Tải bản đầy đủ (.pptx) (15 trang)

power point thuyết trình bài tập nhóm môn luật hình sự II về tội giết người cướp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.26 KB, 15 trang )

Chào mừng cô và các bạn
đến với bài thuyết trình của
NHÓM 1:


Tình huống:
A (17 tuổi) và B (18 tuổi) có mâu thuẫn từ trước nên hẹn nhau lên bờ đê để “nói
chuyện”. Khi đi, A mang theo một con dao nhọn giấu trong người, do không giải
quyết được mâu thuẫn, A đã dùng dao đâm một nhát trúng bụng B làm B tử
vong


Câu hỏi:

3. Giả sử sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì tưởng B chết. Nhưng sau đó, B được phát hiện
đưa đi cấp cứu kịp thời nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35% thì tội danh của A có thay
đổi không? Tại sao?”


1.Xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội của A. Hình phạt nặng nhất mà A có thể
phải chịu là bao nhiêu năm tù?

Trong tình huống trên, A đã có hành vi dùng dao đâm vào bụng B làm B tử vong. Nhưng không
thể dựa vào tình tiết đó mà định tội B được, vì vậy cần phải dựa vào hậu quả B giết A với lỗi cố ý hay
lỗi vô ý

Trường hợp 1:A phạm tội giết người.

Trường hợp 2: A phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng là làm chết
người.



1. Trường hợp 1

 Mặt khách quan: Hành vi khách quan: Hậu quả: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả


Chủ thể:



Mặt chủ quan: Về mặt lý chí: Về mặt ý chí

 Như vậy với các dấu hiệu trên thì hành vi của A đã cấu thành tội giết người.

Mức hình phạt tù cao nhất mà A phải chịu đối với tội giết người trong trường hợp này là: ¾ x 15 năm = 11 năm 3 tháng.


2. Trường hợp 2

 Mặt khách quan: Hành vi khách quan: Hậu quả: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả


Chủ thể:



Mặt chủ quan: Về mặt lý chí: Về mặt ý chí

 Như vậy, với các dâu hiệu trên thì hành vi của A đã câu thành tộ cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tăng nặng là làm chết người và


khung hình phạt đối với hành vi phạm tội của A trong trường hợp này là từ 7 năm đến 14 năm theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 134
BLHS 2015.

Mức hình phạt tù cao nhất mà A phải chịu đối với tội cố ý gây thương tích trong trường hợp này là: ¾ x 14 năm = 10 năm 6
tháng.


2. Giả sử, sau khi B chết, A đã lục túi lấy tiền và điện thoại di động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng
thì hành vi của A cấu thành tội gì? Tại sao

Khách thể của tội pham
Mặt khách quan:

Chủ thể của tội phạm:

Mặt chủ quan của tội phạm


Trong tình huống đề bài đã nêu, do A và B có mâu thuẫn và không thể giải quyết được nên đã lấy con dao
nhọn mà mình đã chuẩn bị sẵn đâm một nhát vào bụng B khiến B tử vong. Sau khi B chết, A đã lục túi lấy
tiền và điện thoại di động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng. Ở đây ta thấy, nếu coi hành vi lấy tài sản của
A là trộm cắp tài sản hay công nhiên chiếm đoạt tài sản là không hợp lý.


Trong tình huống mà đề bài đã nêu, A đã có hành vi dùng hính con dao mà mình đã chuẩn bị từ
trước đâm một nhát vào bụng B khiến B chết. Ở đây ta thấy A đã dùng sức mạnh vật chất với phương
tiện là con dao mình đã chuẩn bị sẵn trước đó đâm vào bụng B làm B chết, lúc này A đã hoàn toàn đè
bẹp sự chống cự của B chống lại việc chiếm đoạt bởi khi đó B đã chết. Trong tình huống này mặc dù ý
thức chiếm đoạt của A nảy sinh sau khi thực hiện hành vi dùng vũ lực khiến B chết, cho nên hành vi
này của A đã phạm vào tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015.




3. Giả sử sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì tưởng B chết. Nhưng sau đó, B được phát hiện đưa đi cấp cứu
kịp thời nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35% thì tội danh của A có thay đổi không? Tại sao?



Trường hợp 1: A phạm tội giết người.



Trường hợp 2: A phạm tội cố ý gây thương tích.


Trường hợp 1: A phạm tội giết người.

Tội danh của A vẫn không thay đổi, A vẫn phạm tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo như giả thiết đề bài: sau khi bị đâm, B gục ngã, A sợ quá bỏ chạy vì tưởng B chết. Nhưng sau đó, B được phát hiện
đưa đi cấp cứu kịp thời nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội của A ở
giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành

Căn cứ vào những điều trên, A phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Theo Điều 15 (BLHS) “...Người phạm tội chưa đạt phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội tội phạm chưa đạt”. Do đó, A vẫn phạm tội giết người


Trường hợp 2: A phạm tội cố ý gây thương tích.

Ở trường hợp này, A nghĩ B chết, tuy nhiên B đã được phát hiện kịp thời nên chỉ bị thương với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 35%.

Do đó, hậu quả B chết mà A tưởng mình đã gây ra thực tế vẫn chưa xảy ra, nên A không chịu trách nhiệm với hậu quả chưa xảy này
mà chỉ chịu trách nhiệm với tổn thương cơ thể là 35% mà A gây ra cho B.

Vậy tội của A thuộc vào Điểm a Khoản 2 Điều 134 Bộ Luật Hình sự: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%.


KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích tình huống trên, chúng ta đã phần nào thấy được sự nguy hiểm của tội phạm gây ra cho người bị hại cũng như
cho toàn xã hội. Như vậy, việc xác định chính xác và nhanh chóng loại tội phạm, loại cấu thành tội phạm, trách nhiệm hình sự của chủ thể là rất
quan trọng, quyết định đến việc xét xử, áp dụng mức hình phạt đối với tội phạm. Trong đó quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu là một trong
những quan hệ xã hội mà pháp luật Việt Nam nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng bảo vệ. Mà tội cố ý gây thương tích, giết người và
.

chiếm đoạt tài sản lại là những tội phổ biến nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay. Việc sửa đổi bổ sung một số điều trong BLHS cũng là điều rất
cần thiết trong hoàn cảnh xã hội đang phát triển không ngừng. Đồng thời, các nhà áp dụng pháp luật cũng cần nắm bắt tình hình kịp thời, vận
dụng linh hoạt các điều luật góp phần làm cho xã hội thêm công bằng dân chủ.




×