắc kiêng cự khá ngặt
nghiêm ngặt: Cấm hôn nhân ngoại giáo, không ăn thịt động vật chết hay thú vật cắn,
không ăn thực phẩm liên quan cúng tế ngoại giáo, cấm thờ ảnh tượng,không ăn huyết
động vật và những thức ăn chế biến từ huyết động vật, cấm dùng đồ uống có men như
rượu, bia và thuốc lá, đưa tang ma vào lúc 9 giờ buổi sáng theo quan niệm phải mặt trời
(ánh bình minh) chiếu xuống huyệt góc 60 độ về hướng Tây
2. Lễ :

Khi xuân về nhiều lễ hội của người ê đê được tổ chức tưng bừng. Do có bộ chữ viết
riêng nên vốn văn hoá dân tộc vừa được tồn giữ qua truyền miệng và qua chữ viết, hết
sức phong phú. Đó là những ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, đặc biệt là những sử thi nổi
tiếng Đăm San, Khan đăm Ktêh Mlan… mà người Ê Đê gọi là khan. Trong lễ hội của
người Tây Nguyên không thể thiếu tiếng cồng chiêng, tiếng trống to, trống nhỏ. Đinh
Năm là loại nhạc cụ phổ biến của dân tộc. Cùng với đàn klongput, đàn t’rưng, sáo… tạo
nên sự phong phú, đa thanh đa sắc trong lễ hội, trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Đàn
25


×