Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài tập nhóm hình sự II tội giết người cướp của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.38 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển, văn minh, cuộc sống của con người được đầy
đủ hơn về cả vật chất và tinh thần. Nhưng không vì thế mà số lượng tội phạm
được giảm xuống, thậm chí hoạt động của các đối tượng phạm tội diễn biến
phức tạp hơn, thủ đoạn gây án ngày càng tinh vi và có chiều hướng gia tăng. Để
thấy được tính nguy hiểm của tội phạm, nhóm chúng em đã tiến hành tìm hiểu
một tình huống cụ thể với nội dung như sau: “A (17 tuổi) và B (18 tuổi) có mâu
thuẫn từ trước nên hẹn nhau lên bờ đê để “nói chuyện”. Khi đi, A mang theo
một con dao nhọn giấu trong người, do không giải quyết được mâu thuẫn, A
đã dùng dao đâm một nhát trúng bụng B làm B tử vong.
Câu hỏi:
1. Xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội của A.
Hình phạt nặng nhất mà A có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù?
2. Giả sử, sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di động của B,
số tài sản trị giá 3 triệu đồng thì hành vi của A cấu thành tội gì? Tại
sao?
3. Giả sử sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì tưởng B chết.
Nhưng sau đó, B được phát hiện đưa đi cấp cứu kịp thời nên chỉ bị
thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35% thì tội danh của A có thay đổi
không? Tại sao?”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội của A.
Hình phạt nặng nhất mà A có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù?
Trả lời:
Trong tình huống trên, A đã có hành vi dùng dao đâm vào bụng B làm B
tử vong. Nhưng không thể dựa vào tình tiết đó mà định tội B được, vì vậy cần

1


phải dựa vào việc B giết A với lỗi cố ý hay lỗi vô ý, Do đó tội của A có thể được


chia làm hai trường hợp như sau:
Trường hợp 1:A phạm tội cố ý giết người.
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người
khác.
-Khách thể: quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng quy
định trong Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, trong tình huống trên, A tước đoạt
tính mạng của B, xâm phạm tới quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ.
-Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi giết người: hành vi chứa đựng khả năng thực tế đưa đến hậu quả
chết người. Trong tình huống trên A đã dùng dao đâm vào bụng B.
Hậu quả của tội phạm: Hành vi vi phạm nói trên đã gây ra hậu quả chết
người. Hậu quả này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Trong tình
huống trên thì hành vi của A đã gây ra hậu quả làm B chết.
Mối quan hệ nhân quả: hành vi khách quan là nguyên nhân dẫn đến hậu
quả chết người. Trong tình huống trên thì hậu quả chết người của B là do hành
vi của A gây ra. Đó là A dùng dao đâm một nhát vào bụng của B, hậu quả là làm
cho B chết, như vậy nguyên nhân B chết là do hành vi đâm dao của A vào bụng
B.
-Chủ thể: là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo
Luật định. Trong khuôn khổ của tình huống đã cho thì A là người có đủ năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định.
-Mặt chủ quan: lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở
đây có thể là lỗi có ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Trong trường hợp này, A
phạm tội với lỗi cố ý làm chết người bởi A đã thấy hậu quả chết người tất nhiên
sẽ xảy ra và mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy với các dấu hiệu trên thì hành vi của A đã cấu thành tội giết
người.

2



Trong tình huống, A đã thực hiện các hành vi đầy đủ các yếu tố để cấu
thành tội giết người. Hành vi của A không thuộc trường hợp nào trong khoản 1
Điều 123 BLHS 2015 nên hành vi của A được xác định theo khoản 2 Điều này
với khung hình phạt là 7 đến 15 năm tù về tội này.
Hình phạt nặng nhất mà A có thể phải chịu
Theo tình huống này, A 17 tuổi nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 101
BLHS 2015 về mức phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi như sau:
“Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội,.., nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù
mà điều luật quy định”
Như vậy, mức hình phạt tù cao nhất mà A phải chịu đối với tội giết người
trong trường hợp này là: ¾ x 15 năm = 11 năm 3 tháng.
Trường hợp 2: A phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng là
làm chết người.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan của tội này là những hành vi có khả năng gây ra
thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khoẻ của con người,
những hành vi đó có thể thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc
không có công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ
thể người khác. Trong tình huống này, A mang theo một con dao nhọn dấu trong
người, do không giải quyết được mâu thuẫn A đã dùng dao đâm một nhát trúng
bụng B và làm B tử vong. Hành vi dùng dao đâm vào bụng B của A đã gây ra
thương tích, làm tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của B. Cụ thể, B đã tử vong.
+ Hậu quả của tội phạm: Hậu quả do hành vi của A gây ra thoả mãn Điểm
a Khoản 4 Điều 134 BLHS: Làm chết người.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác là dấu hiệu bắt buộc
của CTTP. Khi đã xác định có hành vi gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức
3



khoẻ và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác, đòi hỏi phải xác
định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra.
Ở đây, hành vi dùng dao đâm một nhát vào bụng B là hành vi xảy ra trước
và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả là làm B tử vong.
- Chủ thể:
Chủ thể của tội cố ý gây thương tích có thể là bất cứ người nào có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định.
Người có năng lực TNHS là người đã đạt độ tuổt chịu TNHS và không
thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21 BLHS).
Theo Khoản 1 Điều 12 BLHS: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định
khác.
Trong tình huống trên, A đã 17 tuổi và có năng lực TNHS vậy A thoả mãn
các điều kiện để thành chủ thể của tội cố ý gây thương tích.
-Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc là lỗi
cố ý gián tiếp. Trong tình huống này, lỗi của A đối với việc gây thương tích là lỗi
cố ý trực tiếp:
+ Về mặt lý trí: A nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội.
A đã nhận thức rõ là việc dùng dao để gây thương tích sẽ gây nguy hại cho B
nếu như bị đâm phải, nhưng A lại dùng nó để đâm vào bụng B. Ngoài ra, A cũng
nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện sẽ gây nguy hại
đến sức khoẻ, tính mạng của B và có thể dẫn đến hậu quả là làm cho B bị
thương thậm chí dẫn đến chết người (như trong tình huống).
+ Về mặt ý chí: Khi thực hiện hành vi, người phạm tội không chỉ nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành
vi đó mà người phạm tội còn mong muốn hậu quả xảy ra. Trường hợp này, A
nhận thức rõ hành vi dùng dao đâm một nhát vào bụng B là nguy hiểm, có thể

dẫn đến hậu quả là B sẽ bị thương và mong muốn cho thương tích của B xảy ra.
Tuy nhiên hành vi dùng dao đâm vào bụng lại dẫn đến hậu quả là B tử vong.
4


Trong đó, A chỉ có lỗi cố ý đối với việc gây thương tích cho của B, còn đối với
hậu quả chết nguời do hành vi của A gây ra thì lỗi của A là lỗi vô ý và cái chết
của B nằm ngoài ý muốn của A.
Như vậy, với các dâu hiệu trên thì hành vi của A đã câu thành tộ cố ý gây
thương tích với tình tiết định khung tăng nặng là làm chết người và khung hình
phạt đối với hành vi phạm tội của A trong trường hợp này là từ 7 năm đến 14
năm theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 134 BLHS 2015.
Hình phạt nặng nhất mà A có thể phải chịu
Theo tình huống này, A 17 tuổi nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 101
BLHS 2015 về mức phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi như sau:
“Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội,.., nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù
mà điều luật quy định.”
Như vậy, mức hình phạt tù cao nhất mà A phải chịu đối với tội cố ý gây
thương tích trong trường hợp này là: ¾ x 14 năm = 10 năm 6 tháng.
2. Giả sử, sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di động của B, số
tài sản trị giá 3 triệu đồng thì hành vi của A cấu thành tội gì? Tại sao
Trả lời:
Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại
này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
* Khách thể của tội pham: bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân
thân
* Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm quyền

chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả năng
thực hiện quyền sở hữu của mình.
- Hậu quả: thiệt hại xảy ra cho quan hệ sở hữu thể hiện dưới dạng thiệt hại
vật chất.
5


* Chủ thể của tội phạm: Người phạm tội là A 17 tuổi) và khi thực hiện
hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi cố ý trực tiếp.
- Mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống đề bài đã nêu, do A và B có mâu thuẫn và không thể giải
quyết được nên đã lấy con dao nhọn mà mình đã chuẩn bị sẵn đâm một nhát vào
bụng B khiến B tử vong. Sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di
động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng. Ở đây ta thấy, nếu coi hành vi lấy tài
sản của A là trộm cắp tài sản hay công nhiên chiếm đoạt tài sản là không hợp lý.
Bởi lẽ hành vi chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn hai dấu hiệu đó là lén lút và tài
sản đang có chủ. Nhưng trong tình huống trên không thể coi hành vi lấy tài sản
của A là lén lút với B được vì tại thời điểm A lấy tài sản thì B đã chết. Trong Bộ
Luật dân sự năm 2015 quy định, tài sản của người chết để lại là di sản mà quyền
thừa kế của người thừa kế chỉ phát sinh khi đã có giấy báo khai tử. Ở đây rõ
ràng ta thấy, B vừa mới chết tại bờ đê chưa ai biết ngoài A nên chắc chắn rằng B
chưa thể có giấy khai tử được do đó tài sản mà A đã lấy chưa thuộc quyền sở
hữu của những người được thừa kế nên không thể coi A đã có hành vi lén lút lấy
tài sản của người thừa kế. Do đó không thể coi hành vi chiếm đoạt tài sản của A
có cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Bên cạnh đó, nếu coi hành vi chiếm đoạt tài sản của A có cấu thành tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản là không hợp lý. Bởi lẽ công nhiên chiếm đoạt tài

sản là lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản mà có hành vi công
khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác mà không dùng vũ lực,
không đe dọa dùng vũ lực hay nói cách khác người phạm tội không cần và
không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản. Trong
tình huống trên, A đã có hành vi trước đó là dùng dao đâm một nhát vào bụng B
khiến B tử vong do đó tình trạng không có điều kiện ngăn cản của A đã do B gây
6


ra vì thế không thể coi hành vi chiếm đoạt tài sản của A có cấu thành tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản.
Đặt lại vấn đề đề bài đã nêu, do A và B có mâu thuẫn và không thể giải
quyết được nên đã lấy con dao nhọn mà mình đã chuẩn bị sẵn đâm một nhát vào
bụng B khiến B tử vong. Sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di
động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng. Ở đây, coi hành vi lấy tài sản của A là
tội cướp tài sản thì hợp lý hơn cả. Tại khoản 1 Điều 168 Bộ Luật hình sự năm
2015 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.” Hành vi
dùng vũ lực ở đây được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không
có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc
làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt. Đồng thời việc
dùng vũ lực phải có trước chiếm đoạt. Trong tình huống mà đề bài đã nêu, A đã
có hành vi dùng hính con dao mà mình đã chuẩn bị từ trước đâm một nhát vào
bụng B khiến B chết. Ở đây ta thấy A đã dùng sức mạnh vật chất với phương
tiện là con dao mình đã chuẩn bị sẵn trước đó đâm vào bụng B làm B chết, lúc
này A đã hoàn toàn đè bẹp sự chống cự của B chống lại việc chiếm đoạt bởi khi
đó B đã chết. Trong tình huống này mặc dù ý thức chiếm đoạt của A nảy sinh
sau khi thực hiện hành vi dùng vũ lực khiến B chết, cho nên hành vi này của A
đã phạm vào tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm

2015.
Như vậy, trong tình huống trên việcsau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và
điện thoại di động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng thì hành vi của A cấu
thành tội cướp tài sản.
3. Giả sử sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì tưởng B chết.
Nhưng sau đó, B được phát hiện đưa đi cấp cứu kịp thời nên chỉ bị thương
với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35% thì tội danh của A có thay đổi không? Tại
sao?
Trả lời:
7


Trường hợp 1: A phạm tội giết người.
Tội danh của A vẫn không thay đổi, A vẫn phạm tội giết người theo Điều
123 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Theo như giả thiết đề bài: sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì
tưởng B chết. Nhưng sau đó, B được phát hiện đưa đi cấp cứu kịp thời nên chỉ bị
thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Trong trường hợp này, hành vi phạm
tội của A ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội” (Điều
15 BLHS).
Ở đây A đâm B và tưởng B đã chết nhưng B đã được phát hiện và đưa đi
cấp cứu kịp thời nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Việc B
được cứu và còn sống là sự việc ngoài ý muốn của A.
Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã
thực hiện có thể phân loại phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt,
trong đó người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết

các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm.
- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng
người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu
quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra.
Có thể thấy A thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Ở đây A
đã đâm B, sau khi B gục ngã, vì tưởng là B đã chết nên A sợ quá bỏ chạy. Tuy
nhiên B được phát hiện và cấp cứu kịp thời nên không chết và chỉ bị thương tổn
35%. Về hành vi, A đã chuẩn bị dao nhọn giấu trong người và khi không giải
quyết được mâu thuẫn thì A đã dùng dao đâm một nhát trúng bụng B, sau đó B
gục ngã. Khí đó, A đã thực hiện được hết các hành vi được cho là cần thiết làm
cho B chết. Khi B gục xuống và nằm im, A tưởng B đã chết nên sợ quá bỏ chạy,
do được cấp cứu kịp thời nên B thoát chết, do đó, hậu quả vẫn không xảy ra.
8


Trong trường hợp này, A vẫn tin rằng hành vi dùng dao đâm vào bụng đã gây ra
hậu quả chết người cho B.
Căn cứ vào những điều trên, A phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Theo
Điều 15 (BLHS) “...Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội tội phạm chưa đạt”. Do đó, A vẫn phạm tội giết người.
Trường hợp 2: A phạm tội cố ý gây thương tích.
Ở trường hợp này, A nghĩ B chết, tuy nhiên B đã được phát hiện kịp thời
nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Do đó, hậu quả B chết mà
A tưởng mình đã gây ra thực tế vẫn chưa xảy ra, nên A không chịu trách nhiệm
với hậu quả chưa xảy này mà chỉ chịu trách nhiệm với tổn thương cơ thể là 35%
mà A gây ra cho B.
Vậy tội của A thuộc vào Điểm a Khoản 2 Điều 134 Bộ Luật Hình sự: Gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%.


KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích tình huống trên, chúng ta đã phần nào thấy được
sự nguy hiểm của tội phạm gây ra cho người bị hại cũng như cho toàn xã hội. Như
vậy, việc xác định chính xác và nhanh chóng loại tội phạm, loại cấu thành tội
phạm, trách nhiệm hình sự của chủ thể là rất quan trọng, quyết định đến việc xét
xử, áp dụng mức hình phạt đối với tội phạm. Trong đó quan hệ nhân thân và quan
hệ sở hữu là một trong những quan hệ xã hội mà pháp luật Việt Nam nói chung và
luật hình sự Việt Nam nói riêng bảo vệ. Mà tội cố ý gây thương tích, giết người và
chiếm đoạt tài sản lại là những tội phổ biến nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Việc sửa đổi bổ sung một số điều trong BLHS cũng là điều rất cần thiết trong hoàn
cảnh xã hội đang phát triển không ngừng. Đồng thời, các nhà áp dụng pháp luật
cũng cần nắm bắt tình hình kịp thời, vận dụng linh hoạt các điều luật góp phần làm
cho xã hội thêm công bằng dân chủ.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2014;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2014;
3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
4. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam (bình luận
chuyên sâu), Tập 1 - 3, Nxb. TP. Hồ Chí Minh
5. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)
6. Ths. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB lao
động – xã hội, Hà Nội, 2007

10



MỤC LỤC

11



×