Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quan điểm của đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.85 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
TÊN

TRANG

1. Lời mở đầu

2

2. Chủ trương của Đảng về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

3

3. Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

6

4. Thực trạng của Đảng về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

9

5. Kết luận

14

LỜI MỞ ĐẦU
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội lần VI của Đảng


cộng sản VIệt Nam(tháng 12-1986) đó đã để ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Hơn 20 năm đổi mới không phải là thời gian dài so với lịch sử dân tộc,
song đây là giai đoạn lịch sử có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Đảng và
dân tộc ta, nó đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức, tư duy lý luận của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ra,nó đưa đến những thành tựu rất to lớn của Đảng và nhân dân ta trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định sức sống của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta tạo ra thế và lực mới cho đất nước, tăng thêm ảnh hưởng
và uy tín nước ta trên trường quốc tế trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ. Hai mươi năm đổi mới cũng là thời gian
nhân dân ta đứng trước nhiều thử thách khắc nghiệt của lịch sử nhất là khi
Liên Xô tan rã và đã vựơt qua một cách thắng lợi. Đây cũng là thời kì nhiều


vấn đề to lớn về quy mô, về tầm vóc, về tính phức tạp cũng như về tính mới
mẻ chưa có tiền lệ trong lịch sử đặt ra cho Đảng ta. Những vấn đề này vừa
mang tính thực tiễn, vừa mang tính lý luận sâu sắc cần phải được tổng kết,
được soi sáng khái quát về mặt lý luận. Đó cũng chính là nhiệm vụ tổng kết
đường lối và làm sáng tỏ hơn quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ra để chuẩn bị cơ sở lý luận cho sự phát triển
đất nước trong giai đoạn tiếp theo. Trong bài tiểu luận này em muốn nói làm
rõ nhận định của Đảng “Quan điểm của đảng về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay”. Em mong rằng sau đề tài mình
làm, em có thể hiểu rõ hơn về quan điểm mà chúng ta đang đi, nhận thức về
nó rõ sâu sắn hơn sẽ có thể hiểu được nhiệm vụ mà cả nước ta phải làm, con
đường mà chúng ta phải vượt qua .Kiến thức của em vẫn còn hạn chế , nên
không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em mong sự giúp đỡ của cô để bài
làm của em trở lên hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.


Phần Nội Dung
I. Chủ trương của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay :
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá
trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng
trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói
riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý
luận, chính trị gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước
pháp quyền. Đề xuất này đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng
từ không ít người. Khi đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản,
một số người đã cho rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền là từ bỏ chủ
nghĩa xã hội. Cũng có người đặt vấn đề, khi đề cập tới nhà nước kiểu mới,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không hề nói tới nhà nước
pháp quyền và do vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền trong chủ nghĩa xã
hội là không theo quan điểm của các nhà kinh điển, v.v.. Sự xuất hiện những
ý kiến như vậy trong giai đoạn đầu cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước xã
hội chủ nghĩa cũng là điều dễ hiểu.
Một mặt, vấn đề nhà nước pháp quyền tuy không phải là mới, nhưng
phải nói rằng, trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề này chưa được
quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức. Sự chuẩn bị về mặt lý luận để xây


dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới chỉ là bước đầu, chưa có sự
chín muồi cần thiết, những ý kiến đề xuất mô hình nhà nước pháp quyền vẫn
chỉ trên sách báo. Mặt khác, đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị đòi hỏi
cũng phải có thời gian. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực không chỉ mang tính “nhạy
cảm cao”, mà còn là lĩnh vực mà sự thay đổi không phải “một sớm một
chiều”. Đó là chưa nói đến tư duy giáo điều còn ảnh hưởng không nhỏ đối

với cả giới nghiên cứu lý luận lẫn những chính khách ở các nước xã hội chủ
nghĩa.
Trong học thuyết chuyên chính vô sản, đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen
chưa sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng những tư tưởng cốt
lõi về nhà nước pháp quyền lại được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc trong
các chủ trương xây dựng nhà nước kiểu mới, chế độ dân chủ mới, chế độ
dân chủ vô sản. Đó là chủ trương xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp; là
nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất, dân chủ “do nhân dân tự quy
định”; là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân, từ “nhân dân
của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Đó là chế độ dân chủ xuất
phát từ con người và pháp luật cũng vì con người. Đó là nhà nước đảm bảo
cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”. Nhà nước đó xây dựng và phát triển một xã hội có khả năng tạo ra
những điều kiện cơ bản để “giải phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội
sẽ không thể giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân
riêng biệt”… Những tư tưởng cốt lõi đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được
V.I.Lênin vận dụng và phát triển trong sự phân tích, đánh giá nhà nước tư
sản, chế độ cộng hoà dân chủ tư sản, cũng như trong thực tiễn lãnh đạo nhân
dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm
nét ở Hồ Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách
mạng. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân
chủ thực sự theo phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Chính phủ là
chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa với dân: “Việc gì có lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Đó là
một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ quan nhà nước
đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và chịu sự
kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân

dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người
viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của
nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”. Tư tưởng


nhà nước pháp quyền của Người còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng nhà
nước hợp hiến, hợp pháp ngay trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân
treo sợi tóc”. Chỉ một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ
lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế độ nhà nước cách
mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân chủ.
Tuy nhiên, có thể nói, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến
tranh, nội chiến, quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có
phần cực đoan khi đối lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước
xã hội chủ nghĩa, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi
mô hình nhà nước pháp quyền là mang tính tư sản…, nên ở nhiều nước xã
hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, việc nghiên cứu và vận dụng một cách có
ý thức (chủ động, tự giác) mô hình nhà nước pháp quyền có nhiều hạn chế,
nếu không muốn nói là có thời kỳ bị lãng quên. Đó là một trong những
nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa trở thành “có vấn
đề”. Dân chủ mang nặng tính hình thức; tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều hành
xã hội chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi
pháp luật thì bị coi nhẹ.
Chính vì vậy,vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các nước
xã hội chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới tư
duy về chính trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền
của Đảng ta ngày càng đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính
trị là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp

quyền cũng ngày càng cao hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước đã
manh nha một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định
“quản lý nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan
tâm xây dựng pháp luật; từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp
luật. Đến Đại VII, quan điểm đổi mới Nhà nước đã được bổ sung thêm nội
dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”.
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi
mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có
những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền


xã hội chủ nghĩa mới được Đảng ta chính thức khẳng định và thuật ngữ
“Nhà nước pháp quyền” cũng mới lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện
của Đảng.Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường ở nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong
lịch sử, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm
tòi, rút kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải thận trọng trong
quyết định, cũng như trong tiến hành thực hiện. Trong Văn kiện Đại hội VIII
(1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước pháp quyền như một trong năm
quan điểm cần quán triệt trong quá trình tiếp tục cải cách, đổi mới Nhà
nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến
Đại hội IX, qua tổng kết những thành tựu nghiên cứu lý luận, cũng như thực
tiễn từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã coi “xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một
nhiệm vụ mang tính chiến lược và xuyên suốt trong quá trình “đẩy mạnh cải

cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế”. Trong Văn kiện Đại hội X, khi tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi
mới, Đảng ta không những tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền, mà còn ghi nhận điều chúng ta “có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản” là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng.

II. Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn
quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là
của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ
chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp
luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không
cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò
của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong


đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những
người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng
định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu
cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp
quyền trong lịch sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá
cao giá trị nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư
sản đã cống hiến cho nhân loại. Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh

toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Do vậy, cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng như những đặc trưng
của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn
thiện nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để
từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận
thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu
dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của
xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn
đề có tính nguyên tắc sau:
Thứ 1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân
lập nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan
nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân
chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức

(kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp
luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình.


Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ
khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất
cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã
hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề
cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ 2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu
của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong
nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước,
nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện
dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải
quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.Quyền lực nhà nước ở nước ta
là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu chung
phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ
chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền
cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân.
Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có

thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định
kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia
cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ 3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ
sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và
phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những
nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập


kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Hoạt động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của
sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy
trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời
sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của
các quy định để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban
hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật. Mặc dù đã có nhiều
nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành
pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp
ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông
suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và ngang, thậm chí
còn có hiện tượng cục bộ.
III.

Thực trạng của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Khẳng định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Nhà
nước pháp quyền là một bước đột phá trong tư duy và thực tiễn xây
dựng Nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho
việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, đổi mới một
cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước
ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là ngày một,
ngày hai chúng ta có thể xác lập ngay được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Trong lý luận và cả trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết.
Đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Mô hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc
qua nhiều thế kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trong thế giới đương
đại. Tuy nhiên, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không có nghĩa là
“bê nguyên” những hình thức ấy. Ở mỗi quốc gia, nhà nước pháp quyền
cũng có những nét độc đáo riêng, tuỳ thuộc vào các đặc điểm, truyền thống
dân tộc cũng như điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Hơn nữa,
Nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta đang xây dựng là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó, về bản chất, là đối lập với nhà nước
pháp quyền tư sản. Do vậy, về nội dung pháp luật, về bản chất của pháp luật
chắc chắn cũng khác với nhà nước pháp quyền tư sản. Còn về hình thức có
thể có những nét tương đồng mà qua nghiên cứu, chọn lọc, cải biến, chúng
ta có thể kế thừa mặt này, mặt kia của mô hình này hay mô hình khác. Tuy


nhiên, đây cũng không phải là điều đơn giản, thậm chí còn là khá phức tạp
và rất nhạy cảm về chính trị. Chẳng hạn, việc có vận dụng hay không vận

dụng, vận dụng đến mức độ nào thuyết phân lập các quyền của phương Tây.
Ngay cả ở các nước tư bản, mức độ vận dụng học thuyết này cũng không
giống nhau. Điều đó không phải do có sự khác nhau về chế độ chính trị, mà
bắt nguồn từ nhiều lý do khác, trong đó có những quan niệm khác nhau về
tác dụng của sự phân quyền. Mục đích của việc phân quyền là để tránh sự
độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực,đó là mặt tích cực. Nhưng việc
phân quyền giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cũng có những mặt trái
của nó. Do vậy, ở các nước phương Tây cũng xuất hiện quan điểm cho rằng,
không nên cường điệu ý nghĩa mang tính chất lý thuyết của thuyết phân
quyền. Hơn nữa, thuyết phân quyền của phương Tây cũng không chỉ thuần
tuý ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức – pháp lý, mà còn là đặc trưng xã hội –
chính trị của nhà nước pháp quyền tư sản. Xuất phát từ những lý do đó,
Đảng ta đặt vấn đề, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
chúng ta không áp dụng nguyên xi thuyết phân quyền của phương Tây, mà
“có sự phân công rành mạch giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và
có sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện những quyền đó”. Vấn đề đặt ra
là làm sao tạo lập được những cơ chế, thiết chế phù hợp đảm bảo sự phân
công rành mạch ba quyền và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan thực
hiện quyền lực. Thiếu những cái đó khó tránh khỏi tình trạng như đã và đang
diễn ra ở những mức độ nhất định: lấn quyền, lạm quyền, vượt thẩm quyền
hoặc bỏ sót quyền, chưa sử dụng hết quyền hạn của mình...
Trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước ta, Quốc hội có vị
trí, vai trò rất lớn theo luật định. Quốc hội “được làm” nhưng có “làm được”
hay không – đó là vấn đề không nhỏ. Điều đó liên quan trực tiếp tới thiết chế
tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội. Ở nước ta, trong quá trình
đổi mới, cải cách Nhà nước nói chung, Quốc hội nói riêng, hiện cũng đang
đặt ra một số vấn đề: Quốc hội ta là quốc hội quốc dân hay quốc hội nhân
dân; hoạt động thường xuyên hay định kỳ, Quốc hội “tham luận” hay “tranh
luận”, Quốc hội chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tỷ lệ đại biểu chuyên trách và
đại biểu nghiệp dư, cơ cấu và chất lượng đại biểu; quan hệ giữa Quốc hội

với các cơ quan nhà nước khác, v.v.. Xét về mặt lý thuyết, Quốc hội ta là
quốc hội quốc dân, đại biểu cho cử tri, cho nhân dân cả nước. Chức năng đại
diện của Quốc hội ta vẫn thiên về đại biểu cho các địa phương, đại diện cho
cử tri ở đơn vị bầu cử, chứ chưa hẳn là cử tri cả nước. Điều này có liên quan
đến tổ chức bầu cử (bầu cử gắn với địa phương, và do vậy, cách giải quyết
như thế nào vẫn là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu) Quốc hội mang tính
nghiệp dư hay tính chuyên nghiệp hoá? Xung quanh vấn đề này hiện vẫn
còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nếu Quốc hội hoạt động


thường xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá thì các đại biểu mất đi mối liên
hệ trực tiếp với cử tri, với cơ sở. Dĩ nhiên, Quốc hội hoạt động thường
xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá sẽ xuất hiện những trở ngại đó, nhưng
không phải không có cách giải quyết, khắc phục. Và lại, theo kinh nghiệm
của nhiều nước cũng như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, chỉ có Quốc
hội hoạt động thường xuyên mới hoàn thành được chức năng lập pháp, mới
có đủ khả năng thay đổi, bổ sung luật, đạo luật theo kịp với yêu cầu của cuộc
sống, đó là điều cần suy nghĩ. Chuyên nghiệp hoá Quốc hội cũng là hướng
cần thiết. Đó là chưa nói đến chuyện họ phải là những người lập pháp thành
thạo, có chuyên môn sâu, hay ít nhất cũng phải có năng lực thẩm định, phản
biện, chất vấn. Vấn đề tỷ lệ đại biểu chuyên trách đã được đặt ra trong
những khoá gần đây (hiện nay tỷ lệ đó vào khoảng 30%). Đó là hướng đi
đúng, nhưng đủ chưa. Ở đây, còn phải tính đến tỷ lệ đại biểu được tái cử và
không được tái cử.
Như vậy, chỉ xoay quanh việc cải cách Quốc hội theo hướng xây dựng
Nhà nước pháp quyền cũng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề còn phải tiếp tục
nghiên cứu, thử nghiệm, thực hiện. Chính vì vậy mà cho đến nay, Đại hội X
của Đảng vẫn khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Quốc hội”.
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.

Điều khác nhau căn bản với nhà nước pháp quyền tư sản là Nhà nước
pháp quyền ở nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hơn nữa, chế độ ta là chế
độ một đảng. Nói chế độ nhiều đảng dân chủ hơn chế độ một đảng là không
chính xác, nhưng cũng phải thấy rằng, trong chế độ một đảng, Đảng lãnh
đạo như thế nào để đảm bảo dân chủ, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là
quyền lực của nhân dân cũng là vấn đề phức tạp. Đảng ta lãnh đạo Nhà nước
không có mục đích nào khác hơn là đem lại quyền dân chủ, quyền làm chủ
cho nhân dân. Nhưng, lãnh đạo như thế nào để đạt được mục đích đó là một
bài toán không dễ. Thực tiễn trong hơn 20 năm đổi mới đã cho thấy điều
đó.Không đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng thì quyền lực nhà nước sẽ bị biến
dạng, biến chất. Trong thời đại hiện nay, có nhà nước nào lại không bị chi
phối bởi một đảng hay liên minh của một số đảng. Vì vậy, nếu không đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ xuất hiện một lực lượng chính trị nào đó chi
phối quyền lực nhà nước. Nhưng Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách áp đặt,
ra lệnh, bao biện làm thay công việc của Nhà nước như trước đây thì quyền
lực của nhân dân rất dễ rơi vào tình trạng hình thức, Nhà nước sẽ trở nên thụ
động, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Đó là chưa nói đến bản thân chức
năng lãnh đạo của Đảng cũng sẽ bị giảm sút và kém hiệu quả. Hay, nói cách
khác, sẽ làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý của Nhà
nước.


Do vậy, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách
có hiệu quả, Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trên cơ sở
giải quyết đúng đắn quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách
khoa học, rõ ràng chức năng của Đảng và của Nhà nước. Đây là vấn đề
không đơn giản cả về lý luận lẫn thực tiễn. Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại
hội VI, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được một số kết quả trong
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chẳng hạn, nếu

trước đây, Quốc hội chủ yếu làm chức năng “hợp thức hoá” các văn kiện,
nghị quyết của Đảng thành quy phạm, mệnh lệnh của Nhà nước, thì hiện
nay, Đảng đã dành một không gian lớn hơn cho Quốc hội. Nhiều vấn đề,
Đảng không cho quyết định trước mà chỉ cho phương hướng để Quốc hội
giải quyết, có những vấn đề Bộ Chính trị cũng phải thay đổi khi Quốc hội có
quyết định khác. Quốc hội càng ngày càng có thực quyền hơn. Tuy nhiên,
đến Đại hội X, Đảng vẫn cho rằng, “việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, đổi mới kinh tế”. Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn được tiếp tục đặt ra. Nói về nhiệm
vụ đó, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện
hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng
lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp
và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước”.
3) Vấn đề tạo lập những điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhưng những điều kiện cho việc xây dựng đó còn có những hạn chế nhất
định. Trước hết, đó là việc chuẩn bị về mặt lý luận. Phải nói rằng, trong
những năm đổi mới, chúng ta đã có những bước khởi động và tập trung
nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết từng vấn đề, từng khía cạnh cụ thể lý luận
Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiết kế mô hình cụ thể
chưa thực sự thật chín muồi, không ít vấn đề còn phải được nghiên cứu, trao
đổi, tranh luận trên các diễn đàn, các trang sách báo. Liên quan đến lý luận
nhà nước pháp quyền còn phải nói đến một số lý luận khác, như xã hội công
dân, kinh tế thị trường. Những vấn đề này, cũng có thể nói, chưa được
nghiên cứu đủ tầm cả về bề rộng lẫn chiều sâu; hơn nữa, vẫn còn có những
quan niệm chưa thống nhất, nhất là về xã hội công dân. Nhà nước pháp
quyền được xây dựng trên cơ sở xã hội công dân. Đến lượt mình, xã hội
công dân chỉ có thể được hoàn thiện và phát triển thuận lợi trên cơ sở nhà

nước pháp quyền. Chính vì vậy, đi đôi với xây dựng nhà nước pháp quyền,


chúng ta phải tạo lập và hoàn thiện xã hội công dân. Xã hội nước ta đã là xã
hội công dân chưa, xây dựng và hoàn thiện xã hội công dân đòi hỏi những
gì? Tất cả những điều này phải có lý luận soi sáng, hướng dẫn. Hơn nữa, ở
nước ta, thực tiễn của quá trình đổi mới và xây dựng xây dựng Nhà nước
pháp quyền cũng đã xuất hiện một số vấn đề phức tạp mà lý luận chưa giải
thích được hoặc giải thích chưa có sức thuyết phục. Trong quan niệm và
quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, ranh giới giữa tính nguyên
tắc và bảo thủ, giữa tính linh hoạt, sáng tạo, tư duy mới và hữu khuynh
không phải là điều dễ dàng phân biệt rạch ròi…
Bên cạnh những vấn đề lý luận, còn phải nói đến những hạn chế về điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết,
tư tưởng nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải đến thời đại
cách mạng tư sản mới có những điều kiện để phát triển thành học thuyết và
hiện thực hoá trong thực tế. Ở nước ta hiện nay, nếu nói chưa có điều kiện để
xây dựng nhà nước pháp quyền là không đúng, nhưng phải thấy rằng, chúng
ta vẫn còn những hạn chế nhất định, chẳng hạn, về trình độ dân trí.Không
thể xây dựng một chế dân chủ cao trên một nền dân trí thấp kém được. Nói
đến trình độ dân trí, trước hết, là nói đến ý thức pháp luật, trình độ văn hoá
pháp lý. Dân chủ hiện đại đi đôi với pháp luật. Nhà nước pháp quyền nói
chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng phải xây dựng được
Hiến pháp và một hệ thống pháp luật đảm bảo tính đồng bộ, phản ánh và đáp
ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội. Từ sau Đại hội VI đến nay, công tác lập
pháp của Quốc hội nước ta đã có những tiến bộ đáng kể, nhưng so với yêu
cầu vẫn còn những hạn chế. Chúng ta vẫn còn thiếu những đạo luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội; hơn nữa, bản thân những điều luật đã có cũng cần
phải được rà soát lại.
Vì vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta vẫn yêu cầu phải “tiếp tục đổi

mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội,.. Đổi mới hơn nữa quy trình xây
dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh”. Nói đến ý thức pháp luật
còn phải nói đến trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân. Không am hiểu
luật, không thể có ý thức pháp luật cao.Nói đến trình độ dân trí còn phải nói
đến đòi hỏi dân chủ của nhân dân. Đòi hỏi dân chủ của nhân dân ta đã cao
chưa? Đây là một câu hỏi cần phải được đặt ra. Không có đòi hỏi dân chủ
cao từ phía nhân dân, từ cuộc sống không thể xây dựng chế độ dân chủ cao
được. Nhân dân ta phần lớn đang ở trong tình trạng bị động, tin tưởng, chờ
đợi từ phía Đảng và Nhà nước. Dân chủ phải là sự nghiệp của quần chúng,
phải là “tác phẩm” của bản thân quần chúng. Đảng chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhằm mục đích xây dựng một chế độ
dân chủ cho nhân dân, một chế độ dân chủ triệt để, đầy đủ và thực sự cho
nhân dân.


Muốn vậy, phải tiếp tục nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, đảng viên
và quảng đại quần chúng nhân dân.Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của
Đảng trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã có những thành tựu nhất định, song trong quá trình xây dựng cũng
nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên
cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đang là nhiệm vụ cấp bách đặt ra trước chúng ta./.

KẾT LUẬN
Tiếp tục xây dựng quan điểm của đảng về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay chính là bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước và bảo đảm thắng lợi của công
cuộc đổi mới. Nhìn từ vai trò, vị trí này, vấn đề đang bàn trở nên thật sự
sống còn và cao cả. Ðây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với toàn Ðảng,

toàn dân, trong đó có đội ngũ những người làm công tác lý luận.Chúng ta
hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ tiếp tục tiến lên phía trước trong tư duy và
thực hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chúng ta có sự lãnh đạo của Ðảng
quang vinh đã từng dẫn dắt dân tộc đến nhiều kỳ tích lịch sử,
đã khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới 20 năm qua ; có
nguồn thực tiễn rất năng động và sáng tạo của cả 80 triệu nhân dân Việt Nam
đã làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử qua hai thập kỷ đổi
mới.
Với những nhân tố quý báu này, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ biến thách thức thành cơ
hội,vươn lên ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ của Ðảng, của dân tộc và phù
hợp với xu thế hiện đại.



×