Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

PHÂN TÍCH tài CHÍNH DOANH NGHIỆP QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.74 KB, 22 trang )

PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP QUỐC TẾ

1


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Phần A:
1. Mức thu nhập tại Mexico tăng đáng kể trong khi mức thu nhập của Mỹ
không tăng thường được cho là sẽ gây ra thay đổi về nhu cầu của Mexico đối với
hàng hóa Mỹ, và thay đổi về giá trị của peso so với USD (giả định rằng lãi suất và
các yếu tố khác không thay đổi). Những thay đổi này là gì? Tại sao?
Trả lời:
Những thay đổi này bao gồm: tăng nhu cầu và peso mất giá.
- Tăng nhu cầu:
Nhu cầu, trong kinh tế học thường được hiểu là nhu cầu tiêu dùng hay còn
được gọi là sở thích tiêu dùng. Nếu nhu cầu không có khả năng tài chính để đáp ứng
sở thích tiêu dùng đó, thì không thể gọi là nhu cầu. Khi thu nhập tăng, cầu đối với hầu
hết các hàng hóa đều gia tăng vì với thu nhập cao hơn người tiêu dùng thường có xu
hướng mua hàng hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ, tùy thuộc vào
tính chất của hàng hóa, như được trình bày dưới đây.
Cầu đối với loại hàng hóa thông thường sẽ tăng khi thu nhập của người tiêu
dùng tăng. Thí dụ, người tiêu dùng sẽ mua quần áo, sẽ mua ti-vi màu, sử dụng các
dịch vụ giải trí, v.v. nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Những hàng hóa này là
những hàng hóa thông thường. Ngược lại, cầu đối với hàng hóa thứ cấp (hay còn gọi
là cấp thấp) sẽ giảm khi thu nhập của người tiêu dùng tăng. Hàng cấp thấp thường là
những mặt hàng rẻ tiền, chất lượng kém.
Nói chung, khi thu nhập thay đổi, người tiêu dùng sẽ thay đổi nhu cầu đối với
các loại hàng hóa. Điều này sẽ tạo nên sự dịch chuyển của đường cầu. Đường cầu đối
với hàng hóa thông thường sẽ dịch chuyển về phía phải khi thu nhập của người tiêu
dùng tăng lên; ngược lại, đường cầu đối với hàng hóa cấp thấp sẽ dịch chuyển về phía
trái khi khi thu nhập của người tiêu dùng tang lên. Một loại hàng hóa có thể vừa là


hàng hóa thông thường và vừa là hàng hóa cấp thấp. Chẳng hạn, người tiêu dùng sẽ
mua quần áo nhiều hơn ứng với một mức giá nhất định khi thu nhập tăng. Người tiêu
dùng có lẽ sẽ chi tiền nhiều hơn cho các loại quần áo thời trang, cao cấp, đẹp nhưng sẽ
chi ít hơn cho các loại quần áo rẻ tiền, kém chất lượng. Như vậy, quần áo có thể vừa là
hàng hoá bình thường và vừa là hàng hoá cấp thấp. Cùng với sự gia tăng của thu nhập
2


của người tiêu dùng theo thời gian, một hàng hóa, dịch vụ là hàng bình thường hôm
nay có thể trở thành một hàng thứ cấp trong tương lai.
Có một một yếu tố nữa được giữ cố định khi phân tích đường cầu. Đó là thị
hiếu hay sở thích của người tiêu dùng. Sở thích của người tiêu dùng có thể chịu ảnh
hưởng của phong tục, tập quán, môi trường văn hóa - xã hội, thói quen tiêu dùng, v.v.
của người tiêu dùng. Khi những yếu tố này thay đổi, nhu cầu đối với một số loại hàng
hóa cũng đổi theo.
- Peso bị mất giá:
Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích
trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu
thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy
ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều
kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt
động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín
dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh
chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam phát phát triển
nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong
giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó
khăn cho các hoạt động đầu tư.
Lý giải vì sự ngày càng mất giá của đồng tiền, nhiều người cho rằng kinh tế
liên tục tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải thiện thì mệnh giá đồng tiền cũng
phải tăng lên. Còn cũng có luống ý kiến cho rằng, vì kinh tế mới hội nhập sâu và toàn

diện vào nền kinh tế toàn cầu, trong khi đó lại có hệ số đầu vào phụ thuộc vào thị
trường nước ngoài rất lớn, nên khi giá cả thế giới lên cao tác động đến nhiều loại hàng
hoá trong nước tăng lên, tiền đồng bị mất giá là điều dễ hiểu.
Lý giải về yếu tố ngoại cảnh liên quan đến giá đầu vào cũng đúng, nhưng chỉ
một phần. Bằng chứng tại sao, một số quốc gia trong khu vực như Singapore,
Thailand, Malaysia... cũng có hệ số phụ thuộc nước ngoài khá lớn nhưng các đồng
tiền của vẫn không mất giá! Vậy tại sao tiền đồng ngày càng mất giá dẫn đến đời sống
người làm công ăn lương, nông dân, dân nghèo thành thị gặp muôn vàn khó khăn có
lẽ cần nhìn nhận dưới góc độ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế qua bất động sản.

3


Điều đáng nói, trong khi Nhà nước siết chặt chính sách tiền tệ, siết chặt thu
nhập của người dân bằng công cụ thuế thu nhập, thì trong xã hội đang có lượng tiền
khổng lồ ra - vào nền kinh tế không được kiểm soát. Các dòng tiền này cộng với nạn
tham nhũng, chung chi... đã đẩy giá các mặt hàng quan trọng lên cao. Tiềm lực, tài
chính quốc gia không chi phối hết các yếu tố liên quan đến an sinh - xã hội, trong xã
hội dần hình thành những nhóm người giàu lên quá nhanh và đồng thời khiến những
nhóm người như đã nói ở trên rơi vào tình cảnh khó khăn. Tiền đồng bị mất giá có lẽ
cũng xuất phát từ yếu tố trên.
----------------------------------2) Sự gia tăng lãi suất tại Mỹ so với lãi suất tại Đức có khả năng ảnh
hưởng đến nhu cầu của Mỹ đối với đồng euro và nguồn cung euro để bán. Những
ảnh hưởng này là gì? Hãy giải thích.
Trả lời:
Những ảnh hưởng này là giảm nhu cầu và tăng nguồn cung:
Bốn thời kì khác nhau của vòng tuần hoàn kinh tế dẫn đến một loạt những sự
phát triển có ảnh hưởng lớn đến tỉ giá trao đổi ngoại tệ. Ví dụ: khi một nền kinh tế
phát triển hay suy giảm, chỉ số GDP của đất nước ấy sẽ lên hoặc giảm, Consumer
Spending (Sức chi tiêu của khách hàng) tăng hoặc giảm, Chỉ số về lao động lên hoặc

xuống, mức vay vốn hoặc tiết kiệm cũng bị ảnh hưởng, nguồn thương mãi cũng chịu
tác động,...
Các nhà kinh tế học và nhà cầm quyền theo dõi những sự thay đổi này và đưa
ra những hành động phù hợp để giữ vững nền kinh tế. điều này có nghĩa là điều khiển
tỉ lệ lạm phát bằng cách tăng hoặc giảm lãi suất cho vay, hoặc nới lỏng hoặc thiết chặt
khả năng cho vay của các ngân hàng (thường gọi là credit). Lãi suất cho vay và hiện
trạng tổng thể của nền kinh tế là 2 yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến cung và cầu.
Khi lãi suất cho vay thấp, mọi người có thể vay tiền một cách dễ dàng để mua
nhà , mua xe,v.v,... Việc mua nhà, mua xe này lại theo cái vòng đó mà giúp phát triển
những nhu cầu khác như đồ gỗ, các thiết bị thiết yếu, vì vậy mà cung cấp một lực đẩy
cho nền kinh tế. Trong trường hợp như vậy, khách hàng có thể phải trả ít lãi phí hơn
và lấy về được nhiều sản phẩm hay dịch vụ hơn.
Lãi suất thấp cũng khiến cho các nhà sản xuất, các chủ nông nghiệp và các cơ
sở kinh doanh khác dễ dàng mượn vốn và đầu tư vào thiết bị hoặc những phạm trù cần
4


các chi phí lớn khác. Thêm vào đó, nguồn thu lại từ những khoản đầu tư như vậy thì
có giá trị hơn tại thời điểm ấy ( tức là thời điểm khi mà lãi suất thấp) hơn khi là lãi
suất cao. Điều này khiến cho các doanh nghiệp lời nhiều hơn khi đầu tư với mức lãi
suất thấp, và cũng theo đà đó mà giúp kinh tế phát triển nhanh hơn vì nang suất lao
động tăng mạnh.
Tuy nhiên, chỉ lãi suất cho vay không thôi thì dường như không thể ảnh hưởng
được khối lượng tiền tiết kiệm thuần của con người ( tức là tiền tiết kịêm được khi đã
giảm bớt mọi thụ tục chi phí). Và dẫn đến 2 mặt của một vấn đề. Một mặt, khối lượng
tiền tiết kiệm thu về cao hơn giúp con người có thêm lời để tiết kiệm. Tuy nhiên, mặt
khác, điều này cũng khiến con người cảm thấy mình giàu hơn và có thể sẽ kết thúc
bằng cách chi tiều nhiêu hơn là tiết kiệm.
Lãi suất cho vay có thể và hoàn toàn có khả năng ảnh hưởng rất lớn đến giá trị
của đồng đô đối với các loại tiền tệ khá. Tất cả những yếu tố khác vẫn đứng nguyên,

khi lãi suất cho vay thực (lãi suất cho vay có điều chỉnh về mặt lạm phát) ở Mỹ cao
hơn ở những nước khác, các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư bằng tiền Mỹ để thu
về lợi nhuận cao hơn. Và như thế nhu cầu gia tăng tất yếu của tiền Mỹ sẽ giúp đẩy giá
trị đồng tiền này lên. Điều ngược lại cũng xảy ra khi lãi suất Mỹ thấp.
Lãi suất cho vay thể hiện tình trạng của nền kinh tế bằng cách ảnh hưởng đến
nguồn và nguồn cầu về số lượng tiền gửi ngân hàng. Hậu quả tồn đọng lại của toàn bộ
những thay đổi này là lãi suất thường giảm khi kinh tế khủng hoảng. Tất cả những yếu
tố khác không đổi, nhu cầu vay tiền tăng sẽ đẩy lãi suất lên. Tuy nhiên, nếu lãi suất mà
khách hàng và doanh nghiệp phải trả tăng lên quá nhanh, chi tiêu sẽ tụt giảm và dẫn
đến kinh tế sẽ bị chậm lại.
---------------------------------3) Khi lãi suất “thực” ở mức tương đối thấp tại một nước nhất định, thì
tiền tệ của nước đó thường được cho là yếu. Hãy giải thích lý do.
Trả lời:
Trong lịch sử phát triển kinh tế, có rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng đã
nghiên cứu và đưa ra những lý thuyết cơ bản về lãi suất, song John Taylor, một tên
tuổi lừng danh trong giới chuyên gia kinh tế, nhất là chuyên gia trong lĩnh vực tiền tệ
và kinh tế vĩ mô của Mỹ, người đã kỳ công trong việc nghiên cứu dựa trên các học
thuyết kinh tế kinh điển để đưa ra cách tính toán lãi suất danh nghĩa phù hợp trong
5


mối quan hệ với tăng trưởng và lạm phát - mà giới kinh tế thường gọi là quy tắc
Taylor. Quy tắc Taylor sẽ giúp cho một ngân hàng trung ương xác định được các tỷ lệ
lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế thay đổi để đạt được hai mục tiêu là
ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn. Quy tắc Taylor có
thể được mô tả theo phương trình sau:
Trong đó:

: Lãi suất danh nghĩa ngắn hạn mục tiêu



: Lạm phát thực tế
: Tỷ lệ lạm phát mục tiêu của NHTW
: Lãi suất thực tại điểm cân bằng của thị trường
: Logarit của tổng sản lượng GDP thực tế
: Logarit của tổng sản lượng GDP tiềm năng

Để áp dụng quy tắc Taylor, ngân hàng trung ương xác định một mức lãi suất
thực ngắn hạn nên dựa trên 3 yếu tố: lạm phát thực tế so với lạm phát mục tiêu; chênh
lệch giữa sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng; mức lãi suất ngắn hạn tại đó
nền kinh tế đạt mức toàn diện nhân công.
Một vấn đề được quan tâm trong lý thuyết kinh tế khi phân tích các tác động
chính sách, đó là độ trễ thời gian tác động của thay đổi chính sách gắn với các yếu tố
tiền tệ (lãi suất, cung tiền, tỷ giá...) tới các yếu tố vĩ mô như đầu tư, lạm phát. Bởi các
quyết sách chỉ có hiệu quả cao nếu xác định được độ trễ này. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề không đơn giản, vì cùng một chính sách nhưng độ trễ tác động là rất khác nhau
trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Có rất nhiều sự thay đổi và không chắc
chắn xung quanh độ trễ thời gian trên. Cụ thể, tác động chính sách sẽ phụ thuộc nhiều
nhân tố khác nhau, như chu kỳ kinh doanh, lòng tin của người tiêu dùng và phản ứng
của họ như thế nào đối với sự thay đổi chính sách, giai đoạn của chu kỳ kinh doanh,
các sự kiện trong nền kinh tế thế giới và kỳ vọng về lạm phát trong tương lai.
Nền kinh tế hiện nay là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất
ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa
lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch
chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị
trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Điều đó có
nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị
6



trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng
trưởng kinh tế. Như vậy, Khi lãi suất “thực” ở mức tương đối thấp tại một nước nhất
định, thì tiền tệ của nước đó thường được cho là yếu.
4. Một nhà đầu cơ dự tính NZ$ sẽ tăng giá trong 5 ngày tới từ $0.48 lên
$0.50. Nhà đầu cơ này có khả năng vay $5 triệu. Lãi suất cho vay NZ$ là
6.80%/năm và Lãi suất vay USD là 7.50%/năm. Giả định 360 ngày trong một
năm tài chính nếu bạn lựa chọn phải tính toán.
Trả lời:
- Nhà đầu cơ này có khả năng vay $5 triệu, chuyển đổi sang NZ$ :
5.000.000$ /0,48$ = 10.416.667 NZ$
- Lãi suất cho vay NZ$ là :
[1 + 6.80% (5/360)] = 10.426.505 $.
- Chuyển đổi Đôla Mỹ sang NZ$ :
10.426.505 $ x $0.50 = 5.213.252$
- Trả nợ vay USD cho 5 ngày:
[(1 + 7.50 (5/360)] = $ 5.005.208
Như vậy, kết quả sẽ sinh lợi:
5.213.252$ - $ 5.005.208 = + 208.044 $ => Nên đầu tư.

7


Phần B:
5. Diamond Bank dự tính đô la Singapore sẽ giảm giá so với đồng đôla từ
mức tỷ giá giao ngay $0.43 xuống $0.42 trong 60 ngày. Các mức lãi suất vay và
cho vay liên ngân hàng được cho như sau:
Lãi suất cho vay

Lãi suất vay


Đôla Mỹ

7.0%

7.2%

Đô la Singapore

22.0%

24.0%

Diamond Bank xem xét vay 10 triêu đôla Singapore trên thị trường liên
ngân hàng và đầu tư số tiền đó vào đôla trong 60 ngày. Hãy ước tính lợi nhuận
(hoặc thua lỗ) từ chiến lược này. Diamond Bank có nên theo đuổi chiến lược này
hay không?
Trả lời:
- Vay Singapore trên thị trường liên ngân hàng 10 triệu đôla => Chuyển sang
Đôla Mỹ :
10.000.000S$ x 0,43$ = 4.300.000 $.
- Đầu tư số tiền đó vào đôla trong 60 ngày:
7% x (60/360) = 1,17%.
- Tổng số tiền tích lũy được trong vòng 60 ngày:
4.300.000 $ x (1 + 0,0117) = 4.350.310 $.
- Chuyển đổi Đôla Mỹ sang Đôla Singapore trong vòng 60 ngày:
4.350.310 $ / 0,42$ = 10.357.881S$.
- Tỷ lệ được trả trên khoản vay là:
0,24 × (60/360) = 0,04.
Số tiền còn nợ trên Đôla Singapore vay là:
10.000.000 S$ x (1 + 0,04) = S$ 10.400.000

Chiến lược này dẫn đến lỗ:
S$ 10.357.881 - S$ 10.400.000 = -S $ 42.119
Kết luận: Như vậy, Diamond Bank không nên theo đuổi chiến lược này

8


6. Năm trước, một đôla bằng 7 kronor Thụy Điển và một zloty Ba Lan
bằng 0.40 đôla. Hiện nay, đồng đôla bằng 8 kronor Thụy Điển và một zloty Ba
Lan bằng 0.44 đôla. Tỷ giá hối đoái của đồng zloty Ba Lan so với kronor Thụy
Điển (nghĩa là số kronor có thể được mua bằng một zloty) thay đổi bao nhiêu
phần trăm so với năm trước?
Trả lời:
Giá cũ năm trước:
- Tỷ giá giao ngay của kronor = (1,00 / 7) = 0,142857 $
- Tỷ giá giao ngay của zloty = 0,40 $
- Tỷ giá giao ngay của zloty trong kronor = 0,4$ / 0,142857$ = 2,8
--------------------Giá mới sau 1 năm
- Tỷ giá giao ngay của kronor = (1.00 / 8) = 0,125$
- Tỷ giá giao ngay của zloty = 0,44$
- Tỷ giá giao ngay của zloty trong kronor = 0,44$ / 0,125$ = 3,52
- Điều này cho thấy rằng tỷ giá chéo của zloty trong kronor đã đánh giá cao
% tăng giá = (3.52-2.8) /2.8 = 25,71%

9


Phần C:
7. Hãy viết một bài luận (essay) giải thích về các hợp đồng/công cụ phái
sinh khác nhau mà doanh nghiệp có thể sử dụng để quản lý những rủi ro tỷ giá

hối đoái của họ?
Trả lời:
Rủi ro hối đoái giao dịch (transaction exposure) (từ đây được gọi là rủi ro giao
dịch) là một vấn đề mà các doanh nghiệp luôn phải đối đầu trong kinh doanh quốc tế.
RRGD xảy ra khi doanh nghiệp có dòng tiền mặt ràng buộc bằng hợp đồng
(contractual cash flow) được định giá bằng ngoại tệ. Để quản lý rủi ro giao dịch trong
kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp có thể tìm cách đẩy các rủi ro này cho đối tác thông
qua các kỹ thuật hoạt động (operational techniques) hoặc tạo ra trạng thái đóng bằng
ngoại tệ cho doanh nghiệp bằng các hợp đồng tài chính (financial contracts).
Để quản lý rủi ro giao dịch, các hợp đồng tài chính mà các doanh nghiệp
thường sử dụng là hợp đồng kỳ hạn (forward), quyền chọn (option), hoán đổi (swap)
và hợp đồng tín dụng. Các kỹ thuật hoạt động có thể sử dụng là lựa chọn tiền tệ để ghi
hóa đơn, netting và chiến lược lead/lag.
Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm bằng hợp đồng kỳ hạn
Gọi St là tỷ giá giao ngay vào thời điểm thanh toán của hợp đồng, F là tỷ giá kỳ
hạn 1 năm. Có 3 trường hợp có thể xảy ra: (1) St>F, hợp đồng kỳ hạn có lãi, hay nói
cách khác, doanh nghiệp nên thực hiện bảo hiểm; (2) St=F, hợp đồng kỳ hạn hòa vốn,
có nghĩa là, bảo hiểm hay không bảo hiểm đều như nhau; (3) Stbị lỗ, tức, không bảo hiểm có lợi hơn thực hiện bảo hiểm. Như vậy, nếu doanh nghiệp
dự đoán tỷ giá giao ngay vào thời điểm thanh toán lớn hơn tỷ giá kỳ hạn, doanh
nghiệp nên thực hiện bảo hiểm. Ngược lại, nếu St được đự đoán là sẽ nhỏ hơn F,
doanh nghiệp không nên thực hiện bảo hiểm. Tuy nhiên, do doanh nghiệp không thể
dự đoán chính xác tỷ giá nên có thể doanh nghiệp thực hiện bảo hiểm nhưng giá giao
ngay thực tế lại nhỏ hơn tỷ giá kỳ hạn. Trong trường hợp này, thiệt hại trên hợp đồng
kỳ hạn được xem là chi phí bảo hiểm của doanh nghiệp.
Thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm thông qua thị trường tiền tệ
Theo ngang giá lãi suất (IRP), lợi tức của hợp đồng kỳ hạn và lợi tức có được
từ kinh doanh chênh lệch lãi suất là như nhau. Vì thế, hai hình thức bảo hiểm bằng
hợp đồng kỳ hạn và bảo hiểm thông qua thị trường tiền tệ không có gì khác biệt. Tuy
10



nhiên, nếu IRP bị chệch, hiệu quả của hai hình thức bảo hiểm này là không giống
nhau. Khi thị trường tài chính thế giới là thị trường hiệu quả và cạnh tranh hoàn hảo,
IRP không bị chệch.
Thứ ba, doanh nghiệp bảo hiểm bằng hợp đồng quyền chọn
Một trong những nhược điểm của bảo hiểm bằng hợp đồng kỳ hạn và thị
trường tiền tệ là cả hai phương thức này đều triệt tiêu toàn bộ rủi ro giao dịch. Điều
này có nghĩa là khi tỷ giá hối đoái biến động ngược với dự đoán ban đầu, doanh
nghiệp bị thua lỗ trên hợp đồng kỳ hạn, khoản thua lỗ này khó có thể dự đoán trước.
Hay nói cách khác, chi phí bảo hiểm không xác định trước được. Hợp đồng quyền
chọn cho phép doanh nghiệp có thể hạn chế được nhược điểm này. Tóm lại, khi tỷ giá
hợp đồng thay đổi đúng theo dự đoán của doanh nghiệp, bảo hiểm bằng nghiệp vụ kỳ
hạn có lợi hơn cho doanh nghiệp nhưng nếu ngược lại, tỷ giá biến động ngược chiều
với dự đoán của doanh nghiệp, chi phí bảo hiểm tối đa mà doanh nghiệp phải gánh
chịu trên hợp đồng quyền chọn là xác định trước và rẻ hơn so với hợp đồng kỳ hạn.
Nếu doanh nghiệp đang phải đương đầu với rủi ro ngẫu nhiên, bảo hiểm bằng hợp
đồng quyền chọn là sự lựa chọn phù hợp. Bảo hiểm bằng collar quyền chọn có thể
xem là sự lựa chọn tốt nhất do phí bảo hiểm rẻ và mức độ biến động của giá mua thấp.
Thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro hiện tại hóa bằng hợp đồng hoán đổi.
Hợp đồng hoán đổi là công cụ bảo hiểm tốt nhất đối với những dòng tiền mặt hiện tại
hóa của doanh nghiệp. Hợp đồng hoán đổi là một sự thỏa thuận đổi một đồng tiền này
lấy tiền tệ khác ở một tỷ giá xác định trước (tỷ giá hoán đổi) vào những ngày trong
tương lai. Có nghĩa là, hợp đồng hoán đổi là một danh mục các hợp đồng kỳ hạn với
những ngày đáo hạn khác nhau.
Cuối cùng, doanh nghiệp bảo hiểm chéo rủi ro tiền tệ những đồng tiền không
phổ biến (tiền tệ yếu). Nếu doanh nghiệp có một khoản phải trả, hay phải thu định giá
bằng một đồng tiền không phổ biến trên thị trường tiền tệ thế giới như đồng Won của
Hàn Quốc, đồng Bhat của Thái Lan, doanh nghiệp không thể sử dụng các hợp đồng
phái sinh của những tiền tệ này để bảo hiểm. Trong trường hợp này, doanh nghiệp

buộc phải thực hiện bảo hiểm chéo. Kỹ thuật bảo hiểm chéo là thực hiện một hợp
đồng phái sinh bằng một tiền tệ có hệ số tương quan cao với đồng tiền phải bảo hiểm.
Doanh nghiệp có thể quản lý rủi ro giao dịch bằng các hợp đồng tài chính và kỹ
thuật hoạt động. Tuy nhiên, do các kỹ thuật hoạt động đẩy rủi ro cho đối tác của doanh
11


nghiệp nên việc thực hiện được hay không phụ thuộc vào mối quan hệ với đối tác.
Doanh nghiệp nên thực hiện bảo hiểm khi thị trường không hoàn hảo hay khi thế giới
biến động nhiều. Nếu thực hiện bảo hiểm, collar quyền chọn hay quyền chọn lại là sự
lựa chọn tốt nhất. Hợp đồng kỳ hạn là sự lựa chọn tốt thứ hai. Bảo hiểm trên thị
trường tiền tệ gặp nhiều khó khăn do không phải lúc nào doanh nghiệp cũng vay được
và việc vay vốn cũng phức tạp nên không được xem là một công cụ tốt. Nếu tiền tệ sử
dụng không phổ biến, doanh nghiệp phải thực hiện bảo hiểm chéo.
-------------------------------------------------8. Một nhà đầu cơ có thể sử dụng một số hợp đồng/công cụ phái sinh để
vốn hóa các thay đổi tỷ giá hối đoái dự tính như thế nào?
Trả lời:
Các phái sinh có thể được sử dụng để nhận rủi ro, chứ không phải là để đảm
bảo hoặc bảo hiểm chống lại rủi ro. Vì vậy, một số cá nhân và các tổ chức sẽ tham gia
vào một hợp đồng phái sinh để đầu cơ vào giá trị của tài sản cơ bản, đánh cược rằng
bên tìm kiếm bảo hiểm sẽ sai lầm về giá trị tương lai của tài sản cơ bản. Các nhà đầu
cơ tìm mua một tài sản trong tương lai tại một mức giá thấp theo hợp đồng phái sinh
khi cho rằng giá thị trường trong tương lai của nó là cao, hoặc bán một tài sản trong
tương lai tại một mức giá cao theo một hợp đồng phái sinh khi cho rằng giá thị trường
trong tương lai của nó là thấp.
Cá nhân, tổ chức cũng có thể tìm kiếm các cơ hội chênh lệch, như khi giá mua
hiện tại của tài sản giảm xuống dưới mức giá được xác định trong một hợp đồng
tương lai để bán tài sản.
Theo nghĩa rộng, có hai nhóm hợp đồng phái sinh, được phân biệt bởi cách mà
chúng được giao dịch trên thị trường. Phái sinh OTC là các hợp đồng được giao dịch

(và đàm phán riêng) trực tiếp giữa hai bên, mà không cần phải thông qua một cuộc
trao đổi hoặc trung gian khác. Các sản phẩm như hợp đồng hoán đổi, thỏa thuận lãi
suất kỳ hạn, và các tùy chọn ngoại lai hầu như luôn luôn giao dịch theo cách này. Các
thị trường phái sinh OTC là thị trường lớn nhất cho các phái sinh, và phần lớn không
được kiểm soát đối với việc tiết lộ thông tin giữa các bên, vì thị trường OTC được
thực hiện bởi các ngân hàng và các bên khác rất phức tạp. Hợp đồng phái sinh niêm
yết (ETD) là những công cụ phái sinh được giao dịch thông qua các chất dẫn xuất
chuyên ngành trao đổi, hoặc các thị trường niêm yết khác. Một thị trường phái sinh
12


niêm yết là một thị trường nơi các cá nhân mua bán các hợp đồng được tiêu chuẩn hóa
đã được thị trường này xác định. Một thị trường phái sinh niêm yết hoạt động như một
trung gian cho tất cả các giao dịch liên quan, và có lợi nhuận ngay từ đầu từ cả hai bên
tham gia trao đổi để hành động như người bảo lãnh.
Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều
nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không
băn khoăn về khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi
đầu tư vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do các
bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một lượng cung cấp
nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần
lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không biến động nhiều như
những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các
nhà đầu tư thường tiếc nuối vì đó bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đó đầu tư
vào công cụ phái sinh.
Trên đây là những công cụ phái sinh phổ biến trên các thị trường giao dịch
chứng khoán trên thế giới. Đây là những công cụ giúp các nhà đầu tư tránh được
những nguy cơ do rủi ro khi đầu tư vào thị trường đầy mạo hiểm này.
-------------------------------------------------9. Hãy liệt kê và giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến phí quyền chọn
MUA/BÁN

Trả lời:
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ (option) là một công cụ tài chính, cho phép người
mua hợp đồng có quyền (chứ không phải nghĩa vụ), mua hoặc bán một đồng tiền này
với một đồng tiền khác tại tỷ giá cố định đã thỏa thuận trước tại một thời gian nhất
định trong tương lai hay gọi là tỷ giá quyền chọn (strike price/ exercise price).
Các loại quyền chọn:
- Quyền chọn kiểu Châu Âu: người mua quyền chọn chỉ được thực hiện vào
ngày hết hiệu lực trên hợp đồng
- Quyền chọn kiểu Mỹ: người mua quyền chọn được thực hiện bất cứ ngày nào
từ ngày ký hợp đồng đến ngày hết hiệu lực.
Các loại hợp đồng quyền chọn:

13


+ Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ (call option) là hợp đồng cho phép người
mua quyền chọn được quyền mua một ngoại tệ với tỷ giá xác định trong một khoản
thời gian nhất định.
+ Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ (put option) là hợp đồng cho phép người
mua quyền chọn được quyền bán một ngoại tệ với tỷ giá xác định trong một khoản
thời gian nhất định.
Những nhân tố ảnh hưởng đến phí của hợp đồng quyền chọn:
* Giá trị nội tại của hợp đồng quyền chọn: Phí của hợp đồng quyền chọn ≥ giá
trị nội tại của hợp đồng
* Giá trị ngoại lai (giá trị thời gian Option Time Value) của hợp đồng quyền
chọn: giá trị ngoại lai = Phí hợp đồng – Giá trị nội tại
* Thời hạn đến hạn của hợp đồng quyền chọn
* Quyền chọn kiểu Mỹ/ Châu Âu và yếu tố lãi suất
* Phí quyền chọn kiểu Boston – Style Option: người bán quyền chọn cấp tín
dụng cho người mua quyền chọn, đồng thời yêu cầu phải trả lãi suất cho khoản phí

quyền chọn chậm trả.

14


Phần D:
10. Giá trị của đôla Australia (A$) hiện nay là $0.73. Hôm qua, giá trị của đôla
Australia là $0.69. Đồng đôla Australia ____ ở mức ____%.
a. Giảm giá; 5.80
b. Giảm giá; 4.00
(c). Tăng giá; 5.80
d. Tăng giá; 4.00
Giải thích:
Hôm qua, giá trị của đôla Australia là $0.69. Đồng đôla Australia ở mức:
($0.73 - $0.69)/$0.69 = + 5.80%
---------------------------------------------11. Tỷ giá kỳ hạn một năm của đồng bảng Anh được báo ở mức $1.60, và tỷ giá
giao ngay của đồng bảng Anh ở mức $1.63. ____kỳ hạn là ____ %.
a. Mức chiết khấu; 1.9
(b). Mức chiết khấu; 1.8
c. Mức gia tăng; 1.9
d. Mức gia tăng; 1.8
Giải thích:
(F/S) - 1 = ($1.60/$1.63) - 1 = -1.8 percent.
--------------------------------------------12. Một doanh nghiệp muốn sử dụng một quyền chọn để tự bảo hiểm 12.5 triệu
các khoản phải thu từ các doanh nghiệp New Zealand. Tiền lãi là $0.03. Giá thực hiện
là $0.55. Nếu quyền chọn này được thực hiện, tổng lượng đôla nhận được là bao nhiêu
(sau khi tính trả lãi)?
a. $6,875,000.
b. $7,250,000.
c. $7,000,000.

(d). $6,500,000.
e. Các đáp án trên đều sai
Giải thích:
- Doanh nghiệp muốn sử dụng một quyền chọn để tự bảo hiểm 12.5 triệu Đôla
từ doanh nghiệp New Zealand:
15


12.500.000 NZ$ x 0,55$ = 6.875.000 $.
- Phí phải trả cho quyền chọn để tự bảo hiểm:
12.500.000 NZ$ x 0,03$ = 375.000 $.
- Số tiền Đôla nhận được sau khi trừ phí bảo hiểm:
6.875.000 $ - 375.000 $ = 6.500.000 $
-------------------------------------------------13. Tiền lãi trên một quyền chọn bán đồng bảng là $0.03 mỗi đơn vị. Giá thực
hiện là $1.60. Điểm hòa vốn là____ đối với người mua, và____ đối với người bán.
(Giả định rằng chi phí các giao dịch bằng 0 và người mua và người bán của quyền
chọn bán là các nhà đầu cơ.)
a. $1.63; $1.63
b. $1.63; $1.60
c. $1.63; $1.57
d. $1.57; $1.63
(e). Các đáp án trên đều sai
Giải thích:
Điểm hòa vốn đối với người mua và đối với người bán là: 1,6$ - 0,03$ = 1,57$
---------------------------------------------------14. Giả định rằng lãi suất chào mua của một đôla Singapore là $0.40 trong khi
lãi suất chào bán là $0.41 tại Ngân hàng X. Giả định rằng lãi suất chào mua của một
đôla Singapore là $0.42 trong khi lãi suất chào bán là $0.425 tại Ngân hàng Z. Với
thông tin này, bạn sẽ được gì nếu bạn sử dụng $1,000,000 và thực hiện arbitrage địa
phương? Nghĩa là, cuối cùng bạn sẽ có bao nhiêu trên mức $1,000,000 khi bắt đầu?
a. $11,764.

b. - $11,964.
c. $36,585.
(d). $24,390.
e. $18,219.
Giải thích:
- Nếu tôi sử dụng 1.000.000 $ và thực hiện arbitrage địa phương, tôi sẽ được:
1.000.000 $/0,41 $ = 2.439.024 x 0,42$ = 1.024.390 $
- Cuối cùng tôi sẽ có số tiền trên mức 1.000.000 $ khi bắt đầu:
16


1.024.390 $ - 1.000.000 $ = 24.390 $
-------------------------------------------------15. Giả định có những thông tin sau:
Các nhà đầu tư Mỹ có $1,000,000 để đầu tư:
Lãi suất tiền gửi 1 năm của các ngân hàng Mỹ =

10%

Lãi suất tiền gửi 1 năm bằng đồng bảng Anh

=

13.5%

Tỷ giá kỳ hạn 1 năm của francs Thụy Sĩ

=

$1.26


Tỷ giá giao ngay của franc Thụy Sĩ

=

$1.30

Với những thông tin trên:
(a). Ngang giá lãi suất tồn tại và phương pháp kinh doanh chênh lệch lãi
suất có phòng ngừa của các nhà đầu tư Mỹ mang lại một mức lợi tức bằng trong
nước.
b. Ngang giá lãi suất không tồn tại và phương pháp kinh doanh chênh lệch lãi
suất có phòng ngừa của các nhà đầu tư Mỹ mang lại một mức lợi tức cao hơn trong
nước.
c. Ngang giá lãi suất tồn tại và phương pháp kinh doanh chênh lệch lãi suất có
phòng ngừa của các nhà đầu tư Mỹ mang lại một mức lợi tức cao hơn trong nước.
d. Ngang giá lãi suất không tồn tại và phương pháp kinh doanh chênh lệch lãi
suất có phòng ngừa của các nhà đầu tư Mỹ mang lại một mức lợi tức thấp hơn trong
nước.
Giải thích:
- Các nhà đầu tư Mỹ có $1,000,000 để đầu tư
$1,000,000/$1.30 = 793,651 pounds
- Lãi suất tiền gửi 1 năm bằng đồng bảng Anh
793,651 pounds x (1.135) = 900,794
Tỷ giá kỳ hạn 1 năm của francs Thụy Sĩ
900,794 x $1.26 = $1,100,076.
Phương pháp kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa của các nhà đầu tư
Mỹ mang lại một mức lợi tức bằng : ($1,100,076 − $1,000,000)/($1,000,000) = 10%.
-----------------------------------------16. Giả định rằng tỷ lệ lạm phát tại Singapore là 3%, trong khi tỷ lệ lạm phát tại
Mỹ là 8%. Theo PPP, đôla Singapore sẽ ____ ở mức ____%.
17



(a). Tăng giá; 4.85
b. Giảm giá; 3,11
c. Tăng giá; 3.11
d. Giảm giá; 4.85
Giải thích:
Đôla Singapore sẽ ở mức :
(1.08/1.03) - 1 = + 4.85%.
--------------------------------------------------17. Giả định rằng tỷ lệ lãi suất của đồng bảng là 5% và đồng bảng được dự tính
sẽ giảm giá 1.5%. Với Hiệu Ứng Fisher quốc tế (IFE) giữa Anh và Mỹ, lãi suất của
Mỹ sẽ là ____.
(a). 3.43%
b. 5.68%
c. 6.5%
d. 7.3%
Trả lời:
Lãi suất của Mỹ sẽ là: (1 + 0.05) x (1 + 0.015) - 1 = 3.43%

18


Phần E:
Theo tôi, yếu tố có tính đe dọa cao hơn đối với khả năng sinh lời của Banbury
là cả giá bông và sự tăng giá của đồng rupee
Giá cả được thể hiện như là vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của hàng
hoá: Định giá thấp (giá xâm nhập, giới thiệu) định giá ngang giá thị trường hay định
giá cao. Việc định giá cần phải xem xét các yếu tố sau: Lượng cầu đối với hàng hoá và
tính tới số tiền mà dân cư có thể để dành cho loại hàng hoá đó, chi phí kinh doanh và
giá thành đơn vị sản phẩm. Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh để từ đó có

cách định giá thích hợp cho mỗi loại thị trường. Với một mức giá ngang giá thị trường
giúp cho doanh nghiệp giữ được khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống. Nếu
doanh nghiệp tìm ra được các biện pháp hạ giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng
lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một mức giá thấp hơn giá thị trường sẽ
thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng bán, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thâm
nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá thị
trường chỉ sử dụng được đối với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp
cho doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (lợi nhuận siêu ngạch). Để chiếm lĩnh
được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách
giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm
hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ
giá hối đoái giảm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng lên trên thị
trường quốc tế vì khi đó giá bán của doanh nghiệp thấp hơn hoá bán của đối thủ cạnh
tranh của nước khác, và ngược lại tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho giá bán hàng hoá
cao hơn đối thủ cạnh tranh đồng nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường quốc tế giảm.
Hợp đồng giao sau, kỳ hạn, quyền chọn và hoán đổi là các công cụ phổ biến
nhất để quản trị rủi ro giá hàng hóa. Tuy nhiên, mỗi công cụ đều có chức năng, yêu
cầu sử dụng và tác động chi phí khác nhau cho nên lựa chọn công cụ nào để quản trị
rui ro giá còn tùy thuộc vào từng dạng người dùng và tình huống cụ thể của họ. Hợp
đồng kỳ hạn và quyền chọn được sử dụng nhằm làm giảm rủi ro giá ngắn hạn, thường
từ 3-8 tháng. Riêng hợp đồng hoán đổi (swap) tuy cũng quan trọng nhưng không là
công cụ chính trong nông nghiệp, bởi hợp đồng hoán đổi tương tự như các hợp đồng
19


dài hạn, hoặc là không sẵn có, hoặc là tốn kém, thường thì các tổ chức lớn trong lĩnh
vực sản xuất và tiêu thụ mới sử dụng.
Tôi cho rằng Lapura nên tự bảo hiểm các chi phí cho bông của ông bằng các

hợp đồng giao sau. Bởi vì, Hợp đồng giao sau (forward contract hoặc forward) là hợp
đồng giữa hai bên – người mua và người bán – để mua hoặc bán tài sản cơ sở vào một
ngày trong tương lai với giá đã thỏa thuận ngày hôm nay (chứ không phải “giá hôm
nay”). Hai bên tham gia hợp đồng xác định các điều khoản của hợp đồng. Theo nghĩa
này, hợp đồng được tùy thích thiết lập. Mỗi bên có thể sẽ đối mặt với rủi ro mất khả
năng thanh toán của bên còn lại. Thị trường giao sau là một thị trường riêng tư
(private) và không bị kiểm soát (unregulated). Chúng là những giao dịch riêng tư do
các bên muốn giữ bí mật và ít can thiệp bởi chính phủ. Nhu cầu riêng tư và không bị
kiểm soát không có nghĩa là bất hợp pháp hoặc sai lệch, mà chỉ đơn giản là phản ánh
mong muốn duy trì mức độ bí mật kinh doanh một cách cẩn trọng.
Trong thanh toán quốc tế, các biện pháp sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của
một nước nào đó chính vì vậy trong các hợp đồng đều có quy định điều kiện tiền tệ.
Điều kiện tiền tệ chỉ việc sử dụng các loại tiền tệ nào để tính toán và thanh toán trong
các hợp đồng. Đó có thể là vàng, các đồng tiền chung, thuộc các khối kinh tế và tài
chính quốc tế như SDR, DEM .v.v..., đó có thể là tiền mặt hoặc tiền tệ tính dụng tồn
tại dưới các hình thức như séc, hối phiếu.v.v... Trong đó tiền tệ tính toán là tiền dùng
để thể hiện giá cả và tính toán tổng trị giá hợp đồng - còn tiền tệ thanh toán là tiền tệ
được dùng để thanh toán cho nhà xuất khẩu trong các hợp đồng mua bán ngoại
thương. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại
thương phụ thuộc vào tập quán về thanh toán trên thế giới, vị trí đồng tiền đó trên thị
trường quốc tế hay sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán. Và điều kiện tiền tệ
chỉ ra cách xử lý khi giá trị đồng tiền thanh toán biến động. Do đó phải lựa chọn đồng
tiền tương đối ổn định xác định mối quan hệ tỷ giá với đồng tiền thanh toán để đảm
bảo giá trị của đồng tiền thanh toán. Khi thanh toán nếu tỷ giá đó thay đổi thì giá cả
hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng phải được điều chỉnh một cách tương ứng.
Hiện nay Đồng Đôla đã giảm giá so với đồng rupee và kết quả là lượng tiền
rupee từ doanh số xuất khẩu càng ngày càng ít đi. Vấn đề nằm ở chỗ, trên cương vị là
một nhà xuất khẩu mà thế giới gọi là một “thị trường mới nổi”, những loại tiền tệ mà
ông có thể chọn là đôla Mỹ, Euro châu Âu, Yên Nhật. Và đồng rupee đã và đang
20



mạnh lên so với tất cả những đồng tiền trên. Vì vậy, tôi cho rằng Lapura nên chọn loại
tiền tệ là Đôla Mỹ để lập hóa đơn cho đơn hàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông cũng xem xét một số hình thức tự bảo hiểm thị trường tiền tệ - vay lira
Thổ Nhĩ Kỳ căn cứ theo các khoản phải thu. Mặc dù ông đã bán hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ
5 năm, ông chưa bao giờ vay tiền ở đó và chỉ có mối quan hệ với ngân hàng tại
Ankara. Nếu ông cung cấp lịch sử bán hàng cho ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ thì ông có thể
sử dụng khoản phải thu $250,000 làm thế chấp. Lãi suất cho vay nội địa tại Thổ Nhĩ
Kỳ cho các công ty có chất lượng tín dụng tương tự là khoảng 14% , theo các ngân
hàng của ông. Nhưng các ngân hàng cũng nói với ông rằng vì là một doanh nghiệp
nước ngoài quy mô nhỏ nên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tính thêm một khoản chênh lệch
có điểm cơ sở 300. Nhưng nếu ông thực sự nhận được tiền ngay thì lãi suất tiền gửi
nội địa của Ấn Độ trung bình là 10.4%.
Các quyền chọn tiền tệ gần đây đã trở thành một lựa chọn tự bảo hiểm tại Ấn
Độ. Sàn Giao Dịch Chứng Khoán Quốc Gia của Ấn Độ tại Mumbai đã mở một thị
trường quyền chọn tiền tệ hồi tháng 10/2010. Vì không có kinh nghiệm về các quyền
chọn nên Lapura phân vân xem liệu một quyền chọn có bảo vệ tốt hơn một hợp đồng
kỳ hạn hay không. Ít nhất hiện nay thị trường các quyền chọn được giới hạn cho các
quyền chọn INR/USD. Mặc dù ông Lapura có thể thấy được tiềm năng bề ngoài mà
một hợp đồng quyền chọn có thể mang lại nhưng ông phân vân mức mà hợp đồng này
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến biên lợi nhuận hạn hẹp của ông nếu ông phải thực hiện
hợp đồng này.
Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là rất quan trọng và
cần thiết. Qua đó, cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả của mỗi hợp đồng
xuất khẩu cũng như một giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ các
đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp với việc thực hiện
các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, là
phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động xuất khẩu. Không thể

đánh giá được mức độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu khi mà bản
thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện của nó. Vì vậy, hiểu
đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả
kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý
21


luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở
để xác định các tiêu chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định
yêu cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại
thương. Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói riêng là
phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất kỳ mà phải là kết quả
có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết quả có được ở mức độ nào với giá
nào đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết qủa.
Vì vậy, đánh giá hoạt động kinh tế xuất khẩu không chỉ là đánh giá kết quả mà còn là
đánh giá chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả đó. Vấn đề không phải chỉ là
chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá mà còn là với chi phí bao nhiêu
để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy.

22



×