Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN đẩy MẠNH cải CÁCH HÀNH CHÍNH góp PHẦN xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.35 KB, 25 trang )

2

MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải
cách hành chính nhà nước và luôn xác định đó là một khâu quan trọng trong
sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước. Mục tiêu của đẩy mạnh cải cách
hành chính nhà nước là nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất và năng lực…; mà tổng quát nhất là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với đổi mới về kinh tế thì cải cách hành
chính nhà nước cũng được tiến hành. Cải cách hành chính đã đạt những kết
quả bước đầu quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của đất nước. Tuy
nhiên, nền hành chính nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cùng với
đó, bối cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ
hội mới đòi hỏi phải có những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá
trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được
tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải
tiến hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập
trung quan liêu, bao cấp sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và
mở rộng dân chủ. Điều này chưa từng có tiền lệ. Vì vậy, trong thời kỳ hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, Đảng và Nhà nước ta càng chú
trọng, quan tâm hơn nữa đến việc lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền hành chính
nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên
nghiệp, hiện đại; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành các lĩnh vực
trong đời sống xã hội và thực thi quyền lực của nhân dân.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị- pháp lý của nhân loại, ngày càng được bổ sung với những
nội dung mới. Nhưng nội dung căn bản của lý thuyết "nhà nước pháp quyền"



3

là sự đề cao pháp luật trong mối tương quan với nhà nước, pháp luật như là
công cụ để hạn chế quyền lực nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng phức tạp chứa đầy ẩn số, đầy
những mâu thuẫn nội tại của nó. Nhà nước pháp quyền được tạo bởi hai
thành tố "nhà nước" và "pháp quyền". Sự phức tạp, mâu thuẫn là ở chỗ, nhà
nước đặt ra pháp luật nhưng nhà nước lại phải tôn trọng pháp luật, đặt mình
dưới pháp luật, coi pháp luật là những chuẩn mực cho mọi hành vi hoạt động
của mình. Thêm vào đó sự phức tạp còn là ở chỗ có vô số những quan niệm
về nhà nước và về pháp luật.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nước pháp
quyền. Điều 2 ghi nhận: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân". Việc ghi nhận đó là cơ sở pháp lý sác định mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam. Nhưng xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá
trình lâu dài, phức tạp, các quốc gia xây dựng nhà nước pháp quyền với những
xuất phát điểm khác nhau về đời sống kinh tế- xã hội và văn hóa và bằng những
con đường, bước đi khác nhau, không có một mô hình chung cho mọi dân tộc.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng và thực trạng của cải cách nền
hành chính ở nước ta hiện nay, và định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta, tôi chọn chủ đề: “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước
góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay” làm tiểu luận của mình.


4

NỘI DUNG

1. Quan niệm về nhà nước pháp quyền
Về nhà nước pháp quyền, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau, được
nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, về mặt nhận thức, có thể
khái quát nhà nước pháp quyền có những đặc trưng mang tính phổ biến sau đây:
- Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong
hệ thống pháp luật. Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật chứa
đựng tính nhân văn, nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã
hội, pháp luật phải thể hiện được ý chí cộng đồng dân tộc, quốc gia, không
phải ý chí của một nhóm người, một cá nhân hay một tập đoàn nào đó.
- Nhà nước, các cơ quan của nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, lệ
thuộc vào pháp luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật thì "tính
trội " thuộc về pháp luật, ở khía cạnh này pháp luật như là công cụ, phương
tiện để hạn chế quyền lực nhà nước, hạn chế công quyền.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do của công
dân phải ngày càng được mở rộng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cơ chế pháp luật,
bằng các tiền đề, điều kiện về kinh tế- xã hội, bằng tổ chức nhà nước. Như vậy,
pháp luật là công cụ phương tiện ghi nhận, bảo vệ các quyền công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó thiết lập mối quan hệ
trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước và nhà nước với công dân. Công
dân có trách nhiệm với nhà nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân.
Trong nhà nước pháp quyền vai trò của Toà án được đề cao, các nhánh
quyền lực lập pháp và hành pháp phải độc lập một cách tương đối, phối hợp
với nhau và phải kiềm chế được nhau.
Ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến đó, Nhà nước pháp quyền
Việt Nam lại có một số đặc điểm mang tính riêng biệt của mình thể hiện định


5


hướng chính trị của nhà nước, tính chất, bản chất của nhà nước mà Việt Nam
cần xây dựng đó là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước mà tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quan điểm
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam- đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân tộc. Đây
là những vấn đề mang tính nguyên tắc có tính chính trị- xã hội định hướng
cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế.
Tóm lại: Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mọi
hoạt động của nhà nước hợp hiến, hợp pháp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền dân chủ.
2. Cơ sở của việc đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp
phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục
tiêu, mục đích xã hội của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện
nay là: xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm,
chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với
những bước đi - lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách
một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân,
tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là:


6


cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một
bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành
chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
* Xuất phát từ cơ sở lý luận:
Cải cách hành chính nhà nước là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể
để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính nhà
nước (thể chế, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ,
công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng yêu cầu của một nền
hành chính hiệu lực, hiệu quả, chuyên nghiệp và hiện đại.
Việc tiến hành và đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp phần
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay được xuất phát từ chính vai trò, tầm quan trọng của nền hành chính. Ở
nước ta, nền hành chính có chức năng thực thi quyền hành pháp - tổ chức thi
hành pháp luật và quản lý, điều hành mọi hoạt động trên các lĩnh vực đời
sống xã hội nhằm chuyển hoá chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước thành hiện thực, bảo đảm cho các chủ thể quan hệ pháp luật thực
hiện nghiêm chỉnh, bảo đảm và bảo vệ các quyền công dân bằng pháp luật.
Nền hành chính quan tâm đảm bảo các quyền và lợi ích của công dân, bảo
đảm an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng, tạo điều kiện cần thiết để
mọi thành viên xã hội có cơ hội như nhau để phát triển. Điều đó góp phần
thiết thực hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, biểu
hiện trực tiếp trên thực tế là xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, nền hành chính giữ vai trò
là khâu trọng tâm của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Các khâu hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải



7

qua khung cửa bộ máy hành chính nhà nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy,
nếu không kịp thời đổi mới hoạt động hành chính thì nhịp độ và chất lượng
của sự nghiệp đổi mới sẽ bị ảnh hưởng. Mặt khác, cải cách hành chính cũng
là "đầu ra" của các cuộc cải cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư
pháp… trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Mặt khác, xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng ta về đổi mới
bộ máy nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách hành chính.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân đã được Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược quan
trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó cải cách hành chính
được xác định là khâu đột phá, trọng tâm.
Từ xác định những nguyên nhân dẫn đến tình hình khủng hoảng kinh
tế, xã hội trầm trọng, Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ nguyên nhân mấu chốt là
công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ
chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ
chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ,
giảm đầu mối. Tuy nhiên, nhìn chung tổ chức và biên chế của bộ máy nhà
nước vẫn còn quá cồng kềnh, nặng nề.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được thông
qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định bước tiến trong nhận thức về
nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: Về Nhà nước phải có đủ quyền
lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống
xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy
hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng



8

quản lý của Nhà nước. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách nhằm vào hệ
thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và
quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả.
Tiếp đến Hội nghị Trung ương 8 khoá VII của Đảng đã đánh dấu bước
phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Cải cách
một bước nền hành chính được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính
trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá
để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội
phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên ba nội
dung chủ yếu của cải cách hành chính được trình bày một cách hệ thống
trong Nghị quyết, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ
chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước ta trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến
hành cải cách hành chính là phải đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là
một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ
3 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII năm 1997 ra Nghị quyết về phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải
cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo
đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát
huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà



9

nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành các
quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Nghị quyết Trung ương 3 đặc biệt nhấn
mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng
lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh
đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động
theo nhu cầu và lợi ích của đất nước.
Đến Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đã đề ra chủ trương tiến hành
sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền
với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Đồng thời kiên quyết tiến hành sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ
thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương.
Quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, năm 2001, Chính
phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010, tập trung cải cách trên bốn nội dung cơ bản của nền hành chính, đó
là: Thể chế hành chính; tổ chức bộ máy hành chính; cán bộ, công chức hành
chính và tài chính công. Đồng thời đã đưa ra những giải pháp và bước đi phù
hợp với thời kỳ thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương: “ Đẩy
nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các
mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; cán bộ, công
chức; phương thức hoạt động” 1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước cần được tiến hành đồng bộ, từ việc xác định vị trí trụ cột của Nhà
nước trong hệ thống chính trị, cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hành và phát huy dân chủ, đổi mới từng

1

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 253


10

bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp
và chính quyền địa phương.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X còn chỉ rõ: “Đẩy mạnh cải cách
hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá cơ cấu,
tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh
gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền
địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư,
nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương"2.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã nhấn mạnh: Cải cách hành chính phải được thực hiện đồng bộ,
vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và
bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Năm 2007, Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản
lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (gọi tắt là đề án 30) cũng được thực hiện.
Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh cải cách hành chính,
nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây
phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và
tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ
công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.3
Tiếp tục nhấn mạnh công tác cải cách hành chính Nhà nước, ngày
08/11/2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30c/NQ-CP về Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, trọng tâm cải

cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là cải cách thể chế; xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính
sách tiền lương; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ
2
3

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, t.126 - 127
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb CTQG, H.2006, tr.250


11

công. Một trong các trọng tâm của Chương trình là cải cách thể chế, trong đó,
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được
sửa đổi, bổ sung. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật.
* Xuất phát từ thực trạng của việc cải cách hành chính nhà nước ở
nước ta trong thời gian qua
- Kết quả đạt được trong cải cách hành chính nhà nước ở nước ta
trong thời gian qua
Cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành nhiều năm nay với
những bước đi, lộ trình cụ thể. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành
chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách
một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành
chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn
nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sau 25 năm

thực hiện, cải cách hành chính ở nước ta đã thu được những kết quả đáng kể:
+ Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ
Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương đến Ủy ban nhân dân các cấp đã có
nhiều thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước.
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp
được sắp xếp, điều chỉnh tinh giản hơn trước; bộ máy hành chính từ trung
ương đến cơ sở vận hành phát huy tác dụng, hiệu quả tốt hơn.
+ Việc quản lý, sử dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo
các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức : từ khâu tuyển chọn, đánh


12

giá, thi nâng ngạch, khen thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ,
chính sách tiền lương bước đầu được cải cách theo hướng tiền tệ hóa.
+ Hệ thống thể chế trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính
nhà nước đã từng bước hình thành và hoàn thiện theo hướng đồng bộ hơn, phù
hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Đây là kết quả nổi bật trong
cải cách, thể hiện tính nhất quán trong việc hoạch định thể chế, chính sách cải
cách, đổi mới của Nhà nước ta. Tạo lập môi trường pháp lý và hoàn thiện khuôn
khổ thể chế cho cơ chế quản lý mới trên các mặt đời sống kinh tế và xã hội.
+ Trong công cuộc cải cách thể chế, Chính phủ đã trình Quốc hội các
dự án luật như: Luật doanh nghiệp, bộ luật Dân sự, luật đầu tư, luật đất đai,
luật thương mại … và đã ban hành rất nhiều nghị định, có thể nói đây là cơ
sở cho việc cải cách thể chế khắc phục tình trạng thiếu luật để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế và xã hội .
Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước với dân đã được đổi mới một
bước bằng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, việc lấy ý kiến rộng rãi của
nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, đề cao

vai trò giám sát trực tiếp của nhân dân và thông qua các tổ chức đại diện và
nhất là việc triển khai rộng rãi cơ chế “một cửa” gắn với việc đơn giản hóa các
thủ tục hành chính ở các cơ quan hành chính có liên quan trực tiếp với dân.
+ Hệ thống thủ tục hành chính từng bước được cải cách theo hướng đơn
giản hoá, công khai hoá, nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của các cơ
quan công quyền nhà nước trong quan hệ với nhân dân và doanh nghiệp. Thủ
tục hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản
hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ
tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham nhũng
của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân.


13

Thủ tục hành chính ở các lĩnh vực đã được cải cách theo hướng đơn giản hoá,
tạo thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp như : lĩnh vực đất đai, lĩnh vực
xây dựng, lĩnh vực hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư… Điều này đã tạo lập được niềm
tin của nhân dân và doanh nghiệp vào các cơ quan hành chính nhà nước.
Như vậy, việc cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua theo
hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn,
phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng
bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ
dân. Những cải cách trên đây đã góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
trong thời gian qua, đồng thời góp phần vào thực hiện xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- Những hạn chế, yếu kém trong cải cách hành chính nhà nước ở nước
ta trong thời gian qua
Công cuộc cải cách hành chính nhà nước mặc dù đã đạt được những
kết quả tiến bộ, quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn đang còn nhiều mặt hạn
chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và

tiến trình hội nhập. Những hạn chế lớn tập trung chủ yếu ở những điểm sau:
+ Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác
định thật rõ và phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp
chưa thật rành mạch.
+ Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu
thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật
tự, kỷ cương chưa nghiêm. Hiện vẫn chưa xác định được một cách đầy đủ, rõ
ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt động kinh tế - xã
hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi về mặt thể chế
mặc dù rất tích cực nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; mang tính chắp vá,


14

thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp.
+ Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý
hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt; chưa có
những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ công.
+ Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh
thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm
việc chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục
diễn ra nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức. Công tác kiểm
tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến
hành chưa nghiêm minh, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém hiệu quả,
thiếu tính giáo dục, răn đe …Vẫn còn một bộ phận cán bộ công chức suy
thoái về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, thiếu ý thức và
tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân và xã hội. Công tác

quản lý, sử dụng, thi tuyển, đánh giá cán bộ, công chức chậm được thay đổi
vì vẫn đang sử dụng phương pháp cũ là chủ yếu. chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới.
+ Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với
dân, không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị
động khi xử lý các tình huống phức tạp. Việc phân cấp Trung ương - địa
phương vẫn rất chậm chạp. Cho đến nay, các bộ, ngành vẫn đang nắm giữ
nhiều việc cụ thể của chính quyền địa phương làm hạn chế tính chủ động, sáng
tạo của địa phương. Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính
các cấp vẫn còn biểu hiện quan liêu, phân tán, nhiều hạn chế, chậm được thay
đổi. Việc tinh giảm biên chế trong bộ máy hành chính nhà nước chưa đạt yêu
cầu, vừa không đảm bảo chỉ tiêu giảm biên chế theo tinh thần cải cách hành


15

chính, vừa chưa thay thế được một bộ phận công chức yếu kém về năng lực,
không đảm đương được nhiệm vụ, đang nằm trong bộ máy hành chính.
Có thể thấy, công cuộc cải cách hành chính nhà nước còn chậm, hiệu quả
còn thấp. Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra. Trước hết, nhận thức
của cán bộ, công chức về vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước, về xây
dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nhà nước trong tình
hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng và chưa thống nhất, còn nhiều vấn
đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ, còn nhiều chủ trương, chính
sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp
chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế. Thứ hai, việc triển khai các nhiệm vụ về
cải cách hành chính chưa được tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, cải cách hành chính chưa gắn
bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp. Thứ ba, cải
cách hành chính gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích cục bộ của nhiều

cơ quan hành chính, nhiều cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ở trung
ương và địa phương; ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp còn đè
nặng lên nếp nghĩ, cách làm của không ít cán bộ, công chức; cuộc cải cách
chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng. Thứ tư, các chế độ, chính sách về tổ
chức và cán bộ, về tiền lương còn nhiều điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động
lực thúc đẩy công cuộc cải cách. Thứ năm là những thiếu sót trong công tác
chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương và Ủy ban nhân dân các địa
phương trong việc tiến hành cải cách hành chính; sự chỉ đạo thực hiện các chủ
trương đã đề ra thiếu kiên quyết và chưa thống nhất.
3. Những thách thức đối với cải cách hành chính nhà nước ở Việt
Nam trong thời gian tới
Sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước cùng với những sự thay đổi to
lớn của bối cảnh quốc tế đặt ra những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi cải


16

cách hành chính nhà nước để xây dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn
tới phải thay đổi hẳn phương hướng và cách thức tiến hành.
- Trước hết đó là sự chuyển đổi mạnh về chất sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy
luật của thị trường sẽ tác động sâu sắc và đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh
mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà
nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh từ nền hành chính “cai trị” sang
nền hành chính “phục vụ”, xóa bỏ triệt để cơ chế “xin - cho”, phải khắc phục
sự can thiệp trực tiếp, tuỳ tiện vào các hoạt động của doanh nghiệp, phải tôn
trọng và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong mọi hoạt động
kinh tế - xã hội; Kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước và nền hành chính phải
thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế đất nước, phải đối xử bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, tạo ra “sân chơi”, “luật chơi” phù

hợp với quy luật của thị trường và thực hiện tốt vai trò của người “trọng tài”
khách quan, công bằng trong việc kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật, chính sách của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Với việc gia nhập tổ chức WTO, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện. Trong điều kiện kinh
tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống
thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới;
phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của
cán bộ, công chức để có thể hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu
vực, trong khi Việt Nam đang ở một khoảng cách khá xa so với thế giới.
- Cùng với quá trình cải cách kinh tế và hội nhập, quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội cũng đã trở thành một xu thế không thể cưỡng lại được.
Kết quả của nó đặt ra những yêu cầu cao hơn về phát huy dân chủ cơ sở, đòi
hỏi thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, đòi


17

hỏi phải đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục
hành chính cũng như trong thực thi công vụ, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước
và các công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn
phương thức hoạt động.
- Sự phát triển nhanh của tiến bộ khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu
cao về hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Yêu cầu về xây dựng Chính phủ
điện tử, hiện đại hóa nền hành chính, nâng cao trình độ của đội ngũ công
chức hành chính đang tác động mạnh mẽ đến mọi cấp. Trong khi đó ảnh
hưởng của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của
nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội công chức
trong bộ máy và đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách
hành chính nhà nước hiện nay. Nếu không có một quyết tâm cao, cũng như

các giải pháp mạnh, có tính cách mạng thì sẽ dẫn đến tình trạng “bình mới
rượu cũ” trong nội dung và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính.
- Sự lúng túng, chưa đủ rõ về mặt lý luận đối với những vấn đề rất cơ
bản, rất hệ trọng trong đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, trong phát triển khu vực xã hội dân sự cũng là
những thách thức đáng kể đối với việc hoạch định các chủ trương, phương
hướng tổng thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.
4. Nội dung thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp
phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay
* Mục tiêu chương trình cải cách hành chính nhà nước
Mục tiêu chương trình cải cách hành chính nhà nước trong thời gian tới
là nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống


18

các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng
tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước; mà tổng quát nhất là tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở luật pháp, các nghị
quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới
phương thức lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và phải gắn liền
với mục tiêu phát triển, ổn định đất nước. Tiếp tục hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ và quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ
quan và cả bộ máy nhà nước. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt mọi nhu cầu chính đáng, hợp

pháp của công dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Các chủ
trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cải cách hành chính nhà nước phải tiến hành đồng bộ, vững chắc, có
trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Cải
cách hành chính phải đáp ứng các yêu cầu là hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ trong đời sống xã hội; huy động các
nguồn lực và sự tham gia của mọi người vào tiến trình phát triển đất nước.
Cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính
nói riêng, phải bảo đảm thuận lợi nhất cho người dân, cho các doanh nghiệp
và góp phần chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng phí. Xây
dựng bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa các
cơ quan, giữa các cấp chính quyền.
Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tốt, thành thạo


19

chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ nhân
dân. Cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện
đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin.
*. Nội dung cơ bản cải cách hành chính nhà nước
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, công cuộc đẩy mạnh cải
cách hành chính ở nước ta cần thực hiện tốt những nội dung sau:
- Về nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về cải cách
hành chính nhà nước góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đẩy mạnh việc học tập, quán triệt về

chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính trong
nội bộ cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở để thông suốt thực hiện. Thực tiễn
hiện nay cho thấy, về nhận thức và ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức
về vai trò và chức năng quản lý nhà nước, về xây dựng bộ máy nhà nước nói
chung và bộ máy hành chính nhà nước nói riêng, trong tình hình mới, điều
kiện mới chưa thật rõ ràng, chưa thống nhất. Việc triển khai các nhiệm vụ về
cải cách hành chính chưa được tiến hành đồng bộ. Ảnh hưởng của cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp vẫn còn đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm của không ít
cán bộ, công chức. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ nâng cao được nhận thức
về chủ trương, quan điểm về cải cách hành chính, để từ đó có ý thức và hành
động đúng trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
Để làm việc này, trước tiên cần phải làm rõ cho được cơ chế “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để có thể xác định được nội
dung và trách nhiệm của các cơ quan của Đảng, của Nhà nước và các đoàn
thể, quần chúng nhân dân, không bị chồng chéo hoặc trông chờ, ỷ lại, không
làm cản trở lẫn nhau trong lãnh đạo, quản lý và điều hành công việc.


20

Phải làm cho mọi người thông suốt cải cách hành chính không phải là
công việc chỉ riêng của các cơ quan nhà nước và cũng không phải chỉ tự cơ
quan nhà nước làm được, bởi vì nó tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội. Do vậy, phải huy động cho được mọi lực lượng xã
hội tham gia theo một chương trình kế hoạch cụ thể, có bước đi thích hợp với
từng địa phương, đơn vị, tập trung chỉ đạo hướng vào các nội dung trọng yếu
trong từng thời gian nhất định.
- Về cải cách hệ thống thể chế hành chính
Có thể khẳng định cải cách thể chế hành chính là nội dung cốt lõi và
thực chất của cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Cải cách thể chế hành

chính có nghĩa là điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ cấu hành chính với các cơ
cấu xã hội khác và đồng thời điều chỉnh tổ chức bộ máy hành chính để thích
ứng với những yêu cầu của tình hình mới. Nội dung cụ thể của cải cách thể
chế hành chính bao gồm từ điều chỉnh chức năng hệ thống hành chính, đổi
mới cơ cấu hệ thống hành chính, đến đổi mới cơ chế, phương thức hoạt động
của hệ thống hành chính.
Trong cải cách thể chế, Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước. Những
công việc chủ yếu phải làm là loại bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung những thể chế
lạc hậu, bất cập, đồng thời thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế- xã hội mới phát sinh theo tiến trình phát triển của nền kinh tế
thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tốt các yêu cầu
của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật
đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ đoán trước và phù
hợp với luật lệ quốc tế. Trước mắt cần xây dựng và ban hành các văn bản
pháp luật mới như Pháp lệnh về Đối xử quốc gia và quyền tự vệ; sửa đổi các


21

Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng,
Luật Ngân sách Nhà nước, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động… Bên cạnh
việc hoàn thiện về số lượng và nội dung của hệ thống thể chế, cần tăng cường
dân chủ, công khai, minh bạch trong việc soạn thảo, ban hành và thực thi
nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của thể chế. Quá trình xây dựng và thực
thi thể chế cần có sự tham gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các chủ thể
hữu quan, đặc biệt là của người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành
chính, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ

quan công quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Khắc
phục những hạn chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn
tới phải được được thực hiện song hành với những mặt khác của cải cách
hành chính như đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá các dịch vụ công, cải cách
tiền lương, ứng dụng công nghệ điện tử và viễn thông… Mục tiêu cơ bản của
cải cách là đơn giản hoá các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, doanh
nghiệp cũng như cho cơ quan nhà nước trong giải quyết công việc.
- Về cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy hành chính
Cần chuyển đổi mạnh mẽ, cơ bản vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cả
bộ máy hành chính nhà nước cũng như của mỗi cơ quan hành chính để phù
hợp hơn với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường và dân chủ hóa đời sống
xã hội. Cần thực hiện nhất quán nguyên tắc tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực đối với tất cả các bộ để thay thế hay loại bỏ mô hình bộ quản lý đơn
ngành, đơn lĩnh vực trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Trước hết cần điều chỉnh vai trò và chức năng của Chính phủ. Đây là
vấn đề then chốt trong việc đổi mới thể chế quản lý hành chính nhà nước, vì
với sự thay đổi của chức năng Chính phủ, các vấn đề khác như cơ cấu bộ máy
hành chính, phương thức quản lý hành chính, cán bộ viên chức hành chính...


22

đều phải có sự thay đổi tương ứng, kể cả thực chất mối quan hệ công việc
giữa Nhà nước và doanh nghiệp, Nhà nước và thị trường, Nhà nước và xã
hội, Nhà nước và nhân dân.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp theo
hướng giảm bớt cơ quan hội đồng nhân dân ở một số cấp hành chính như huyện,
quận, phường theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa X.
Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính
các cấp. Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính. Đẩy mạnh hiện

đại hóa hành chính, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào hoạt động của
các cơ quan hành chính, xây dựng, vận hành Chính phủ điện tử.
- Đề cao vai trò giám sát của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân

tham gia nhiều hơn vào giải quyết các công việc của địa phương, xây dựng
cộng đồng dân cư đoàn kết, thống nhất.
Quan điểm của Đảng ta về cải cách hành chính là công cuộc đổi mới
sâu sắc, tòan diện để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân. Muốn cải cách hành chính thành công phải lấy
dân làm gốc, phải hướng vào mục tiêu phục vụ nhân dân, khắc phục mọi
phiền hà, sách nhiễu đối với dân.
Chính quyền cơ sở do nhân dân địa phương bầu ra, thực hiện chức
năng của cơ quan nhà nước. Trong hoạt động, chính quyền cơ sở tiếp xúc
hàng ngày trực tiếp với nhân dân, vì vậy, phải gắn bó mật thiết với nhân dân.
Muốn làm được điều đó, cần tạo sự gần gũi với dân, dám chịu trách nhiệm
trước dân, tham gia vào các cuộc đối thoại giữa công dân và nhà chức trách
một cách bình đẳng, nhằm giải quyết thỏa đáng các công việc của địa
phương, của nhân dân. Hình thức này thể hiện hoạt động công khai, dân chủ,
minh bạch của chính quyền cơ sở, từ đó bảo đảm cho sự kiểm tra, giám sát
của công dân đối với hoạt động của chính quyền cơ sở và có thể đưa ra


23

những kiến nghị về các vấn đề mà họ cho là bất hợp lý như vấn đề sử dụng
ngân sách trong việc xây dựng cơ bản, đầu tư cho giáo dục, phát triển nông
thôn, chống tiêu cực, chống tham nhũng Để thực hiện được những nội dung
trên, cần phải đẩy mạnh việc triển khai và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Đây là một nhiệm

vụ và thách thức lớn, bởi vì công chức được coi là một yếu tố quan trọng để
thực hiện được các mục tiêu quốc gia đã đề ra. Xây dựng và phát triển năng
lực của đội ngũ công chức cần quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau đây:
Xây dựng và phát huy năng lực của đội ngũ công chức hành chính Nhà nước
thực chất là thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia một
cách cụ thể nhằm tạo ra đội ngũ công chức vừa phải làm việc trên các lĩnh
vực theo các nguyên tắc của thị trường, vừa phải biết quyết định các vấn đề
trên cơ sở hệ thống quyền lực mà nhân dân giao cho. Xây dựng đội ngũ công
chức theo nguyên tắc chức nghiệp hay chế độ việc làm đều nhằm đi đến kết
quả cuối cùng là tạo ra được đội ngũ công chức thực sự có năng lực, biết giải
quyết các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu quả và chất lượng.
Phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có tâm,
đủ tầm, trung thực, tận tuỵ với công việc và am hiểu pháp luật. Phải có kế hoạch
đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên, định kỳ đối với cán bộ, công
chức, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo để kịp thời nắm bắt
thông tin, kiến thức mới, phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành, nhất là trong
thời kỳ nước ta vừa được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới. Kịp thời loại
bỏ những cán bộ, công chức luôn không hoàn thành nhiệm vụ, tham nhũng, biến
chất, cơ hội, gây cản trở công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
- Cải cách tài chính công. Nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động
của các cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng


24

tài chính công. Năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan trên ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng của toàn bộ quá trình quản lý tài chính công. Quy định
rõ ràng trách nhiệm vật chất của những ngưới đứng đầu cơ quan chính quyền
nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý tài chính công của cấp. Cần căn cứ
vào mức dự toán của mỗi cấp chính quyền đã được giao phải thực hiện và

những cam kết về kết quả đầu ra gắn liền với các chỉ tiêu của dự toán đó mà
đánh giá, phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ quản lý tài chính công của
những ngưới đứng đầu cơ quan chính quyền mỗi cấp đó.
Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình
quản lý tài chính công. Quản lý tài chính công hiện đại thường thông thoáng
trong kiểm soát đầu vào, nhưng lại tăng cường kiểm soát ở đầu ra, dựa trên
cơ sở đánh giá chất lượng và hiệu quả của quản lý tài chính công cho từng
lĩnh vực cụ thể. Để đổi mới công tác thanh tra, giám sát cần tăng cường về số
lượng và nâng cao chất lượng bộ máy kiểm toán nhà nước.
Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công. Thực
hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như: Cho thuê
đơn vị, sự nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh
viện, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ, công chức chuyển
từ các đơn vị công lập sang dân lập; cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư
trong nước, nước ngoài đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học,
trên đại học, khám chữa bệnh có chất lượng cao...
Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách
nhà nước, xoá bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối
với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai,
minh bạch về tài chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai.
KẾT LUẬN


25

Cải cách hành chính nhà nước ở nước ta là công việc mới mẻ, nó đòi
hỏi vừa phải tìm tòi vừa phải rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan
niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính
cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp

thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo chứ không
phải là một cái gì có sẵn hoặc một lúc là hoàn thành.
Việc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua
và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn,
hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt
hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai
quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chính đối với
dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách
quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính. Tất
cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Trong thời gian qua, công tác cải cách hành chính nhà nước cũng đã
đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần thiết thực vào việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác này cũng còn nhiều bất cập cần tiếp tục
nghiên cứu và rút kinh nghiệm. Điều này càng trở nên khó khăn hơn khi bối
cảnh thế giới và trong nước đang đặt ra đối với nước ta nhiều thử thách mới.
Với sự nổ lực, nghiêm túc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò
của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra được tăng cường đối với công
tác cải cách hành chính nhà nước hiện nay, chúng ta có thể tin tưởng về sự
thành công của công tác cải cách hành chính nhà nước ở nước ta trong thời
gian tới. Và xa hơn, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


26

với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ khả thi hơn từ công
tác cải cách hành chính nhà nước này.



×