Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của đảng trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.98 KB, 14 trang )

Lời mở đầu
Ngày nay, kinh tế thị trường có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của tất
cả các nước là điều khơng ai có thể phủ nhận. Giờ đây, khơng cịn ai cho rằng
nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường chỉ là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản, khơng cịn ai có thể phủ nhận vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của kinh tế
thị trường trong quá trình phát triển nền kinh tế, xã hội và cũng không thể phủ
nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế thị trường trong nhiều chế độ xã hội. Do
vậy, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là con
đường đúng đắn mà Đảng ta đã lựa chọn . Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và
đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam ( tháng 12/ 1986) đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả cơng cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Từ khi bắt đầu đổi mới đến nay ( 1986 - 2012) đã trải qua 26 năm, Việt Nam đã
có những bước chuyển mình mới, từ một nước nghèo đói, lạc hậu, trình độ thấp
kém, ngày nay, nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đất nước ta về
cơ bản đã thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí ngày càng nâng
lên. Nhưng đó mới chỉ là những bước đầu tiên đi lên con đường chủ nghĩa xã
hội vì con đường đó rất dài và khó, cho nên đã có khơng ít khó khăn trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, rất cần nhận thức rõ ràng và
đúng đắn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cũng
như những giải pháp để phát triển nền kinh tế nhất là trong thời kì hội nhập
kinh tế quốc tế này. Để có thể hiểu rõ những vấn đề trên, em đã chọn đề tài cho
bài tiểu luận này : “ Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của Đảng trong
thời kì hội nhập kinh tế quốc tế” . Bài tiểu luận tuy còn nhiều thiếu xót, mong
thầy cơ giúp đỡ để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn.

1



I.

Nhận thức và đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng thời kì đổi mới.
Kinh tế thị trường như chúng ta đã biết là một kiểu quan hệ kinh tế xã
hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với quan hệ hàng
hóa – tiền tệ, với quan hệ cung – cầu… Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu
hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa: mọi hoạt
động đều phải tính đến quan hệ hàng hóa hay ít nhất cũng phải sử dụng quan
hệ hàng hóa như là mắt xích trung gian.
Trước đó, khái niệm “ kinh tế thị trường” vẫn chưa dùng đến mà mới
chỉ nói đến nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường. Phải đến Đại hội IX của
Đảng ( tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” đó là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng tại Đại hội IX đã khẳng
định: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường
lối chiến lược nhất qn, là mơ hình kinh tế tổng qt trong suốt thời kì quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Các vấn đề kinh tế thời kì trước đổi mới:
Trước đổi mới, cơ chế quản lí kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập
trung. Cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập trung là do nhà nước quyết
định toàn bộ đối với mọi hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế
vận động phát triển tuân theo những qui định bắt buộc của nhà nước chứ
không tuân theo qui luật cung cầu của thị trường. Nhà nước chỉ tiêu kế
hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản
phẩm cho nhà nước; lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Cơ chế quản lí
của kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay nói cách khác là cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp và cơ chế tự do. Khác với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì các chủ thể
kinh tế có tính độc lập, kinh doanh lỗ lãi tự chịu mà Nhà nước quản lí nền

kinh tế chỉ định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi
trường cho sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm sốt xử lí các vi
2


phạm trong hoạt động kinh tế đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội.
Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng
mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ Viết, mơ hình kinh tế kế hoạch tập trung
mang tính bao cấp. Mơ hình này đã thu được những kết quả quan trọng nhất
là đáp ứng được nhu cầu của thời kì đất nước có chiến tranh. Nhưng càng về
sau mơ hình này càng bộc lộ nhiều khuyết điểm và trong công tác chỉ đạo
cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa chính là bệnh giáo
điều, chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội,
khơng tơn trọng qui luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không
đúng với thực tế Việt Nam. Tình hình kinh tế xã hội nước ta từ sau năm 1975
có nhiều điểm tương đồng với tình hình kinh tế - xã hội Nga sau nội chiến
cách mạng. Những điểm tương đồng chủ yếu đó là: sản xuất nhỏ với tính
nhiều thành phần và cơ sở vật chất kĩ thuật thủ công lạc hậu hiện cịn phổ
biến; nền kinh tế vừa thốt ra khỏi một cuộc chiến tranh tàn phá kéo dài và
hiện vẫn phải chịu đựng cuộc chiến tranh biên giới, phá hoại nhiều mặt của
các thế lực bên ngoài, với sức ép bao vây, cấm vận ráo riết của chủ nghĩa đế
quốc và hiện đang gặp phải nhiều khó khăn, chấn động, mất cân đối nghiêm
trọng. Những đặc điểm tương đồng cơ bản giữa nước ta và nước Nga những
năm 1920 đã cho phép ta có thể nghiên cứu áp dụng những tư tưởng cơ bản
của V.I.Lenin về chính sách kinh tế mới đồng thời những điều kiện đặc thù
của nước ta sẽ buộc chúng ta phải tìm kiếm và sáng tạo những biện pháp
thích hợp với điều kiện cụ thể và khơng thể sao chép được. Vấn đề đặt ra
hiện nay là làm thế nào để có thể vừa phát huy được các ưu thế của thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa vừa có thể sử dụng và cải tạo được các thành

phần kinh tế khác theo hướng xã hội chủ nghĩa? Có thể nói một phần lớn các
khó khăn yếu kém của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện nay là do
ngồi những sai lầm, thiếu sót của cơ chế kinh tế, chúng ta cũng cần phải
khắc phục một vài nhận thức sai lầm. Nhận thức sai lầm đầu tiên là sợ chủ
nghĩa tư bản hồi phục và phát triển, V.I.Lenin cũng đã từng chỉ ra điều chúng
ta đáng sợ là tình trạng thiếu sản phẩm và lạc hậu, còn sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản dưới sự kiểm tra và điều tiết của Nhà nước vô sản khơng có gì
đáng sợ. Thứ hai là đối lập kinh tế tư nhân với nhà nước vô sản, thực ra
khơng hồn tồn như vậy, kinh tế tư nhân một khi đã được Nhà nước vô sản
đặt dưới sự kiểm sốt và điều tiết của mình, buộc nó phải định hướng theo
3


chủ nghĩa xã hội. Nhận thức sai lầm cuối cùng là đã tuyệt đối hóa vai trị của
khu vực quốc doanh tràn lan, dành mọi ưu tiên cho khu vực quốc doanh và
tập thể, xem thường và phân biệt đối xử với các khu vực kinh tế khác… Thực
ra, mỗi thành phần kinh tế có vai trị lịch sử của nó và thích hợp với điều kiện
cụ thể. Chỗ nào thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể chưa thể phát huy
được tác dụng thì ở đó nền kinh tế tư nhân hoạt động, nếu xóa bỏ kinh tế tư
nhân, lập ra các hợp tác xã và xí nghiệp quốc doanh mà sản xuất không phát
triển và đời sống khơng được cải thiện thì việc cải tạo sẽ vơ nghĩa.
Cơ chế kinh tế hiện tồn tại ở nước ta lâu nay có một số hạn chế: nó mang
nặng tính chất thời chiến, đó là tập trung cao, mệnh lệnh nhiều và bao cấp
tràn lan. Những hạn chế này được bộc lộ rõ ở tình trạng khơng ổn định của
tình hình kinh tế nước ta kéo dài kể từ năm 1976. Nghị quyết của hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa V đã khẳng định phải xóa bỏ cơ chế kế
hoạch hóa theo phương thức hạch tốn kinh tế, phát triển xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển kinh tế ở nước ta rõ ràng xuất phát từ thực tế nhiều thành phần,
từ yêu cầu phải phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Q trình đổi mới đó phải bắt đầu từ việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh

của các đơn vị cơ sở trong việc lập kế hoạch, chủ động về tiền vốn đầu tư,
nơi tiêu thụ ,định giá… Nhà nước trung ương vẫn giữ quyền lãnh đạo, thống
nhất quản lí, quyết định nhưng không can thiệp sâu vào hoạt động kinh
doanh của các đơn vị cơ sở. Chính phủ trên cơ sở vùa xóa quan liêu bao cấp ,
vừa mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho đơn vị cơ sở mà dần hình thành
các chính sách kế hoạch hóa giá cả, thuế…phù hợp. Việc đổi mới cơ chế kinh
tế phải gắn liền với đổi mới cơ cấu kinh tế và lấy đổi mới cơ cấu kinh tế làm
cơ sở. Cơ cấu kinh tế nước ta được hình thành trong thời gian vừa qua, xét
dưới góc độ hiệu quả kinh tế, có nhiều điểm bất hợp lí. Trong đó, điều bất
hợp lí nổi bật là những ngành trực tiếp giải quyết các vấn đề cấp bách như
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, xuất khẩu…. lại khơng được chú ý xây dựng
thích đáng. Do vậy, chiến lược cơ cấu phải đổi mới theo hướng tập trung đầu
tư vào những ngành đó. Ba chương trình mục tiêu mà Đại hội VI xác định đã
thể hiện xu hướng đổi mới. Sự chuyển hướng này càng chậm bao nhiêu thì
dù có đổi mới cơ chế kinh tế cũng sẽ không giải quyết được các vấn đề cấp
bách hiện nay. Đồng thời, sự đổi mới cơ chế kinh tế phải hỗ trợ tích cực cho
hướng đổi mới cơ cấu kinh tế trên .
4


2. Những bước đột phá về tư duy trong đổi mới kinh tế trước năm
1986:
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam được chính thức bắt đầu từ năm 1986
với khâu đột phá là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Ở Việt Nam,
đổi mới tư duy kinh tế trước, đổi mới tư duy chính trị sau theo nghĩa đổi mới
chính trị ngay từ đầu đã khơng phải là trọng tâm chủ yếu. Đổi mới tư duy,
đổi mới các quan điểm, quan niệm về phương thức phát triển của Đảng cộng
sản Việt Nam dù trước hết trong kinh tế thì cũng đã là đổi mới chính trị. Đổi
mới các quan điểm chính trị chính là bước khởi đầu cho đổi mới trong kinh
tế và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Nếu xét từ góc độ đó thì đổi mới

ở Việt Nam lại khơng phải bắt đầu từ đổi mới kinh tế mà đúng ra là bắt đầu
từ đổi mới quan điểm, đường lối về cách thức phát triển kinh tế của Đảng. Dĩ
nhiên, đổi mới chính trị ở đây chưa phải là đổi mới đồng bộ, toàn diện, tất cả
các yếu tố, bộ phận của chính trị nói chung, nhưng khơng có đổi mới quan
điểm về cách thức phát triển đất nước thì khơng thể có những thành tựu phát
triển kinh tế xã hội trong đổi mới vừa qua. Nếu nhìn cả vào những tìm tịi,
thử nghiệm trước đại hội Đảng lần thứ VI thì rõ ràng việc đổi mới quan điểm
chính trị về phương thức phát triển kinh tế đã bắt đầu sớm hơn nhiều so với
mốc thời gian của đại hội VI.
Đại hội VI (12/1986) là bước đột phá đầu tiên về đổi mới tư duy của
Đảng về phát triển kinh tế. Đó là sự xác lập, xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp
với sự vận động của qui luật khách quan và trình độ của nền kinh tế. Đại hội
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự ổn định về
chính trị, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Ngay từ Đại hội IV (1976),
Đảng ta đã xác định : phải ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng một cách hợp
lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng
công nghiệp với nông nghiệp trên phạm vi cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất kết hợp phát triển
lực lượng sản xuất với việc xác lập và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới. Đại hội V (1982) tiếp tục xác định: phải xây dựng cơ cấu công nông
hiện đại, chú trọng xây dựng hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển
làm nòng cốt củng cố nền kinh tế quốc dân. Những năm 1976 – 1986, trong
chỉ đạo thực hiện đã thiên về tập trung phát triển công nghiệp năng qui mô
lớn mà không chú ý đến nông nghiệp và cơng nghiệp nhẹ, khơng tính đến
5


điều kiện và khả năng thực tế đất nước; chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng
móng vội và bảo thủ, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về kinh tế, cải

tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lí kinh tế. Do vậy, khủng hoảng kinh tếxã hội diễn ra cuối thập niên 70 đầu 80 của thế kỉ XX ở nước ta có nguyên
nhân từ những nhận thức chưa đầy đủ về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một quá trình tương đối dài nên trong chỉ đạo đã xuất hiện tư tưởng chủ
quan nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Tuy nhiên, đánh giá
khách quan mặc dù cịn khơng ít khiếm khuyết nhưng từ 1976 đến trước đại
hội VI, Đảng đã tìm tịi, thể nghiệm và chuẩn bị những điều kiện tiền đề cần
thiết để đi tới xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp. Đại hội VI đã mở ra một
bước ngoặt và sự khởi đầu quan trọng của phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội đã khẳng định việc giải
phóng sức sản xuất, chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ
cấu đầu tư, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ. “Đề cập đến sự
cần thiết đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, Đại hội đã khẳng định: “ Việc bố trí
lại cơ cấu kinh tế phải đi đơi với cơ chế quản lí kinh tế. Cơ chế quản lí tập
trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát
triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo
các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất
lượng hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lí kinh
tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách”.(1)
3. Tư duy và đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế sau năm 1986:
Tại Đại hội VII (6/1991) của Đảng đã có bước phát triển mới trong
nhận thức về mối quan hệ giữa cơ chế thị trường, Nhà nước và doanh ghiệp.
Tuy chưa khẳng định rõ “ nền kinh tế thị trường” nhưng đã xác định “ Cơ chế
vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các cơng cụ khác”. Đại hội cũng chỉ rõ: “ Thực tế cho
thấy, bản thân nền kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng. Hơn
nữa, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi

trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội. Để hạn
chế và khắc phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi
6


đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước
phải thực hiện tốt vai trị quản lí kinh tế, xã hội bằng luật pháp, kế hoạch,
chính sách, thơng tin, tun truyền giáo dục và các công cụ khác”. (2)
Vào tháng 4/2001, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, khái niệm kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính thức được nêu trong các văn
kiện và cũng khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là đường lối chiến lược nhất qn, là mơ hình tổng qt trong suốt thời
kì quá độ lên chủ nghãi xã hội ở Việt Nam. Tiếp nối tư duy lí luận của Đại
hội IX, Đại hội X của Đảng đã làm rõ hơn nội dung cơ bản của việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng việc khẳng
định: “ Trên cơ sở ba chế độ sở hữu ( toàn dân, tập thể, tư nhân ) , hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) , kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai
trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.” (3)
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được Đại hội XI của Đảng xác định là một trong những bước đột phá chiến
lược và là khung pháp lí cho sự phát triển kinh tế. Cũng tại Đại hội XI đã chỉ

rõ: “ Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa
vững chắc…” và “ Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Do đó cần phải
hồn thiện về mặt lí luận cũng như liên hệ thực tiễn về những vẫn đề kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều hết sức cần thiết.
4. Những thành tựu về kinh tế xã hội:
“Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thwoif kì 1992 –
1997 tăng bình quân 8,75 % / năm. Thời kì 2000- 2007: 7,55%/năm. Năm
7


2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng
GDP vẫn đạt 6,23 %. Về GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là
639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD. Cơ cấu thành
phần kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4 % GDP vào năm 2005.
Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8%
GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi chiếm 15,9 % GDP.”(4)
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Về tốc độ tăng trưởng, từ năm 1986 -1991 GDP tăng trưởng tương đối chậm.
Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng hơn thì tốc độ tăng trưởng GDP
ln đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo
chủ quan và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng GDP
cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên theo, từ 289 USD năm 1995 lên
1.024 USD năm 2008, cho thấy Việt Nam đang dần vươn lên nước đang phát
triển có thu nhập trung bình thấp. Năm 2005 khu vực kinh tế nhà nước được
tổ chức lại và đổi mới chiếm 38,4 % GDP cùng năm. Kinh tế dân doanh phát
triển nhanh và hiệu quả chiếm 45,7% GDP, đóng góp vào sự phát triển của

kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 15,9% GDP tăng trưởng cao, là cầu nối quan trọng với thế giới
để phát triển kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 170
nước, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO và cũng là thành viên chính thức của nhiều tổ
chức kinh tế quốc tế và khu vực.
5. Một số thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Tuy nước ta đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhưng mới chỉ ở giai đoạn
sơ khai, chưa đạt đến một trình độ nền kinh tế thị trường hiện đại. Điều đó
thể hiện ở những điểm sau: trình độ phát triển của sản xuất hàng hóa cịn thấp
do phân cơng lao động xã hội kém phát triển; hệ thống thị trường chậm được
hình thành, thiếu đồng bộ và có nhiều khiếm khuyết, do giao thông vận tải
kém phát triển nên chưa lôi kéo được tất cả các vùng trong nước vào mạng
lưới lưu thơng hàng hóa thống nhất; sự hình thành thị trường trong nước gắn
8


với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực
và thế giới, trong hồn cảnh trình độ phát triển sản xuất kĩ thuật của nước ta
còn thấp xa so với hầu hết các nước khác; hiệu lực quản lí của nhà nước về
kinh tế- xã hội còn yếu kém chẳng hạn như: hệ thống luật pháp, cơ chế, chính
sách cịn chưa đồng bộ và nhất quán, cải cách hành chính chậm v.v…. Từ
những nhược điểm đó, Đảng và nhà nước cần phải có giải pháp để phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
II.

Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của Đảng trong
thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.

Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xây dựng kinh tế mở. Nước ta đã trải qua một thời
gian khá dài dựa vào cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp mang nặng tính
hiện vật và gắn liền với nó là một cơ cấu kinh tế khép kín. Đó là cơ cấu kinh
tế được bố trí làm theo qui mô lớn, dồn vốn ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng. Dù nhà nước cũng đã quan tâm công nghiệp nhẹ, coi công nghiệp là
mặt trận hàng đầu, song không đặt nó trong mối quan hệ với sự phát triển các
ngành với đầu vào, đầu ra của nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế này đã cản trở sự
hình thành và phát triển các ngành kinh tế - kĩ thuật và các vùng chun mơn
hóa rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Cơ cấu
kinh tế được coi là tối ưu nếu nó phản ánh đúng yêu cầu của qui luật khách
quan, nhất là qui luật kinh tế, đảm bảo khai thác và phát huy cao nhất các
nguồn lực của đất nước, do vậy cơ cấu kinh tế đang xây dựng phải là cơ cấu
kinh tế mở, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Hệ thống kinh mở là sự kết
hợp có lợi nhất cả hai loại hình: sản xuất thay thế nhập khẩu và sản xuất theo
hướng xuất khẩu. Mặt hàng nào trong nước có lợi hơn thì cần đẩy mạnh sản
xuất để thỏa mãn nhu cầu trong nước, mặt hàng nào có lợi thế so sánh trong
cạnh tranh quốc tế thì phải ra sức khai thác và thông qua liên doanh liên kết
với nước ngoài để chiếm ưu thế thị trường thế giới.
Về thành phần kinh tế, khơng nên có sự phân biệt đối xử với các thành phần
kinh tế khác nhau, xem thành phần này là xã hội chủ nghĩa, thành phần kia là
phi xã hội chủ nghĩa, mà phải xem tất cả mọi thành phần kinh tế tồn tại hợp
pháp ở nước ta đều có định hướng xã hội chủ nghĩa. Tầm quan trọng của mỗi
thành phần kinh tế phải được đánh giá bởi hiệu quả kinh tế - xã hội thực tế
mang lại cho đất nước, không phải vì nó có tên gọi là nhà nước hay tư nhân.
Với quan điểm kinh tế thị trường hiện đại, khu vực quốc doanh chỉ nên giữ
vai trò điều tiết và định hướng là chính, hoạt động kinh doanh của khu vực
9


này cũng là nhằm điều tiết và định hướng. Nếu xem hoạt động kinh doanh là

chính thì khu vực này sẽ xem nhẹ hoạt động điều tiết và định hướng và sẽ có
thể chệch hướng. Kinh tế ngồi quốc doanh phải là động lực của đất nước và
họ sẽ đảm nhiệm hầu hết các ngành kinh tế. Nền kinh tế thị trường mà chúng
ta xây dựng là nền kinh tế của nhân dân, không phải là nền kinh tế của Nhà
nước. Do vậy các thành phần kinh tế đa dạng của nhân dân phải là động lực
cho sự phát triển, Nhà nước chỉ là người cầm lái.
Hình thành và phát triển các loại thị trường gắn bó với một thể thống nhất và
thông suốt trong cả nước. Xét theo 2 loại thị trường: thị trường các yếu tố sản
xuất và thị trường hàng tiêu dùng , dịch vụ.
- Thị trường các yếu tố sản xuất gồm thị trường tư liệu sản xuất, thị
trường vốn và thị trường sức lao động. Có các thị trường này mới có
các yếu tố sản xuất, mới có hàng hóa, dịch vụ ở thị trường đầu ra. Ty
vậy sự phát triển về số lượng, chất lượng, tính đa dạng của thị trường
đầu ra cũng tác động trở lại với thị trường đầu vào, nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm tích cực của thị trường đầu vào. Để thúc đẩy thị trường
vốn phát triển, cần nhanh chóng củng cố và đổi mới hệ thống ngân
hàng, thực hiện điều hòa và kinh doanh tiền mặt, vàng ngoại tệ… diễn
ra thông suốt, lành mạnh, đặc biệt cần tích cực tổ chức vận hành an
tồn và hiệu quả thị trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán. Hiện
nay, thị trường sức lao động cần phải có những biện pháp thiết thực để
đẩy mạnh hơn nữa cầu về lao động, giảm bớt sức ép của cung, làm cho
trạng thái cân bằng cung – cầu về sức lao động được xác lập.
- Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đóng vai trị vơ cùng quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, nó thể hiện rõ nét nhất tính chất, mục đich
và trình độ văn minh của nền kinh tế. Để phát triển thị trường này cần
phải giải quyết tốt các vấn đề sau: mở rộng qui mô, khối lượng, cơ cấu
chủng loại hàng tiêu dùng, dịch vụ ngày càng đa dạng và chất lượng
ngày càng cao hơn đáp ứng các nhu cầu thiết thực cho đời sống hàng
ngày. Sử dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ mới,
nâng cao hiệu quả quản lí kinh tế vĩ mơ, tùng bước phấn đấu giảm giá

thành tiêu dùng và dịch vụ.
Nguồn lao động ở nước ta khá dồi dào, khả năng cung ứng lao động trên thị
trường lao động là rất lớn nhưng nguồn lao động lại tập trung chủ yếu ở nơng
thơn, trình độ lao động cịn thấp, vì vậy, địi hỏi bức thiết phải tổ chức phân
cơng lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng đẩy mạnh phát
10


triển các ngành nghề sản xuất, kinh doanh dịch vụ, từng bước cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng thơn. Mở rộng phân cơng lao động xã hội là cơ sở
hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đã và đang diễn ra như
một quá trình gắn liền với đổi mới cơ cấu kinh tế và phát triển lực lượng sản
xuất.
Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta nên tiếp tục duy trì
tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất
khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông,
lâm, thủy sản; đầu tư công nghệ và quản lí để nâng cao hàm lượng giá trị gia
tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt, may, da giầy…; khuyến
khích các ngành có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học.. Đồng thời,
tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh
nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế.

11


Kết luận
Qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn.
Nhờ việc chuyển đổi này, chúng ta đã bước đầu khia thác được tiềm năng
trong nước và thu hút được vốn, kĩ thuật, cơng nghệ của nước ngồi, giải

phóng được năng lực sản xuất, góp phần vào bảo đảm tăng trưởng kinh tế với
nhịp độ tương đối cao. Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của Đảng thì
có nhiều nhưng cơ bản cần phải có nhận thức đúng về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó, mới có thể có những giải pháp phát triển kinh
tế tốt hơn.

12


Tài liệu tham khảo
(1) PGS, TS . Nguyễn Viết Thông, (2010), Giáo trình Đường lối cách
mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
Hà Nội.
(2) (2012). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự tiếp nối
của
công
cuộc
đổi
mới.
Được
lấy
về
từ:
/>(3) (2006), Đảng cộng sản VN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
(4) Nguyễn Văn Thành. (2010). Thành tựu thời kì đổi mới ở Việt Nam.
Được lấy về từ: />
13



Mục lục

Trang

Lời mở đầu………………………………………………………………..1
Nhận thức và đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng thời kì đổi mới………………………………………2
Các vấn đề kinh tế thời kì trước đổi mới…………………………………2
Những bước đột phá về tư duy trong đổi mới kinh tế trước năm 1986......5
Tư duy và đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế sau năm 1986………. 6
Những thành tựu về kinh tế xã hội………………………………………. 7
Một số thực trạng nền kinh tế nước ta…………………………………... 8
Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của Đảng trong thời kì hội nhập
kinh tế quốc tế…………………………………………………………… 9
Kết luận………………………………………………………………… 12
Tài liệu tham khảo……………………………………………………... 13

14



×