Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Những bê bói và sự khủng hoảng tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.18 KB, 52 trang )






CHƯƠNG 12










































Những bê bói và sự khủng hoảng
tài chính.

Mục tiêu
Những gì bạn sẽ được học trong chương này:










Lập luận liên quan đến khả năng vay mượn của các doanh nghiệp nhỏ
Bản chất và vai trò của các quỹ đầu tư mạo hiểm (VTCs)
Các câu hỏi liên quan đến cho vay của Vương quốc Anh ở nước ngoài
và các cuộc tranh luận của những người thích đầu tư ngắn hạn.
Ý nghĩa của sự loại trừ trong tài chính và các vấn đề liên quan.
Các vấn đề về tiết kiệm dài hạn và lương hưu.
Những lo ngại về khoản nợ của hộ gia đình
Xu hướng bong bóng thị trường và bi kịch.
Những tác động từ tài chính của các vụ gian lận và bê bối trong doanh
nghiệp phi tài chính.


Với quyển sách này, chúng ta thấy rằng hiệu quả của nền kinh tế được cải thiện
rất nhiều bởi sự phát triển của hệ thống tài chính. Đó là sự thật, tuy nhiên, sự
yếu kém trong thị trường tài chính có thể gây ra rất nhiều tốn kém cho cá nhân,
doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung. Cũng như tất cả các thị trường khác, thị
trường tài chính chịu sự ảnh hưởng xấu từ thị trường – (đặt trường hợp thị
trường cạnh tranh hoàn hảo vẫn có thể xảy ra), ví dụ như sự hiện diện của các
yếu tố độc quyền hoặc độc quyền nhóm, sự hiện diện của yếu tố bên ngoài, việc
thiếu các thông tin tổng quát hoặc sự tồn tại của thông tin bất cân xứng. Trong
chương này, chúng ta sẽ xem xét những vấn đề phát sinh từ hoạt động của tổ
chức tài chính và thị trường. Chúng tôi sẽ bắt đầu bằng cách nhìn nhận vào
những vấn đề liên quan đến khả năng vay của các doanh nghiệp và cá nhân
thông qua hệ thống tài chính. Sau đó chúng tôi sẽ xem xét các vấn đề liên quan
đến mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Chương này tiếp tục với phần đơn khiếu
nại về sự phi lý và "thái quá" của thị trường tài chính và khả năng thị trường tài
chính gặp phải sự cố, tần suất các vụ bê bối tài chính và hành vi gian lận trong
thị trường này. Kết thúc chương là cách nhìn vào một số vấn đề của quốc tế.

Trang | 2



12.1

CÁC VẤN ĐỀ VAY VÀ CHO VAY TỪ TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
Chương 2 cho chúng ta thấy rằng các trung gian tài chính nên khuyến khích cả
hai việc tiết kiệm và vay vốn để đầu tư và phải sử dụng kênh vốn một cách tốt
nhất trên quan điểm của tổng thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm
qua, đã có rất nhiều những lời chỉ trích về cách thức mà hệ thống tài chính đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Từ quan điểm của các doanh nghiệp, vấn đề chính
là khả năng mà các doanh nghiệp mong muồn tham gia vào hoạt động sản xuất
để thu được lợi ích từ hệ thống tài chính. Còn từ quan điểm của các hộ gia đình,
đã có nhiều cuộc thảo luận về khả năng tận dụng những lợi ích của hệ thống
này. Trong những năm gần đây, những lo lắng “Liệu rằng hệ thống có tạo ra
động lực và thông tin để khuyến khích tiết kiệm dài hạn hay không? ” cũng đã
được thể hiện. Thật vậy, đôi khi người ta cho rằng hệ thống tài chính chịu một
phần trách nhiệm vì khiến nhiều hộ gia đình đi sâu vào nợ nần, trong khi những
người khác không đủ để tiết kiệm. Chúng ta sẽ thảo luận về vấn đề này một
cách ngắn gọn như sau.
12.1.1

Các nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp và nh ững nổ l ực
hoàn thiện.
Một cáo buộc đã cho rằng hệ thống tài chính đôi khi đã chưa làm hết
trách nhiệm đối với những người muốn vay tiền từ nó. Cho đến gần đây, mối
quan tâm chủ yếu tập trung vào quan hệ giữa hệ thống tài chính và nhu cầu tài
chính của các doanh nghiệp. Điều này từ lâu đã là một vấn đề gây tranh cãi.
Theo Ủy ban Macmillan, ví dụ nhưi JM Keynes là một trong những
thành viên đã nghiên cứu các vấn đề này trong năm 1931. Gần đây, Ủy ban
Wilson (HMSO, 1980) cũng đã đưa ra một báo cáo đồ sộ (và một báo cáo của

thiểu số bất đồng) về hoạt động của các tổ chức tài chính qua một số năm với
nguồn tài liệu tham khảo trên cấu trúc và chức năng của hệ thống tài chính Anh.
Trang | 3


Có ba chủ đề xoay quanh lãi suất định kì cho dù hệ thống tài chính đang
hoạt động một cách thỏa đáng. Việc đầu tiên, điều quan trọng mà cả Macmillan
và Wilson điều tra được, là liệu rằng hệ thống tài chính có đủ khả năng đáp ứng
nhu cầu của tầng lớp cụ thể trong những đơn vị vay mượn mang tính chất
thương mại. Các “khe hở Macmillan" là tên gọi dành cho những gì được coi là
sự bê bói của hệ thống cung cấp vốn giá rẻ và thuận tiện cho các doanh nghiệp
"nhỏ". Ủy ban Macmillan đã không cho thấy sự thuyết phục, nhưng ý tưởng
rằng có thể thiếu một cái gì đó từ phạm vi của các tổ chức cung cấp tài chính
vẫn tiếp tục và nằm ẩn sau nhiều chương trình tài trợ của chính phủ , đặc biệt là
trong năm 1960 và 1970, nhằm làm cho các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng nâng cao
đầu tư mạo hiểm. Ban Wilson thì đề nghị hỗ trợ một doanh nghiệp đầu tư nhỏ
và một chưng trình bảo lãnh vay vốn. Trong những năm 1980, tư tưởng các
doanh nghiệp nhỏ có thể là một bất lợi (đã lan rộng với cáo buộc cho rằng họ bị
đối xử thiếu thiện cảm bằng nhiều cách bởi các ngân hàng) khi so sánh về các
dịch vụ cung cấp và giá cả phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn.
Gần đây, quỹ đầu tư mạo hiểm (VTCs) đã được thành lập với nỗ lực giúp
mở rộng các doanh nghiệp nhỏ thông qua việc cung cấp tài chính. Đó là các
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán mà chủ yếu là đầu tư vào
các doanh nghiệp không thể định giá hoặc mới thành lập. Ý định của chính phủ
là VTCs sẽ tìm các doanh nghiệp thành công, các doanh nghiệp trong tương lai
và cho họ một khởi đầu (dù đã bị từ chối). Trong đạo luật tài chính năm 1995,
quỹ VTCs được giới thiệu nhằm mục đích để các nhà đầu tư vừa và lớn hay
những người nhận được phẩn giảm thuế đầu tư sẽ được giảm thuế cho việc đầu
tư vào những gì được coi là rủi ro và mạo hiểm. Các nhà đầu tư có thể đạt lên
đến £200.000 mỗi năm (tăng từ £ 100,000 năm 2004) trong VTCs, nguồn quỹ

yêu cầu doanh nghiệp phải có 70% nguồn vốn theo quy định của công ty trong
vòng ba năm kể từ ngày khởi đầu. Những doanh nghiệp đủ điều kiện phải là các
doanh nghiệp thương mại Anh với tổng tài sản dưới 7 triệu bảng tại thời điểm
đầu tư.
Trang | 4


Cổ phiếu VTCs đã phát hành ở thời điểm sau ngày 05 tháng 4 năm 2000
chỉ cần nhà đầu tư giữ cổ phiếu trong ba năm để được nhận hổ trợ từ thuế.
Trong thực tế, VTCs đã chứng minh được có ít rủi ro hơn so với suy nghĩ ban
đầu. Với tất cả cổ phiếu VTCs đã nắm giữ trong một năm hoặc nhiều hơn, họ đã
được chi trả cổ tức và được miễn thuế. Sau một khởi đầu khá chậm, các quỹ đầu
tư vào VTCs tăng lên trên 400 triệu bảng Anh trong năm 2000-01, nhưng sau đó
đã giảm xuống mạnh. Năm 2004, kho bạc đã phản ứng bằng cách tăng phần
giảm thuế thu nhập đối với các quỹ đầu tư vào VTCs từ 20 đến 40 phần trăm.
Điều này tạo ra một sự gia tăng mạnh khi ồ ạt các quỹ đầu tư vào VTCs - đạt
đến 500 triệu bảng vào tháng 5 năm 2004 và hơn 700 triệu bảng vào tháng 6
năm 2005. Tuy nhiên, kho bạc sau đó đã cho rằng chương trình này là quá tốn
kém về mặt doanh thu từ nguồn thuế bị bỏ qua và trong ngân sách năm 2006 thì
phần giảm thuế thu nhập đã được cắt giảm tới 30 phần trăm, đồng thời thời gian
tối thiểu để được nhận hổ trợ từ thuế khi nắm giữ cổ phiếu từ ba đến năm năm.
Một chủ đề quan trọng thứ hai là các tổ chức tài chính ở Anh đã chuẩn bị
sẵn sàng để cung cấp tài chính cho các chính phủ khác và các doanh nghiệp ở
nước ngoài với mức phí bằng với mức phí dành cho ngành công nghiệp trong
nước. Chắc chắn, chứng khoán ở nước ngoài được hình thành từ khối lượng tài
sản của Vương quốc Anh và dòng tiền từ nguồn quỹ đã tăng mạnh trong năm
1980; như chúng tôi đã nêu trong phần 4.4, kể từ khi chấm dứt việc kiểm soát
giá trong năm 1979, tỷ trọng tài sản ở nước ngoài trong danh mục đầu tư đã
tăng đều đặn. Không còn phải nghi ngờ gì về vị trí dẫn đầu trong xu hướng
công nghiệp hóa của đất nước này bởi từ lâu hệ thống tài chính của Vương quốc

Anh mang tính chất quốc tế, các tổ chức của nó có thể tìm kiếm nhiều cơ hội có
lợi nhuận, hơn là các tổ chức ở quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia ở châu
Âu. Điều này luôn là một vấn đề cần quan tâm trong nền chính trị Anh. Kể từ
khi hệ thống tài chính có chức năng chủ yếu là huy động tiết kiệm hoặc một số
tiền lớn sử dụng vào sản xuất, rõ ràng là nó cung cấp dịch vụ chủ yếu cho
những người có quyền sở hữu. Tuy nhiên, cho đến nay một hệ thống được xem
là hiệu quả là phải sử dụng có hiệu quả nguồn quỹ thặng dư vào nền kinh tế
Trang | 5


trong nước. Khi quỹ thặng dư được sử dụng ở nước ngoài, nhờ những lợi ích
tích luỹ này mà Anh giàu lên nhanh chóng. Những lời chỉ trích này thường đi
kèm với cáo buộc rằng chính sách kinh tế Anh (và đặc biệt là chính sách tiền tệ)
quá dễ dàng khiến các nhà đầu tư ở nước ngoài yên tâm với các mức chi phí sản
xuất và nhân công tại Anh.
Chủ đề thứ ba, nhưng gần đây hơn là, cấu trúc hệ thống tài chính ở Anh
gây áp lực cho các công ty, khiến các công ty chỉ tập trung vào hiệu suất ngắn
hạn mà gây ra thiệt hại lâu dài trong đầu tư, đổi mới và tăng trưởng. Đây là một
vấn đề phức tạp và bằng chứng không có tính thuyết phục. Nhiều người nghi
ngờ rằng có cái gì đó không ổn với các dịch vụ được cung cấp cho các công ty
bởi hệ thống tài chính Anh, họ bắt đầu chỉ ra một số sự kết hợp của những điều
sau đây, vài điều trong số chúng như sự thật phũ phàng:
Thứ nhất, các nhà phê bình chỉ ra các khoản đầu tư và phát triển kém
trong nền kinh tế của Anh trong 30 - 40 năm qua, khi so sánh với đối thủ cạnh
tranh như Đức và Nhật Bản.
Thứ hai, họ có thể rút ra sự tương phản khá rõ rệt giữa hệ thống tài chính
hoạt động (đặc biệt) tại Đức và ở Anh. Hệ thống này thường được mô tả như
một hệ thống “có nền tảng ngân hàng”, trong khi sau này được mô tả như là "có
nền tảng là thị trường". Điều này có nghĩa là số lượng công ty được niêm yết
trên thị trường chứng khoán của Đức là tương đối nhỏ. Tại Đức, vào cuối năm

2004, có 764 các công ty trên sàn chứng khoán Frankfurt so với hơn 2, 400
công ty tại Anh. Điều này có nghĩa là các ngân hàng đóng vai trò trung tâm
nhiều hơn nữa kể từ khi các công ty có cả nợ và cổ phần mà không sẵn sàng
giao dịch, ngân hàng quan tâm hoạt động của các công ty mà họ tài trợ nhiều
hơn. Ngân hàng thường có đại diện trên danh sách các công ty và phát triển
những mối quan hệ lâu dài với khách hàng của mình. Trái lại, các khoản nợ và
vốn chủ sở hữu của các công ty ở Anh đang bị phân tán trong thị trường tài
chính vô cùng năng động, nơi nó có thể sẵng sàng được giao dịch. Một tỷ lệ cao
trong đó (65% vào năm 1998) được thành lập bởi tổ chức không nhận tiền gửi
Trang | 6


(NDTIs) như quỹ hưu trí và đơn vị và ủy thác đầu tư, không có sự cam kết lâu
dài và không có sự quan tâm nhiều lắm đến quyết định của các công ty vì họ có
thể có thể chuyển nhượng lợi ích đó bất cứ lúc nào.
Điều thứ ba là sự quan sát rằng NDTIs của Anh nắm giữ cổ phiếu trong
một thời gian tương đối ngắn - chỉ 2 - 3 năm – với đầu tư và đơn vị ủy thác trở
thành “tội phạm tồi tệ nhất”. Điều này làm cho doanh thu từ việc nắm giữ cổ
phiếu đôi khi bị gọi một cách mỉa mai là “khuấy động”.
Cuối cùng, ý tưởng này được củng cố bởi sự sát nhập và bùng nổ ở Anh
và Mỹ vào cuối năm 1990. Những lời phê bình nhắm vào các công ty lớn, với
sự hỗ trợ của các ngân hàng, đã có thể phát triển bằng cách mua lại hơn là bằng
cách đầu tư và phát triển hình thức kinh doanh cốt lõi của họ, bởi vì họ chỉ cần
có cổ phần trong công ty mà họ nhắm đến một số lượng nhỏ các cổ đông tổ
chức. NDTIs đã tranh luận, nhằm khuyến khích bán cổ phần của họ khá dễ dàng
hơn bởi vì họ luôn luôn quan tâm tới việc tối đa hóa tài sản ngắn hạn của họ hơn
là chờ đợi đến khi giá trị cổ phiếu tăng như một khoản lợi nhuận cơ bản của
công ty.
Như chúng tôi đã nói ngay từ đầu, mỗi điều trong sự quan sát này hầu
như là sự thật. Tuy nhiên, khó khăn lớn nằm trong sự kết nối chúng với đầu tư

và tăng trưởng thấp. Có lẽ với lập luận là, các tổ chức muốn thấy giá cổ phiếu,
công ty của Anh đang mắc nợ, tăng trong ngắn hạn. Nếu không, hệ thống làm
cho nó rẻ và dễ dàng cho các tổ chức bán cổ phiếu, và điều này khiến các công
ty có nguy cơ bị thâu tóm. Vì vậy, nhà điều hành đưa ra quyết định đầu tư tối đa
hóa giá cổ phiếu ngắn hạn bất kể hậu quả lâu dài. Đặc biệt, họ định chi ra mức
cổ tức ở một tỷ lệ cao, thay vì tái đầu tư trong trong tương lai, hoặc họ sẽ đi đầu
tư vào nới tạo ra lợi nhuận ngắn hạn.
Kể từ khi doanh thu trung bình của các cổ đông được đo lường đạt ở mức
cao, chúng ta chấp nhận rằng tổ chức tập trung vào hiệu suất ngắn hạn. Điều
này có làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty không? Hãy xem xét một
công ty mà giám đốc quyết định một dự án đầu tư lớn có lợi nhuận dự tính đáng
Trang | 7


kể nhưng nó có thể chỉ là lời nói dối. Để dự phòng các trường hợp khác nhau,
chúng ta hãy giả sử rằng họ thậm chí còn cắt giảm cổ tức năm nay để tài trợ cho
dự án. Theo những người thích đầu tư ngắn hạn, các cổ đông sẽ bán cổ phần của
họ. Câu hỏi đầu tiên là: điều này ảnh hưởng tới công ty như thế nào? Thứ nhất,
lưu ý rằng cổ phiếu phải được mua bởi người ngoài, có thể là một tổ chức khác.
Nếu tất cả các cổ đông đều bán, giá cổ phiếu sẽ phải giảm và điều này đặt ra (a)
chi phí vốn và (b) khả năng tiếp quản công ty được xem như một "món hời" của
cho những kẻ lợi dụng người khác. Trừ phi các công ty đang tìm cách huy động
vốn cho dự án đầu tư, tuy nhiên, điều đầu tiên là không hợp lý. Các công ty có
thể hy vọng vào thời điểm huy động vốn mới, những lợi ích cuối cùng của dự
án sẽ được công nhận và giá cổ phiếu sẽ phục hồi. Tiếp đó là mối đe dọa của
việc tiếp quản. Người quản trị có thể ra những quyết định vượt quyền hạn của
mình. Tồi tệ nhất, các công ty có thể bị đóng cửa. Tốt nhất, việc quản lý sẽ phải
điều chỉnh bởi giám đốc mới và chủ sở hữu; quyền lực nhà quản lý sẽ được
giảm. Từ đây, các nhà quản lý có thể có một lý do chính đáng để tập trung vào
việc giữ giá cổ phiếu cao.

Lý do phản đối cơ bản đối với những người thích đầu tư ngắn hạn là
nhiều người sẽ thực hiện nó, tuy nhiên, nó lại phụ thuộc vào thị trường chứng,
và điều này vi phạm cả niềm tin ấp ủ và một số lượng nhất định các bằng chứng
về cách thức mà thị trường chứng khoán và nhà đầu tư làm việc.
Cụ thể ở đây, nhà phê bình nói rằng lập luận những người thích đầu tư
ngắn hạn vi phạm cả hai định lý chia cổ tức không phù hợp (DIT, giải thích
trong chương 6) và lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH). Định lý chia cổ tức
không phù hợp: bắt đầu từ ý tưởng giá của tài sản đại diện cho các giá trị hiện
tại của dòng thu nhập trong tương lai sẽ giảm. Đối với thị trường chứng khoán,
dòng thu nhập này liên quan đến cả hai: cổ tức và tăng giá. Sau đó, trên một số
giả định, giảm cổ tức được sử dụng để tài trợ cho các dự án mới nhất thiết phải
bù đắp bởi sự gia tăng giá. (Một trong những giả định của khóa học là đầu tư
mới là lợi nhuận!) Theo DIT, do đó, cổ tức và tăng trưởng vốn hoán đổi cho
Trang | 8


nhau trong việc xác định giá của một cổ phiếu. Và không nên có ưu đãi cho các
doanh nghiệp để “mua” cổ phiếu ngắn hạn một cách phổ biến với tiền thưởng
cao.
EMH cho rằng thị trường tài chính giúp chúng ta sử dụng tốt nhất tất cả
các thông tin có sẵn trong việc xác định giá của một cổ phiếu. Vì vậy, nếu một
công ty cắt giảm cổ tức để tăng lợi nhuận giữ lại, thị trường sẽ biết điều này và
nó sẽ đánh giá lợi nhuận trong tương lai của dự án và công ty theo cách riêng.
Theo EMH những khoản thu nhập dài hạn sẽ chỉ được phản ánh đầy đủ vào giá
của cổ phiếu tức cổ tức hiện tại. Nếu điều này là đúng, dự án đầu tư dài hạn
không làm suy giảm giá cổ phiếu có rủi ro và công ty sẽ trở thành người tiếp
quản kế tiếp.
Ý nghĩa của EMH là không có hành vi mặc cả giá cả để có được khả
năng tiếp quản hoặc mua lại thị trường. Từ đó suy ra, sẽ không có các công ty
có giá cổ phiếu thấp khi thị trường đi xuống, để từ đó nhà đầu tư nhận ra những

giá trị của các khoản lợi nhuận trong tương lai. Sẽ có công ty có giá cổ phiếu
thấp vì tài sản tiềm tàng của họ thấp. Điều này có thể là do nhà quản lý đã
không nắm bắt thời cơ trong quá khứ hay kịp phản ứng trước sự thay đổi của thị
trường, hoặc là kết quả của vô số nguyên nhân khác. Với giá cổ phiếu thấp, các
công ty như vậy sẽ là mục tiêu tiếp quản cho các doanh nghiệp khác mà người
quản lý nghĩ rằng họ có thể làm tốt hơn. Nhưng chúng sẽ không được “mua”
với “giá rẻ”; chúng sẽ được định giá một cách chính xác. Các nhà tiếp quản
mong muốn có một thị trường vốn hoạt động hiệu quả. Trong những trường hợp
này, việc tiếp quản là cách để cải thiện việc quản lý và quan trọng là việc phân
bổ nguồn vốn.
Nếu chúng ta kết luận rằng hiệu quả kinh tế ở Anh là kém vì sự tập trung
vào những quyết định đầu tư ngắn hạn của các doanh nghiệp, dưới đây là một
số giải pháp tiềm năng mà họ tự đề xuất, tuy nhiên không phải là không có khó
khăn.

Trang | 9


Nếu vấn đề nằm ở bản thân các công ty hơn là với hệ thống tài chính,
biện pháp khắc phục dường như là việc cho các nhà quản lý những chuỗi ưu đãi
khác nhau (dài hạn) hoặc giao nhiều quyền lực hơn cho các nhóm có lợi ích lâu
dài. Trong những năm gần đây, điều này đã trở nên khá phổ biến đối với các nhà
quản lý cấp cao, ít nhất là với các tập đoàn lớn, để có tiền lương, tiền thưởng
liên quan đến hoạt động cổ phiếu của công ty họ. Tuy nhiên, thành công của
cuộc thử nghiệm này thường là những gì đã xảy ra với cổ phiếu trong một hoặc
hai năm vừa qua. Ngược lại, nếu thù lao quản lý có liên quan đến giá trị trung
bình của công ty, thì trong một khoảng thời gian 5-7 năm, các nhà quản lý có
thể có nhiều động lực hơn để nhìn vào hiệu suất dài hạn của công ty. Giao nhiều
quyền hành hơn cho các giám đốc phi điều hành - những người này có thù lao
không liên quan đến hiệu suất công ty, lại là một khả năng khác. Họ sẽ có một

quan điểm về kế hoạch đầu tư lâu dài, nhưng quan điểm này đang gây tranh cãi
ở chỗ họ hứng thú với cả hiệu suất dài hạn lẫn hiệu suất ngắn hạn.
Cổ đông cũng được khuyến khích để có một vai trò tích cực hơn trong
quản lý. Trong thực tế, điều này sẽ đòi hỏi các các cổ đông lớn đảm trách một
vai trò tích cực hơn. Để làm được điều này, họ cần phải thuê thêm nhân viên có
kỹ năng thích hợp - những người này sau đó sẽ được bình chọn vào hội đồng
quản trị công ty. Điều này sẽ liên quan đến chi phí bổ sung và nó cũng có thể
gây ra khó khăn theo pháp luật hiện hành trong đó cấm hình thức mua bán tay
trong. Theo luật pháp, NDTIs sẽ có một đại diện thanh toán cho hội đồng quản
trị, có thể bị buộc tội vì có thông tin nội bộ về công ty và sau đó có thể bị cấm
giao dịch cổ phiếu của công ty. Điều này ngăn chặn những mục đích xấu.
Nếu ai nghĩ rằng hoạt động của những người thích đầu tư ngắn hạn là bắt
buộc các công ty khác dựa trên hệ thống tài chính, thì biện pháp khắc phục phải
nằm ở sự đổi mới, điều mà làm chậm hoặc ngăn cản sự giao dịch thường xuyên
của các cổ phần trong một công ty. Điều này thường được mô tả như là "đưa cát
vào bánh xe”. Ý kiến của Ủy Ban cạnh tranh là trao quyền mạnh hơn để ngăn
cản hoạt động mua lại và sáp nhập của công ty. Tại thời điểm này, các thành
Trang | 10


viên của Ủy Ban chủ yếu quan tâm tới những gì mà một công ty sáp nhập sẽ
làm để cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Tiêu chí để đánh giá là đơn giản hợp lý : những số liệu thống kê của thị
trường tập trung là có sẵn. Rất khó đưa ra các tiêu chí để đánh giá việc hợp nhất
giữa những lợi ích lâu dài với việc sản xuất của công ty. Ngoài ra, có 1 đề xuất
khác liên quan đến thuế trong việc giao dịch cổ phiếu. Phương án này sẽ kéo chi
phí trong giao dịch tăng lên, điều này được lập luận sẽ làm các thương nhân
nắm dữ cổ phiếu trong thời gian dài. Một số lập luận trái chiều cho rằng đó là
“sự trừng phạt” đối với thị trường trong nước. Các giao dịch cổ phiếu sẽ được
chuyển đến các nơi mà có mức thuế thấp hoặc không có thuế; và điều này sẽ

làm giảm khối lượng cổ phiếu cũng như làm giảm tính thanh khoản của cổ
phiếu thậm chí có thể các cổ đông sẽ đòi hỏi lợi nhuận cao hơn khi nắm giữ các
cổ phiếu này. Viêc giảm khối lượng giao dịch cũng có nghĩa là có ít người mua
và cả người bán tại bất kỳ thời điểm nào, việc này sẽ làm giá cả sẽ biến động
hơn so với hiện tại. Để giữ vòng quay này có lẽ phải mất nhiều công sức, nhưng
lợi ích của việc này thì có giới hạn bởi hiệu quả cảu thị trường chứng khoán bị
giảm đi một phần.
12.1.2

Tính loại trừ của thị trường tài chính
Thị trường này là thị trường mà nó không thể cung cấp các dịch vụ ngân
hàng cho người không có thu nhập. Trong nhiều năm gần đây, chính phủ Mỹ đã
lo ngại về sự lớn mạnh của sự loại trừ những bộ phận có thu nhập thấp thế này –
sự loại trừ bao gồm một số lượng người đáng kể từ các dịch vụ tài chính như: từ
các nguồn cụ thể trong tín dụng, bảo hiểm, hóa đơn thanh toán và tài khoản tiền
gửi. Mọi người có thể bị hạn chế đối với các chính sách và các hành vi tài chính
của các ngành công nghiệp; hoặc có thể là tự loại trừ mình ra vì các loại sản
phẩm tài chính có sẵn hoặc giả định từ những hành vi của các đơn vị tài chính.
Điều này không áp dụng trong các dịch vụ tài chính bởi vì họ lo ngại rằng sẽ bị
từ chối. Một bộ phận người nghèo trong xã hội, các bậc cha mẹ, những người
khuyết tật, người thất nghiệp và những người lương thấp là có thể bị vướng vào
Trang | 11


các điều khoản loại trừ tài chính nhất. Đối với họ, điều khoản loại trừ tài chính
là một góc nhìn của những đối tượng đang gặp thiếu thốn nói chung – “một yếu
tố chính trong điều khoản loại trừ”. Tuy nhiên, các điều khoản này không chỉ
giới hạn cho người nghèo. Có thể có nhiều vấn đề xảy ra, đối với dân tộc ít
người cũng như là đối với những người không đủ khả năng sử dụng tín dụng
của các tổ chức tài chính trong việc đánh giá rủi ro. Theo điều tra về gia đình và

nguồn lực sẳn có của họ (FRS) thì từ năm 2001-2003 chỉ ra rằng trong 1, 9 triệu
hộ gia đình thì có tới 2, 8 triệu người lớn không có bất kỳ tài khoảng nào. Ước
tính có khoảng 3 triệu hộ gia đình (chiếm 12% trên tổng dân số ở Anh) thiếu tài
khoảng vãng lai. Theo nghiên cứu của FSA thì có tới 27% người lao động
không có nghề nghiệp hoặc lương hưu. Có tới một phần tư hộ gia đình không có
bảo hiểm nhà ở và 45% không có bảo hiểm cuộc sống.
Một số người bị hạn chế trong 1 vài dịch vụ tài chính cũng phải chịu 1
khoản phí cho việc bị loại trừ khỏi dịch vụ này:


Nó bác bỏ khả năng vay nợ của họ, do đó để sắp xếp vấn đề tài chính một
cách nhanh nhất, họ buộc phải vay từ các nguồn không chính thức, với lãi

suất có thể là rất cao.
• Nó từ chối việc giảm giá trên những hóa đơn có sẵn để mọi người có thể


thanh toán bằng cách ghi nợ trược tiếp.
Nó làm giảm đáng kể khả năng hợp tác với những hộ gia đình, những

người đang rất khẩn cấp vì họ thiếu bảo hiểm
• Nó làm giảm đáng kể khả năng tạo ra những kế hoạch trong tương lai đối
với tuổi già và bệnh tật.
Bởi vì các điều khoản loại trừ tài chính được tập trung bởi các nhóm cụ
thể và theo địa lý, nhưng cả cộng đồng lại bị thiệt hại vì điều này. Một trong
những sự chỉ trích chính trong hệ thống ngân hàng liên quan đến điều khoản
loại trừ tài chính đã dẫn đến hàng loạt chi nhánh ngân hàng đóng cửa, phần lớn
là ở các khu vực nghèo trong nước.

Trang | 12



Một nghiên cứu của đại học Nottingham công bố trong khoảng thời gian
đầu năm 1995 đến 2003 đã có tới 4041 chi nhánh trên toàn Vương quốc Anh bị
đóng cửa, và chỉ có 1074 chi nhánh mới được mở ra. Phần lớn các chi nhánh bị
mất được đặt lại trong các khu đô thị nghèo. Báo cáo cho rằng những người mà
làm tại các chi nhánh bị đóng cửa phải đối mặt với những chi phí lớn và có cảm
giác bị bỏ rơi, hơn nữa việc thiếu các dịch vụ lưu trữ, thiếu các giao dịch làm
ảnh hưởng chủ yếu đến các doanh nghiệp địa phương. Việc đề nghị đóng cửa
các chi nhánh đe dọa sẽ tạo khoảng cách lớn giữa giàu và nghèo.
Xu hướng đóng cửa các ngân hàng đã xảy ra, vì các ngân hàng làm việc
mà không thu được lợi nhuận từ hoạt động cung cấp các tài khoản vãng lai. Các
khoảng lợi nhuận cao thu được từ các hoạt động mở tài khoản cho khách hàng
về các dịch vụ có lợi nhuận cao – cho vay tín dụng, bảo hiểm, đầu tư…. Cụ thể,
với những người thường sữ dụng tài khoản tín dụng thì thường sẽ tiết hiệm ít
hơn so với những khách hàng tiềm năng muốn vay vốn của ngân hàng va có lợi
nhuận cao hơn nhóm người kia thì họ lại không thấy được sự thu hút từ ngân
hàng mang lại. Một giải pháp được đặt ra là yêu cầu chính phủ và các ngân
hàng cung cấp các tài khoản ngân hàng cơ bản, cho phép khách hàng thanh toán
tiền lương và quyền lợi được ghi nợ trực tiếp. Việc khách hàng rút tiền thông
qua các cây rút tiền nhưng không cần phải ghi chép, điều này giảm thiểu các
vấn đề về rủi ro vỡ nợ cho các ngân hàng cũng như làm giảm trường hợp chủ tài
khoản không quản lí về vấn đề tài chính của họ từ đó tránh được tình trạng mắc
nợ. Có mười bảy nhà cung ứng các tài khoản ngân hàng bao gồm cả những
ngân hàng hàng đầu. Kể từ tháng 4 năm 2003, có khoảng 1, 3 triệu tài khoản
được mở, nhưng gần đây số tài khoản đã giảm một lượng ổn định mỗi năm,
điều này cho thấy các nhà cung cấp đã ít công khai thông tin hơn về khả năng
để mở tài khoản.

Trang | 13



Thay thế cho các tài khoản ngân hàng cơ bản, nay đã có loại tài khoản là
tài khoản thẻ Post Office, tài khoản này cho phép khách hàng những người có
lương hưu, hay lợi ích từ nhà nước có thể thanh toán và ghi lại vào tìa khoản
thông qua các máy tại các chi nhánh bưu điện.

Trang | 14


12.1.3

Hệ thống tài chính và các khoảng tiết kiệm dài hạn
Có các nhóm chỉ trích khác nhau về việc hệ thống tài chính đã thất bại
trong việc cung cấp các sản phẩm và các dịch vụ mà những sản phẩm đó
khuyến khích người dân thực hiện tiết kiệm trong thời gian dài. Các vấn đề
thiếu tiết kiệm cũng như đưa ra các gợi ý cải cách đã được Ronald Sandler
nghiên cứu và báo cáo trong năm 2002. Những kết luận quan trọng về phạm vi
cung cấp các sản phẩm đã được đưa ra, nhưng với những vấn đề khác, quá rộng
và cũng rất phức tạp. Điều lo lắng là các hộ gia đình sẽ không thể đưa ra những
lựa chọn tốt nhất, Sandler nhận định họ đã không thực hiện bất kỳ sự lựa chọn
nào cả, và để giải quyết vấn đề này ông đã đưa ra hàng loạt các chương trình tiết
kiệm và lương hưu mang tên Sandler, sản phẩm này đã được kho bạc giới thiệu
vào tháng 4 m 2005, chi tiết được đặt ra trong khung 12. 1 như sau :

Khung 12.1

Sản phẩm Sandler
Các sản phẩm liên quan (cũng được biết đến là sản phẩm sandler) là
sự tiết kiệm và đầu tư cho sản phẩm nhằm vào những người có thu

nhập thấp, những người mà có hiệu quả giá thành vượt ra khỏi thị
trường đầu tư và (hoặc) những người đã thấy được có quá nhiều
phức tạp và sự lựa chọn của các sản phẩm hiện có, vốn đã có quá
nhiều khó khăn. Đây là những sản phẩm được thiết kế và cung cấp,
từ tháng 4 năm 2005, dưới sự phê duyệt bởi các tổ chức tài chính. Để
xác định như là " Các sản phẩm liên quan "họ phải đáp ứng một số
điều kiện quy định bởi chính phủ Anh. Mục đích của những điều
kiện này là làm cho các sản phẩm giá rẻ, dễ hiểu và dễ sử dụng, và
minh bạch, từ đó khuyến khích các hộ gia đình tiết kiệm trong trung
và dài hạn đồng thời tham gia đầy đủ hơn vào thị trường tài chính
(để trở thành, nói cách khác, “các bên liên quan” trong nền kinh tế
về điều khoản quyền sở hữu của tài sản tài chính). Các sản phẩm tự
Trang | 15


nó không được cung cấp hoặc được đảm bảo bởi bất kỳ ý nghĩa nào
của chính phủ. Các nhãn “ Các sản phẩm liên quan” chỉ đơn giản là
cung cấp thông tin rõ ràng về những gì các nhà đầu tư có thể mong
đợi từ các sản phẩm và cho phép so sánh dễ dàng hơn trong chuỗi
các sản phẩm có sẵn.
Có bốn loại sản phẩm liên quan:





Tài khoản tiền gửi bằng tiền mặt của các bên liên quan;
Quỹ tín thác trẻ em của các bên liên quan (ctfs)
Lương hưu của các bên liên quan;
Các sản phẩm đầu tư trung hạn của các bên liên quan. Chúng đôi khi được chia

thành: (i) Sản phẩm đầu tư trung hạn (MTIPS); và (ii) Sản phẩm đầu tư trung hạn
đồng nhất (sản phẩm đầu tư được làm đồng nhất ở chổ mà khi cổ tức trong
những năm hoạt động tốt được trả vào một tài khoản đồng sẽ được sử dụng để
đầu tư trở lại trong những năm kinh doanh không khả quang).

Trang | 16


Các điều kiện chính phải được hoàn thành trước bất kỳ sản
phẩm nào có thể được gọi là “sản phẩm của các bên liên quan, liên
quan đến, trong điều khoản chung để:


Rẻ - phí phải là thấp (không có chi phí trong trường hợp nộp tiền
mặt các bên liên quan vào tài khoản; trong trường hợp MTIPS, phí
phải được giới hạn đến 1,5 phần trăm mỗi năm trong mười năm đầu



tiên và 1 phần trăm cho những năm sau đó) ;
Sẵn sàng phục vụ người có thu nhập thấp - các khoản tiền gửi tối
thiểu hoặc đầu tư phải thấp (10 bảng cho tài khoản tiền gửi; 20 bảng
MTIPS); chủ tài khoản phải có khả năng thực hiện rút tiền không
giới hạn và các khoản tiền thu hồi phải được thanh toán cho họ trong



vòng bảy ngày;
Giá trị và an toàn - lãi suất trên tài khoản tiền gửi phải hợp lý (các
tỷ lệ tối thiểu là 1 phần trăm dưới đây của Ngân hàng Anh dựa trên

lãi suất cơ bản và cần đáp ứng kịp thời để tăng tốc độ đó); Sản phẩm
đầu tư không nên quá mức nguy hiểm (nhỏ hơn 60 phần trăm của



một quỹ nên được đầu tư vào tài sản rủi ro như cổ phiếu);
Dễ sử dụng - quỹ có thể được nộp vào tài khoản tiền gửi hoặc đầu tư
trong một loạt các cách (tiền mặt, séc, thẻ ghi nợ trực tiếp, đứng thứ
tự hoặc trực tiếp từ tiền lương).



Minh bạch - giá mà tại đó các đơn vị hoặc cổ phần trong một quỹ
MTIP được các bên liên quan được mua và bán phải giống nhau, và
giá cả sẽ được công bố liên tục hàng ngày; người quản lý phải thể
hiện rõ ràng chính sách đồng nhất.

Trang | 17


Tuy nhiên, cho đến bây giờ, ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính đã bỏ qua phần lớn các sản phẩm này. Chỉ một năm sau khi
ra mắt các sản phẩm, Dịch vụ Tài chính (FSA) đã công bố kết quả
của một cuộc điều tra về lý do tại sao các sản phẩm đã không
được đưa ra thị trường. Đối với nhóm ngành công nghiệp, các sản
phẩm không thu hút được nhà cung cấp nguyên vật liệu vì giới
hạn thấp trên những chi phí có thể được áp dụng. Các hiệp hội
trong lãnh vực công nghiệp kết hợp với hiệp hội tư vấn tài chính
độc lập (AIFA), cho rằng chi phí ban đầu là cao đối với người
tham gia đầu tư vào sản phẩm và sẽ giảm giá vì số lượng lớn. Việc

cung cấp lời khuyên và giới thiệu sản phẩm đó cho người tham
gia đầu tư sẽ trở thành việc đáng làm nếu các cố vấn tài chính tin
rằng sẽ có lợi ích lớn từ những sản phẩm này. Tuy nhiên, điều này
vẫn không được thực hiện vì đối với những nhóm đối tượng này,
họ không hề được đào tạo gì về tài chính. Vấn đề sau đó là quyết
định làm thế nào để tiến vào vòng tròn này; nó dường như khép
kín vì thiếu kiến thức và thông tin, mức tiết kiệm và sự sáng tạo
trong sản phẩm đó thấp; đặc biệt là nó tạo ra sự khuyến khích
người dân tiết kiệm và đầu tư vào vấn đề khác.

Vấn đề về tiền trợ cấp lương hưu đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trong
suốt thời gian 1980 đến nay. Như đã đề cập ở chương 4, tiền trợ cấp lương hưu
có thể được trả hoặc sử dụng vào các khoản phí bảo hiểm. Ở trường hợp tiền trợ
cấp hiện thời được đài thọ từ sự chuyển giao những gì có sẵn trong công việc
hiện thời. Với cơ cấu dân số già và tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng
cao hơn, bảo hiểm sẽ thực hiện kế hoạch về phí bảo hiểm; khi đó phí bảo hiểm
là các khoản đóng góp từ những người có công ăn việc làm (thường dưới dạng
thuế) là một khoảng quá lớn. Như đã được giới thiệu ở phần 4.2, bắt đầu vào
năm 1988, quy tắc pháp chế đã được lập ra để khuyến khích mọi người lập ra kế
Trang | 18


hoạch trợ cấp tư nhân, dành riêng cho họ. Nhưng kết quả này dẫn đến việc bán
ra nhiều sản phẩm trợ cấp khác và nó trở nên không phù hợp với người gửi tiết
kiệm. Cuối cùng, việc đền bù sẽ được thoả thuận giữa người mua và người bán
nhưng phải lâu lắm người mua mới được thanh toán (xem chương 13). Với rắc
rối này, nó sẽ làm mọi người không muốn rút khoản tiền tiết kiệm, và có xu
hướng sẽ gửi khoản tiền đó trong lâu dài. Nếu rắc rối bắt đầu bằng kế hoạch về
phí bảo hiểm vào những năm 1980, thì rắc rối này kéo dài cho tới thập niên 90.
Vấn đề quan trọng của mô hình này là xác định lợi ích của nó. Mục đích của kế

hoạch là tích luỹ vốn đầu tư đủ lớn để làm nguồn quỹ; từ đó họ có thể bảo đảm
được tiền trợ cấp từ việc xác lập tỉ lệ lương khi về hưu. Với sự sụt giảm lớn
trong thị trường chứng khoán vào năm 2001 và 2002, tuy nhiên nhiều quỹ hưu
trí đột ngột tiết lộ “black holes – hố đen” lớn - theo thống kê ước tính rằng giá
trị hiện tại tài sản của quỹ hưu trí là thấp hơn nhiều so với tài sản và nghĩa vụ
tương lai của chúng. Công nhân và công đoàn không đồng tính với những hành
động: công ty sẽ giảm hoặc tạm hoãn đóng góp cơ bản của họ cho quỹ hưu trí là
để làm cho quỹ trở nên thặng dư khi giá cả trong tương lai sẽ cao.
Trong trường hợp của công ty, sự thâm hụt lớn vào quỹ hưu trí thường có
tác động đến giá vốn, trên định giá - cho việc tính toán tiếp quản, và trên khả
năng của công ty để gây quỹ cho phát triển trong tương lai cũng như việc phát
hành cổ phiếu và cho vay. Dĩ nhiên là công ty cố gắng đậy lỗ hổng này bằng
việc thêm tiền vào quỹ bằng một khoảng nhỏ của lợi nhuận. Cho tới khi dòng
tiền từ những tài sản của quỹ đủ để trả được các khoản nợ hiện nay, công ty sẽ
chọn cách là không làm gì và hy vọng rằng vấn đề sẽ được giải quyết thông qua
giá của cổ phần cao hơn và mức lãi suất trong tương lại.
Tuy nhiên, vấn đề đặc biệt sẽ phát sinh khi công ty ngưng hoạt động.
Thiếu thốn trong quỹ hưu trí của công ty có nghĩa là tất cả tiền trợ cấp cho nhân
viên không thể được thanh toán và sự hy vọng của nhân viên về lương hưu của
mình là không thể thực hiện. Vì vậy chính phủ buộc lòng phải hỗ trợ cho quỹ
hưu trí với việc xác định rõ lợi ích từ sự hổ trợ này mang lại nhưng quỹ sẽ bị
Trang | 19


ảnh hưởng dưới những điều khoản của Pension Act 2004. Do vậy Protection
Fund (PPF) đã được thiết lập. Nó được thành lập dựa trên quy định của công ty
với chức năng cung cấp đền bù cho đối tượng thích hợp của kế hoạch khi nguồn
quỹ không đủ để trợ cấp lợi ích, khi công ty bị vỡ nợ. PPF thành lập và hoạt
động vào ngày 6 tháng tư năm 2005 và chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp vừa bị
vỡ nợ. PPF sẽ là tài trợ chủ yếu bằng khoản thu hàng năm bắt buộc áp dụng trên

tất cả các kế hoạch trợ cấp đủ điều kiện. PPF cũng có thể can thiệp để hỗ trợ
công ty cải tổ ngăn chặn tình trạng vỡ nợ vì thâm hụt kế hoạch trợ cấp. Phần
12.2 cung cấp minh họa muôn hình vạn trạng cho vấn đề quỹ hưu trí.

Khung 12.2

Hỏi đáp về vấn đề quỹ hưu trí
Chúng ta nhìn vào hai câu trả lời khác nhau để hiểu được khó khăn
cũng như tiềm năng trong việc xác định rõ lợi ích trong kế hoạch trợ
cấp

Tái cấu trúc dựa vào sự giúp đỡ của PPF:
Vào tháng 5 năm 2006, Pittards, doanh nghiệp kem chống nắng Yeovil
với 240 nhân viên, trở thành công ty đầu tiên còn sống sau khủng hoảng
tài chính với sự giúp đỡ của PPF. Công ty có kết toán mức thâm hụt 39. 2
triệu bảng Anh trong các kế hoạch trợ cấp, đủ lớn để được xem như
chướng ngại vật không vượt qua được cho tương lai phát triển của doanh
nghiệp. Có vẻ như doanh nghiệp sẽ bị áp lực trong việc giải quyết những
rắc rối đó. Và Yeovil đã phải tái cấu trúc công ty; PPF mua cổ phần của
doang nghiệp là 18.5%. Điều này đã là vốn cổ phần của công ty tăng
thêm 2 triệu bảng Anh bổ sung qua việc đặt cổ phần ở công ty đầu tư
Thụy Điển. Cổ đông sáng lập được dao động từ 29% đến 3% nhưng
doanh nghiệp có thể tiếp tục trao đổi mua bán. Để biết thêm chi tiết xem:
David Blackwell, “Protection fund giúp Pittards sống sót sau khủng
hoảng “, thời báo tài chính, ngày 22 tháng 5 năm 2006.
Trang | 20


Kiên quyết tiếp tục với hy vọng tương lai sáng sủa h ơn –
USS (Universities Superannuation Scheme):

Theo chuyên gia định giá, trong tháng 3 năm 2005 thì chương trình hưu
trí của USS, nguồn quỹ lớn thứ 2 ở Vương quốc Anh, cho thấy 1 sự thâm
hụt gần 6.6 tỉ bảng Anh (tài sản chỉ 21 tỉ, trong khi nợ 28.3 tỉ). Trong sự
thâm hụt này, một phần là do quỹ nắm 80% tài sản dưới dạng vốn cổ
phần, trái với những lời khuyên rằng việc chi trả cho những người hưởng
lương hưu hiện tại nên được thực hiện từ lợi nhuận sinh ra từ trái phiếu
và tài sản bởi vì chúng đại diện 1 sự cạnh tranh công bằng trong chi tiêu.
Trong trường hợp của USS, điều này có thể suy luận rằng việc nắm giữ
trái phiếu và tài sản vào khoảng 35% tổng tài sản. Kết quả này có ý nghĩa
là USS bị tác động mạnh bởi sự yếu đi của thị trường vốn. Mặc dù có sự
thâm hụt lớn, nhưng những người quản lý quỹ đã quyết định không tăng
sự đống góp của quỹ phúc lợi với nỗ lực để trả lại sự cân bằng cho quỹ.
Họ cho rằng không có nguy cơ vỡ nợ vì lợi nhuận từ tài sản đủ để thực
hiện trách nhiệm trả nợ hiện tại. Họ chọn cách đặt vận mệnh của mình
vào sự phục hồi giá của vốn cổ phần. Tất nhiên, giá của vốn cổ phần tăng
mạnh những năm sau đó và cuối cùng vào cuối tháng 3 năm 2006, những
khoản thâm hụt đã biến mất. Thật không may là giá của vốn cổ phần một
lần nữa quay đầu giảm ngay sau đó. Cách mà người quản lý quỹ áp dụng
đã gây ra sự tranh chấp và tạo nên nghi ngờ về tác động mà những vấn
đề của USS sẽ có ở trình độ cao hơn.
Muốn biết thêm thông tin, hãy theo dõi John Plender, “USS punt
could determine UK Universities”, thời báo tài chính, tháng 5, 2006 và
những điều liên quan sau đó bảo vệ vị trí của USS.

Trang | 21


Trong tương lai, nhiều công ty đã bắt đầu kết thúc những chương trình
xác định lợi ích (DB) đối với những nhân viên mới và thậm chí trong những
trường hợp thay đổi chương trình này bằng sự đóng góp đã được ước tính ở

mức cơ bản và cả những nhân viên cũ cũng phải hưởng những chính sách tương
tự (công ty tàu thủy Maerks là ví dụ đầu tiên năm 2002). Một lần nữa, Uy tính
của chương trình tiết kiệm dài hạn bị tổn hại trong mắt công chúng.
Sự xuất hiện của quỹ bảo vệ phúc lợi PPF làm cho những người
tham gia vào quỹ phúc lợi của công ty không mấy thoải mái, những công ty đó
bắt đầu vỡ nợ trong năm 2001 và 2005; và sau đó được phát hiện là có những
vướng mắt trong quỹ phúc lợi của những công ty này. Đến bây giờ, chính phủ
đã hủy tất cả sự hỗ trợ cho những người công nhân nghỉ việc mà không có tham
gia chương trình lương hưu này.
Một trường hợp khác hoàn toàn, có một sự kiện làm lộ kết quả ra
trong khi thị trường cổ phiếu lũng đoạn giai đoan 2000-2002, là việc bán những
hợp đồng thế chấp. Những hợp đồng thế chấp gộp này là những khoản nợ dài
hạn được vay cho mục đích mua nhà. Tuy nhiên thay vì trả tiền hằng tháng cho
khoản vay và lãi suất, người mượn lại chỉ có trả lãi mà không trả vốn. Tổng số
tiền mượn vẫn còn đó trong hết quãng thời gian mượn nợ. Kế hoạch chi trả cho
hợp đồng thế chấp đến cuối kì là sử dụng tiền thu được từ chính sách của bảo
hiểm nhân thọ, thời hạn kết thúc là khi thời hạn trả tiền đã hết. Chúng ta thấy ở
chương 4 là những chính sách có lợi nhuận; mang đến cho những người mua
một sự khoản tiền tối thiểu được bảo đảm cộng thêm phần chia từ lợi nhuận
hằng năm của công ty. Đối với chính hình thức này thì nó tích lũy giống như
những phần thưởng hằng năm, những cái mà được trả với mức bảo đảm tối
thiểu theo như quy định.
Một bản báo cáo nộp bởi FSA, tổ chức kiểm soát dịch vụ tài
chính, vào tháng 11 năm 2001, cho Economic Secretary của ngân hang quốc
gia, liệt kê ra một lịch trình cho việc thắt chặt luật bảo hiểm, báo cáo này nêu ra
2 vấn đề liên quan đến những hợp đồng thế chấp gộp. Vấn đề đầu tiên là lợi
nhuận (và thưởng) tăng lên theo thời gian như là kết quả của việc tăng hoạt
động kinh doanh của công ty nhưng cũng là kết quả của lạm pháp (nói cách
Trang | 22



khác, chính sách tích lũy những số liệu danh nghĩa). Trong lịch sử, bởi vì
Vương quốc Anh đã từng trải qua 1 thời kì lạm phát khá cao suốt những năm
1960 và 1980, những công ty bảo hiểm và khách hàng của họ đã quen với việc
tiền thưởng tăng lên theo 1 tỉ lệ đến 2 chữ số mỗi năm. Độ lớn của chính sách
(và phí bảo hiểm) cần để sản tạo ra số lượng mục tiêu mong muốn (kích thước
của các thế chấp) đã được tính toán trên cơ sở đó. Thật vậy, trong những năm
1990, người tiết kiệm tiền đã thế chấp các khoản hiến tặng hai mươi lăm năm
trước; thường thấy rằng chính sách cấp vốn có giá trị gấp hai lần giá trị tài sản
thế chấp khi đến hạn.
Nhưng quá khứ không nhất thiết phải là một hướng tốt cho tương lai.
Với mức lạm phát thấp và lãi suất thấp (sau năm 1995), tỷ lệ tăng trưởng lợi
nhuận đã giảm xuống khoảng 6 đến 7% mỗi năm. Vào năm 2001 rõ ràng là
nhiều chính sách đã không cung cấp được số lượng mục tiêu và nhiều nhà đầu
tư phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng trong nguồn quỹ mà họ có
vì phải trả hết thế chấp của họ. Tình hình đã trở nên tồi tệ bởi sự suy giảm thị
trường chứng khoán trong năm 2001-2002 khi một số doanh nghiệp cuộc sống
không kiếm được lợi nhuận. Với chính sách cung cấp vốn đáo hạn vào cuối năm
2002 có giả trị chỉ khoảng 2/3 số tiền thanh toán giống chính năm 1999. Kết quả
là nhiều người tiết kiệm, vào cuối tuổi trung niên của họ, mong đợi để trả hết
khoản thế chấp của họ trước khi nghỉ hưu, thấy rằng sau một đời tiết kiệm thì họ
trả được khoản nợ.
Vấn đề thứ hai là cách thức mà các doanh nghiệp tính tiền thưởng hàng
năm. Mặc dù dựa trên lợi nhuận, nhưng việc kết nối chúng lại với nhau không
phải là đơn giản; tồi tệ hơn, các công thức không công bố công khai. Hầu hết
các doanh nghiệp đều có một quá trình làm việc giống hệt nhau; có nghĩa là, họ
phân chia lại một số lợi nhuận trong những năm tốt để họ vẫn có thể bù đắp một
khoản tiền thưởng trong những năm xấu. Đây là một nỗ lực đáng khen ngợi để
giảm mức độ rủi ro phải đối mặt với các nhà đầu tư. Nhưng miễn là “quy tắc ”
(tiếp theo là tổ chức này đã) được giữ bí mật, thì rõ ràng nó đã mở đường cho sự

lạm dụng. Kết quả là sản phẩm tiết kiệm dài hạn bị mang tiếng xấu (có được
Trang | 23


một danh tiếng xấu) chỉ tại thời điểm thay đổi nhân khẩu học có nghĩa rằng
chính phủ cần nhiều hộ gia đình hơn để cam kết tiết kiệm dài hạn.
Có lập luận cho rằng, tất nhiên, là trung gian tài chính không phải chịu
trách nhiệm cho sự biến động của giá cổ phiếu. Thật vậy, đây là cách mà họ áp
dụng khi đối mặt với những lời chỉ trích từ công đồng. Tuy nhiên, vấn đề nhạy
cảm mà nằm ở trung tâm của tất cả những vấn đề này (và Sandler là một trong
số bị làm phiền) là mức độ mà mọi người hiểu thấu đáo các sản phẩm mà họ đã
mua và khả năng che giấu độ rủi ro của những đơn vị làm trung gian. Nhiều
người thế chấp các khoản hiến tặng tuyên bố rằng “họ không có ý tưởng gì về
các chính sách cấp vốn mà họ đang mua là một sản phẩm dựa trên vốn chủ sở
hữu, trong đó, có tất cả các rủi ro của việc đầu tư vào thị trường chứng khoán”.
Những người khác nói rằng họ nhận ra điều này nhưng doanh nghiệp bảo hiểm
đã nhấn mạnh tỷ lệ lợi nhuận cao mà phải chịu ràng buộc tích luỹ “ trong thời
gian dài “ bằng cách trích dẫn những lợi nhuận về chính sách đã hoàn thiện vào
những năm 1990. Phản ứng của FSA cho các yêu sách “ bán nhầm” được xử lý
tại mục 13.2.4.
Tất cả những trường hợp này là minh họa cho tầm quan trọng của kiến
thức tài chính và việc hướng dẫn một phần kiến thức cho người mua. Thật
không may, công chúng có xu hướng được ít thông tin hơn so với những người
bán hàng về bản chất của nhiều sản phẩm tài chính (một ví dụ khác của thông
tin bất đối xứng). Trong những trường hợp này, người tiêu dùng như đang bị
ràng buộc để làm cho sự lựa chọn không còn phù hợp. Đây sẽ là tồi tệ hơn, tất
nhiên, nếu người bán cố gắng để khai thác lợi thế thông tin của mình bằng cách
cố tình bán các sản phẩm không phù hợp. Nhưng sự thật vẫn là quyết định sai
lầm, tuy nhiên họ được thực hiện, có thể không được thực hiện nếu không có sự
bất đối xứng thông tin ở nơi đầu tiên. Chúng tôi trở lại trong Chương 13 để thấy

nỗ lực của chính phủ đang bảo vệ người gửi tiết kiệm từ sự thiếu hiểu biết của
họ.

Trang | 24


12.1.4

Hệ thống tài chính và nợ của hộ gia đình
Nếu với một số gia đình có xảy ra tình trạng không đủ để tiết kiệm thì
một số gia đình khác lại phải đối mặt với tình trạng nợ nần tăng lên đáng kể.
Mặc dù nợ này phần lớn nằm trong các hình thức nợ có bảo đảm (phần lớn
là vay thế chấp quyền sở hữu nhà), và những khoản nợ không có đảm bảo. Tuy
nhiên, các nghiên cứu NMG 2005 khảo sát vào tình trạng tài chính hộ gia đình
được ủy quyền bởi Ngân hàng Anh cho thấy: nợ có bảo đảm tiếp tục chiếm gần
90% của tất cả các khoản nợ của hộ gia đình.
Sự gia tăng nợ hộ gia đình đã dẫn đến một nhận thức phổ biến rằng tỷ lệ
các gia đình có thu nhập trung bình có xu hướng ngày càng tăng của đã gặp rắc
rối trong việc trả nợ, mặc dù rắc rối này từng được cho là một vấn đề chủ yếu
của người nghèo và bị thất nghiệp. Quan điểm này là được trình bày trong
nghiên cứu mà Dịch vụ Tư vấn Tín dụng Tiêu dùng đã thực hiện, một tổ chức từ
thiện được thành lập để tư vấn cho các hộ gia đình về vấn đề nợ. (xem Khung
12.3)

12.1

Trang | 25



×