Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã tân trạch huyện bố trạch tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.24 KB, 55 trang )

LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn quan trọng trong tiến trình học tập của
mọi sinh viên, nhằm đánh giá, tổng hợp những kiến thức đã được truyền đạt
trong quá trình học tập trên ghế nhà trường, đồng thời là cơ hội để mỗi người
bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, vận dụng những kiến thức
đã học vào thực tiễn sản xuất và quản lý. Qua đó củng cố nâng cao năng lực làm
việc của bản thân, tạo hành trang trước khi ra trường để bước vào môi trường
công tác.
Xuất phát từ những quan điểm đó, được sự nhất trí của Trường đại học
Quảng Bình, Khoa Nông – Lâm – Ngư và nguyện vọng của bản thân, tôi đã về
thực tập tại xã Tân Trạch – huyện Bố Trạch – tỉnh Quảng Bình để tiến hành thực
hiện đề tài.
“Tìm hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân
tại xã Tân Trạch- huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình.”
Để hoàn thành đề tài này, trong suốt thời gian thực hiện tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô giáo trong khoa, các bạn bè, đồng nhiệp, đặc
biệt là sự chỉ bảo, hướng dẫn chu đáo của cô giáo Nguyễn Thị Quỳnh Phương,
cùng sự quan tâm của cán bộ xã Tân Trạch và sự tham gia nhiệt tình của người
dân địa phương.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về tất cả những giúp
đở quý báu đó. Do hạn chế về mặt chuyên môn và thời gian nghiên cứu, nên chắc
chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót trong khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi
mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy, cô giáo và các
bạn bè đồng nghiệp để khóa luận của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, ngày tháng năm 2017
Tác giả

Phan Thành Đạt



MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề..................................................................................................... 1
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU. .......................................................... 4
2.1. Tình hình quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia trên thế giới. ....................... 4
2.2. Thực trạng công tác bảo vệ rừng những năm qua trên Việt Nam. ............... 10
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU NỘI DUNG, PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU. ........................................................................................ 20
3.1.Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 20
3.2. Phạm vi nghiên cứu. ..................................................................................... 20
3.3.Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 20
3.4. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................. 20
3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp ...................................................... 20
3.4.2. Phương pháp thu thập tài liêu sơ cấp . ...................................................... 20
3.4.3. Phương pháp xữ lý số liệu. ........................................................................ 21
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN. ................................. 22
4.1. Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Tân Trạch. ................. 22
4.1.1. Điều kiện tự nhiên. .................................................................................... 22
4.1.1.1. Vị trí đía lý. ............................................................................................ 22
4.1.1.2. . Khí hậu ................................................................................................. 22
4.1.1.3. Địa hình. ................................................................................................. 23
4.1.1.4. Thủy văn. ................................................................................................ 23
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội. ......................................................................... 24
4.1.2.1. Tình hình kinh tế .................................................................................... 24
4.1.2.2. Tình hình văn hóa - xã hội. .................................................................... 25
4.2. Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại
xã Tân Trạch........................................................................................................ 26



4.2.1. Công tác quản lý bảo vệ rừng trước khi giao đất lâm nghiệp ................... 26
4.2.2. Công tác quản lý bảo vệ rừng sau khi giao đất lâm nghiệp ...................... 27
4.2.3. Vai trò của các bên liên quan trong công tác quản lý bảo vệ rừng. .......... 29
4.2.4. Cơ chế chia sẽ lợi ích của người dân khi tham gia quản lý bảo vệ rừng.
............................................................................................................................. 32
4.2.4.1. Quyền hưởng lợi từ rừng của cộng đồng .............................................. 33
4.2.4.2. Nghĩa vụ của cộng đồng ........................................................................ 33
4.2.5. Giới thiệu các hình thức và tổ chức tham gia bảo vệ rừng tại xã Tân Trạch.
............................................................................................................................. 34
4.2.5.1. Xây dựng quy ước, hướng ước mơ bảo vệ rừng xóm ............................ 34
4.2.5.2.Triển khai ký cam kết không vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng
............................................................................................................................. 36
4.2.5.3. Xây dựng nội dung quy chế phối hợp cho các tổ chức tham gia bảo vệ
rừng trên địa bàn.................................................................................................. 36
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo vệ rừng trên địa bàn. .................................. 39
4.3.1. Các yếu tố bên trong.................................................................................. 39
4.3.2. Các yếu tố bên ngoài. ................................................................................ 41
4.4. Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức trong công tác bảo vệ rừng có
sự tham gia của người dân................................................................................... 42
4.4.1. Thuận lợi. .................................................................................................. 42
4.4.2. Khó khăn. .................................................................................................. 42
4.4.3. Cơ hội. ....................................................................................................... 43
4.4.4. Thách thức. ................................................................................................ 43
4.5. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bảo vệ rừng có sự tham
gia của người dân. ............................................................................................... 43
4.5.2. Giải pháp về chính sách ............................................................................ 43
4.5.1. Giải pháp về nguồn vốn ............................................................................ 44
4.5.3. Giải pháp về kỹ thuật ................................................................................ 45
Chương V: KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KIẾN NGHỊ ............................................. 47



5.1. Kết luận ........................................................................................................ 47
5.3. Kiến nghị ...................................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 49


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng cộng đồng theo vùng kinh tế - sinh thái
Bảng 2.2. Kết quả quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, giao đất giao
rừng cho cộng đồng
Bảng 2.3. Hình thức quản lý rừng cộng đồng của một số đồng bào dân tộc ít
người vùng Miền núi phía Bắc
Bảng 2.4. Diện tích rừng giao cho người dân ở các vùng thí điểm
Bảng 2.5. Quản lý rừng có sự tham gia của người dân tại Thôn Páng, xã Phú
Thanh, huyện Quan Hóa, Thanh Hóa
Bảng 3.1: Những thông tin cơ bản của đối tượng điều tra
Bảng 4.1. Bảng thực trạng sử dụng đất đai xã Tân Trạch.
Bảng 4.2. Bảng hiện trạng sử dụng đất Lâm nghiệp trên địa bàn xã Tân
TrạchBảng 4.3: Số liệu về công tác bảo vệ rừng 5 năm 2012-2016
Bảng 4.4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các bên liên quan
vào công tác bảo vệ rừng:
Bảng 4.5. Lịch tuần tra của các tổ bảo vệ rừng tại xã Tân Trạch.

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ.
Biểu đồ 2.1: Diện tích rừng toàn quốc phân theo chủ thể quản lý
Hình 4.1. Bản đồ vị trị xã Tân Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


FAO :

Tổ chức lương thực của Liên Hợp Quốc

CN :

Chi nhánh

BVR :

Bảo vệ rừng

QSD :

Quyền sử dụng

BQL :

Ban quản lý

BCH :

Ban chỉ huy

PCCC :

Phòng cháy chữa cháy

PCCN :


Phòng chống cháy nỗ

UBND :

Ủy ban nhân dân

QLRCĐ:

Quản lý rừng cộng đồng

CBCNV :

Cán bộ công nhân viên

QLBVR :

Quản lý bảo vệ rừng

PCCCR :

Phòng cháy chữa cháy rừng

NN&PTNT :

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

TCHC&QLBV :

Tổ chức hành chính và quản lý bảo vệ.



PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề.
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là
cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan
trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và
các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ
của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn
phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm
không khí. Vấn đề quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được
coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ
này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng
đồng dân cư cũng như nâng cao chuyên môn, trách nhiệm của các tổ chức quản
lý đặc biệt là các lâm trường Quốc doanh vào công tác quản lý, sử dụng tài
nguyên rừng có hiệu quả và bền vững.
Hiện nay việc quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng theo hình thức quản lý lâm
nghiệp truyền thống đã ngày càng thể hiện rõ sự bất cập và không còn phù hợp
trong điều kiện thực tế xã hội. Hình thức quản lý lâm nghiệp truyền thống đó có
xuất phát điểm và chỉ phù hợp trong bối cảnh rừng còn nhiều, dân số ít, nhu cầu
của con người đòi hỏi về lâm sản còn thấp hơn nhiều so với khả năng cug cấp
của tự nhiên lúc này tác động của con người đến rừng không để lại những ảnh
hưởng lớn tới môi trường, xã hội cũng như cảnh quan du lịch.
Trong cách quản lý lâm nghiệp truyền thống việc bảo vệ rừng chỉ dựa vào
lực lượng Nhà nước với các biện pháp luật hành chính và xử phạt. Với cách
quản lý bảo vệ đó hậu quả là trong một thời gian rừng không được bảo vệ, phát
triển mà còn bị tàn phá nghiêm trọng.
Theo tài liệu của P.Maurand năm 1943 diện tich rừng nước ta có khoảng
14.300.000 ha với độ che phủ 43,8% diện tích cả nước vậy mà trong những thập
kỷ vừa qua diện tích rừng và đất rừng có sự thay đổi theo chiều hướng xấu đi
một cách nghiêm trọng. Theo số liệu mới nhất, hiện nay diện tích rừng tính đến

năm 1999 là 10.884.469 ha với độ che phủ tương ứng là 33,31%.[2]. Những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm rừng trên, ngoài phương thức quản lý
rừng chưa hớp lý còn kể thêm một số nguyên nhân chính sau: Do sự bùng nổ về
dân số làm tăng khả năng nhu cầu về lương thực, chất đốt người dân phải phá
rừng để làm nương rẩy, lấy đất canh tác. Dó tập quán du canh du cư đốt nương
1


làm nương rẫy của một số đồng bào các dân tộc sống gần rừng. Cháy rừng do
nguyên nhân xã hội như các hoạt động du lịch, các phong tập tập quán của đồng
bào dân tộc, các hoạt động thờ cúng của người dân ở trong rừng. Khai thác
nhiều nguồn tài nguyên rừng để xuất khẩu, khai thác không đúng kỷ thuật, chất
lượng rừng ngày càng suy giảm.
Xã Tân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là một xã có diện tích
rừng lớn trực thuốc hạt Kiểm lâm Bố Trạch, nằm trong vùng lỏi của Vườn Quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng, có diện tích rừng tự nhiên là 36.231,60ha chủ yếu là
rừng đặc dụng có 30.697,30ha. Các hình thức quản lý rừng trực tiếp của người
dân đã có từ lâu. Truyền thống quản lý rừng của họ được thể hiện ở những tục lệ
giữ rừng, trồng cây, xây dựng hương ước, quy ước, luật tục bảo vệ rừng, bảo vệ
cây cối của nhiều làng xã. Về mặt pháp lý, “Cộng đồng dân cư thôn là toàn bộ
các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum,
sóc hoặc đơn vị tương đương” (Điều 2, Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004).
Do đó, để quản lý tài nguyên rừng một cách hiệu quả và bền vững, không thể bỏ
qua việc phát huy vai trò của cộng đồng người dân sống gần rừng trong việc
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, công tác phòng cháy, chữa cháy rừng... Phát
huy vai trò tham gia của các cộng đồng trong việc quản lý nguồn tài nguyên này
vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống dân tộc vừa có thể tạo ra cách quản lý
rừng có hiệu quả và bền vững hơn. Nhưng cho đến nay đang phải đối diện với
thách thức trữ lượng rừng tự nhiên ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Một số
nguyên nhân chủ yếu như là lực lượng Kiểm lâm còn mỏng, ít, lâm tặc hoạt

động rất tinh vi nên hiệu quả QLBVR chưa cao; Việc giao rừng cho cộng đồng
trên địa bàn xã còn nhiều vấn đề tồn tại trong tiến trình giao và QLBVR. Trong
những năm qua, nhiều chương trình và dự án về nền lâm nghiệp có sự tham gia của
nhiều thành phần của chính phủ, các tổ chức Quốc tế được thực hiện ở nhiều nơi
trên đất nước ta với nhiều hoạt động và đã mang được những kết quả nhất định.
Từ thực tiễn về xu hướng mới trong công tác bảo vệ rừng, từ nhận thức cá
nhân để góp phần bổ sung và hoàn thiện những cơ sở lý luận và thực tiễn từ đó
đề xuất các giải pháp khuyến khích sự tham gia của người dân và cộng đồng vào
công tác bảo vệ. Bản thân tôi đã tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài: “Tìm
hiểu công tác quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của người dân tại xã Tân
Trạch- huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình.”

2


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất những giải pháp nhằm khuyến khích sự tham gia của cộng đồng
vào bảo vệ rừng.
- Nâng cao nhận thức cho người dân về hiện trạng của mình, các vấn đề
gây trản trở, các tiềm năng và cơ hội phát triển.
- Huy động khả năng và nguồn lực của cộng đồng tham gia vào các hoạt
động bảo vệ và phát triển rừng.

3


PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU.
2.1. Tình hình quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia trên thế giới.
Khi nói tới phát triển lâm nghiệp hiện nay, người ta bàn nhiều tới lâm
nghiệp xã hội hay lâm nghiệp cộng đồng, là nền lâm nghiệp có sự tham gia của

người dân. Cuối những năm 1970, khi các dự án lâm nghiệp xã hội thế hệ đầu
được xác định và thiết lập, đã có quan tâm lớn đến việc xây dựng các đám rừng
trồng chung. Hơn nữa, sự hiện diện của cái gọi là “đất xã” đã làm điểm xuất
phát cho những dự án trồng lại rừng cho cả cộng đồng hay một nhóm người.
Tuy nhiên, nhiều dự án lâm nghiệp tập thể ban đầu đã ít thành công, từ đó người
ta đã tập trung vào khả năng phát triển các hệ thống quản lý rừng có sự tham gia
của người dân [2].
Nhiều ví dụ về hệ thống quản lý tài nguyên rừng bản địa hoặc được đề
xướng tại địa phương có thể tìm thấy ở Châu Á, những dạng hình quản lý rừng có
sự tham gia của người dân được tổng hợp gồm: Quản lý rừng theo phương thức
nương rẫy-bỏ hoá được tìm thấy nhiều ở Đông Nam Á; Quản lý rừng tại môi
trường miền núi ở Nam Á như các hình thức quản lý rừng cổ truyền ở Nêpan, các
khu rừng cấm ở gần Mount Merapi của Inđônêxia hay ở dãy núi Himachal
Pradesh tại Ấn Độ...; Quản lý rừng trong một môi trường bán khô hạn ở Nam Á,
người ta có thể thấy nhiều kiểu quản lý tài nguyên công cộng về rừng và cây như
kiểu quản lý đất Gauchar ở Gujurat của Ấn Độ; Quản lý rừng gắn với nguồn nước
thôn bản như rừng ở vùng Ifugao ở Philipin với việc đảm bảo việc cung cấp nước
cho canh tác, phương thức trồng cây bên các bờ ao để hạn chế xói mòn tại nhiều
vùng thấp Terai ở Nêpan; và cuối cùng là Quản lý các lùm cây thiêng và các hệ
tương tự, tại nhiều xã hội ở Ấn Độ, Philippin và Thái Lan, nhân dân địa phương
theo cổ truyền vẫn bảo vệ những đám rừng nhỏ gọi là những “lùm cây thiêng” để
có chỗ ở cho các vị thần linh và linh hồn của địa phương, hoặc là các khu rừng
cấm dưới sự giám sán của các tu viện, lăng tẩm, nghĩa địa nhưng được coi như là
tài sản chung của thôn bản...[2].
Theo tài liệu tổng kết của REFAS (2005) thì xu hướng cơ bản hiện nay của
ngành lâm nghiệp trên thế giới là xã hội hóa ngành lâm nghiệp là khá phổ biến,
đặc biệt ở các nước đang phát triển. Việc giao đất giao rừng cho các tổ chức tư
nhân, cộng đồng và người dân quản lý ngày càng được tiến hành mạnh mẽ và
bước đầu cho thấy những hiệu quả rõ rệt so với việc quản lý tập trung của Nhà
4



nước. Để hiểu rõ hơn chúng ta đi vào tìm hiểu tình hình quản lý rừng cộng đồng
một số quốc gia đại diện như sau:
* Ấn Độ:
Trong những năm 1920, các nhà chức trách thuộc địa tại Ấn Độ đã thử
đưa ra các hệ thống quản lý rừng địa phương mới. Tại bang Uttar Pradesh, người
ta đã thành lập các “hội đồng rừng” địa phương đặc biệt (van panchayat) nhằm
mục đích tạo ra một lớp đệm giữa rừng của nhà nước và dân làng địa phương.
Hội đồng này có quyền đưa ra những quy tắc giải quyết các vấn đề sử dụng rừng
chung của địa phương dựa trên những luật lệ được chính phủ ban hành [12].
Sau đó với sự hỗ trợ của những nhà tài trợ trong và ngoài nước, nhiều
chính phủ ở các bang ở Ấn Độ đã bắt đầu xúc tiến các kế hoạch xây dựng lâm
nghiệp xã hội thông qua những kế hoạch quản lý tài nguyên rừng công cộng. Và
Ấn Độ trở thành một trong những nước đầu tiên thử nghiệm “lâm nghiệp xã hội”
trong những năm 1970, tuy nhiên mục tiêu là không để cho người dân kiểm soát
quá lớn nguồn tài nguyên rừng. Thay vào đó, lâm nghiệp xã hội tập trung vào
việc thiết lập rừng cho cộng đồng sử dụng trên đất chưa có rừng để giải phóng
những khu rừng hiện có cho khai thác thương mại. Tuy nhiên, với việc thử
nghiệm lâm nghiệp xã hội khá sớm đã dẫn đến các cuộc xung đột ngày càng
tăng giữa các cơ quan lâm nghiệp và người dân địa phương, khiến chính phủ
phải đưa ra một chính sách mới nhấn mạnh việc quản lý rừng cho bảo tồn và
nhu cầu của người dân. Điều này dẫn đến sự ra đời của chương trình quản lý
rừng có sự tham gia (JFM), đây là chương trình nổi tiếng nhất trên toàn cầu
được biết đến với hệ thống quản lý rừng dựa trên sự chia sẻ trách nhiệm và lợi
ích giữa nhà nước và người dân địa phương [13].
Việc sửa đổi hiến pháp 73 và đạo luật 1992 cũng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Nó phân cấp những quyền hạn khác nhau liên quan đến việc thực thi
những kế hoạch phát triển kinh tế và công bằng xã hội cho các tổ chức (PRIs),
hoặc những hội đồng làng, những tổ chức mà có chức năng ở huyện, khối hay ở

thôn. Ở đây có hình thức quản lý rừng theo nhóm người sử dụng gọi là CFUG
Ghorlas, CFUG đại diện cho một loạt các nhóm xã hội mà chủ yếu là những
người có cuộc sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp. Các chính sách lâm nghiệp
(1998) c ũng đã hỗ trợ nhiều cho sự tham gia của cộng đồng vào lâm nghiệp tại
Ấn Độ.
5


Ở bang Andhra Pradesh, Ấn Độ hơn 250 tổ chức phi chính phủ đã chính
thức tham gia vào việc thực hiện Doanh nghiệp Quản lý rừng và đã cải thiện
được sự giao tiếp giữa chính phủ và người dân địa phương. Chương trình Lâm
nghiệp cộng đồng ở Andhra Pradesh, xuất hiện khá thuận lợi với sự giám sát
được thực hiện bởi một số uỷ ban bao gồm kiểm lâm, tổ chức phi chính phủ,
người đứng đầu các panchayat và hiệu trưởng các trường làng [13].
*Nêpan:
Cũng như Ấn Độ, Nêpan cũng đã có những sai sót trong việc thiết kế các
chương trình lâm nghiệp cộng đồng, tuy nhiên đất nước này cũng đã rút ra được
những bài học từ những sai sót đó và đã thực hiện những cải cách lớn để cải
thiện hiệu quả của lâm nghiệp cộng đồng. Và xem LNCD như một công cụ
trong việc bảo tồn nguồn tài nguyên rừng và phát triển nông thôn. Vào những
năm 1970, Nêpan đã bắt đầu xem xét các chính sách về LNCD. Một chương
trình LNCD chính thức được thành lập và các vùng đất bị suy thoái đã được giao
cho Panchayats (Panchayats là đơn vị cơ bản của chính quyền ở Nêpan, nó có 3
cấp huyện, khối và thôn). Tuy nhiên thực tế là Panchayats không phải là một
phân cấp đầy đủ quyền để đại diện cho lợi ích của cho người dân địa phương,
người dân vẫn là nhóm bất lợi bị tách riêng ra. Do đó các chương trình LNCD
được chuyển đến đơn vị hoạt động thấp hơn – các nhóm sử dụng rừng cộng
đồng – và trao cho các nhóm này những quyền lực lớn hơn để thiết kế, quản lý
và hưởng lợi từ rừng cộng đồng. Các nhóm này có quy mô quản lý từ 10 đến
hàng trăm hecta rừng và đất rừng không phụ thuộc vào ví trí quản lý hành chính.

Qua nhiều thử nghiệm nhóm sử dụng rừng (FUG) được xem là có hiệu quả nhất.
Sau 25 năm thực hiện quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã có 1,1 triệu
hecta rừng, chiếm 25% diện tích quốc gia đã được giao cho nhóm hộ quản lý
(Kanel, 2004) [13].
* Campuchia:
Luật đất đai (2001) đã cộng nhận quyền sở hữu tập thể của người dân bản
địa như là một yêu cầu đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên. Và sau đó chính
sách ngành Lâm nghiệp thông qua vào năm 2002 của Campuchia đã xác định sự
tham gia của người dân địa phương trong việc bảo tồn và quản lý rừng bền vững
là một phần quan trọng của việc cải cách chính sách. Việc phân cấp chính sách đã
tạo điều kiện hỗ trợ nhà nước cho lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ). Luật Rừng
6


(2002) đã mô tả các nhà tài trợ lâm nghiệp phải làm thế nào để vận hành và cho
phép cộng đồng được cấp quyền sở hữu tập thể.
Một điểm nhấn trong cách tiếp cận là sự nhấn mạnh khi mà Dự án Nghiên
cứu Lâm nghiệp cộng đồng đã đặt sự tham gia của người dân địa phương vào
việc lập kế hoạch, việc bầu ra những đại diện và đưa ra quyết định. Các làng
được bầu ra một uỷ ban quản lý lâm nghiệp cộng đồng và đóng góp cho dự thảo
quy định LNCĐ và sự thoả thuận quản lý LNCĐ. Một khi hệ thống quản lý
LNCĐ được triển khai, uỷ ban quản lý phải có trách nhiệm tìm kiếm những giải
pháp cho những vấn đề phát sinh. Sau đó, người dân trong vùng dự án thiết lập
cho riêng mình hệ thống chia sẻ lợi ích. Chum Kiri là nơi đầu tiên được chọn để
thực hiện dự án nghiên cứu rừng cộng đồng của chính phủ. Năm 2000 dự án bắt
đầu thiết lập với sự tham gia của 3 ngôi làng là Prey Yav, Damnakchoul và
Tbeing Pouk với tổng diện tích là 922 hecta. Cục Lâm nghiệp đã xác định có
hơn 200 khu rừng cộng đồng. Tổng cộng, có 19 tỉnh, thành phố, 76 quận, huyện,
157 xã, 615 làng nghề tham gia hoạt động lâm nghiệp cộng đồng. Có khoảng
60.000 hộ gia đình tham gia, quản lý về 180.000 ha rừng vừa bị xuống cấp [13].

* Philippin:
Quản lý rừng cộng đồng (CBFM) được coi là chiến lược chính của quản
lý rừng ở Philipin. Nhận thức rằng người dân ở vùng cao có thể là đối tác trong
việc quản lý rừng, chính phủ đã chuyển hướng chiến lược của mình sang hình
thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng. CBFM phát triển từ các chương trình định
hướng người dân trước đó vào những năm 1970 như các phòng quản lý rừng
(FOM), gia đình tiếp cận phục hồi rừng (FAR)... được kết hợp dưới sự hợp nhất
của chương trình lâm nghiệp xã hội (ISFP) thông qua các văn bản ban hành, các
chỉ thị của tổng thống Marcos vào năm 1982. Sau đó có các chương trình tương
tự được khởi xướng bởi chính phủ để thúc đẩy sự tham gia của người dân địa
phương vào việc phát triển và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. CBFM nhằm thúc
đẩy trao quyền cho người dân, quản lý rừng bền vững, lành mạnh và cân bằng
sinh thái, và công nhận quyền của người dân bản địa đối với những những khu
vực của tổ tiên của họ. Quyền sử dụng được thể hiện trong thoả thuận quản lý
rừng dựa vào cộng đồng (CBFMA), mà phục vụ như sự bảo lãnh cho cộng đồng
để tiếp cận và quản lý rừng trong 25 năm và gia hạn thêm 25 năm nữa (Pulhin
2003) [13].
7


* Thái lan:
Vào cuối những năm 1990, kế hoạch phát triển quốc gia của Thái lan đã
kêu gọi sự tham gia của người dân địa phương trong việc quản lý tài nguyên thiên
nhiên. Chính phủ Thái Lan đã chuyển mục tiêu quản lý rừng của mình từ tập
trung sản xuất nhỏ hẹp đến cân bằng giữa bảo tồn, phục hồi chức năng và sản xuất
bao gồm cả sự phát triển sinh kế địa phương. “Hiến pháp của người dân” được
ban hành vào năm 1997 của Thái lan đưa đến cho cộng đồng quyền quản lý và
duy trì sự sử dụng tài nguyên bền vững. Tuy nhiên theo Kaewmahanin và Fisher
thì xuất hiện nhiều xung đột giữa cán bộ lâm nghiệp và người dân địa phương, họ
đổ lỗi cho nạn phá rừng là do người dân địa phương thay vì làm việc với cộng

đồng để tìm ra các giải pháp khắc phục. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia đề xuất dự
thảo đầu tiên về dự luật lâm nghiệp cộng đồng, trong đó phần lớn là một bộ quy
tắc và quy định để cho phép người dân địa phương tham gia trong đề án tái trồng
rừng của chính phủ (Makarabhirom 2000).
Cộng đồng rừng ngập mặn Pred Nai được xem như một trường hợp
nghiên cứu để minh họa cho khả năng tham gia của người dân trong lâm nghiệp,
các làng Pred Nai đã thành công trong việc ngăn chặn việc đốn gỗ và tiến hành
tham gia các hoạt động như trồng cây. Những tác động ngay lập tức bao gồm
việc cải thiện sinh kế và điều kiện của các hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngoài ra
còn là xúc tác cho phong trào quản lý dựa vào cộng đồng ở Thái Lan [13].
* Trung quốc:
Ở Trung Quốc rừng tiếp tục được quản lý theo tập thể, Trung Quốc là nơi
mà tập thể làm chủ hơn một nửa đất lâm nghiệp của quốc gia. Theo thống kê chính
thức của phòng thống kê, kể từ cuối những năm 1950, quyền sở hữu đất lâm nghiệp
đã được giới hạn cho nhà nước hoặc cho các cơ quan tập thể, tổng diện tích rừng
thuộc sở hữu của nhà nước chiếm 41,6% tổng số, còn lại là thuộc sở hữu của các cơ
quan tập thể, cụ thể là, các đơn vị hành chính cơ bản, các thị trấn và làng mạc.
Chiến lược quản lý rừng đầu tiên trên toàn quốc, là một chiến lược được triển khai
từ năm 1950 và đến nay vẫn còn tiếp tục, là chiến lược có quy mô lớn đã vận động
được sự tham gia của người dân địa phương vào quản lý và bảo vệ rừng. Đó là
những khu rừng được người dân địa phương trồng dọc theo các dòng suối, con
sông, đập để bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn, những khu rừng trồng để bảo tồn
nguồn nước sinh hoạt và cả những khu rừng trồng chắn gió và cát. Tỉnh Sơn Tây là
8


một ví dụ, vào giữa nhưng năm 1950, ngoài những khu rừng của làng, các hộ gia
đình, rừng còn được quản lý theo tập thể như “rừng thanh niên”, “rừng của phụ
nữ”, “ rừng của những người lính”, “rừng của trường”, “rừng nhà máy”... [13].
* Lào:

Tại Lào, việc chính thức hóa quyền sử dụng đất thông qua LUP / LA
(Land Allocation) đã được giải quyết và khởi tạo ở Lào thông qua các Hội nghị
Nông nghiệp và lâm nghiệp quốc gia đầu tiên trong năm 1989. Để bắt đầu quá
trình, 8000 làng mục tiêu đã được lựa chọn trên khắp đất nước nằm ở những khu
vực ưu tiên, ví dụ như lưu vực sông, các khu vực bảo vệ và các địa điểm liên
quan tới các chương trình ổn định du canh. Nhấn mạnh ban đầu đã được trao
cho đất nông nghiệp. Trong thập kỷ qua khoảng 5400 làng, bằng khoảng 50%
của tất cả các làng ở Lào, đã hoàn thành chương trình LUP / LA [1].
Khái niệm về Công ty quản lý rừng (JFM) đã được triển khai từ năm 1994
tại SPF Dong Khapo tỉnh Sanvannakhet được hỗ trợ bởi các LSFP / SIDA với
các mục tiêu quản lý rừng tự nhiên dựa trên sản lượng gỗ bền vững và lâm sản
ngoài gỗ để duy trì năng lực sản xuất của nó, để bảo tồn đa dạng sinh học và liên
quan đến cộng đồng địa phương. Khái niệm này được dựa trên sự đồng quản lý
rừng giữa cộng đồng và các cơ quan chính quyền địa phương. Theo đó một tổ
chức dựa vào làng theo hình thức JFM Hội đồng đã được thành lập để tạo thuận
lợi cho sự hợp tác giữa các làng có liên quan và chính quyền địa phương. Hình
thức quản lý này đã cung cấp nhiều lợi ích hơn cho người dân, đặc biệt là khả
năng phát triển tốt hơn của làng, mà kết quả là tạo ra động lực cao hơn, giảm
nghèo và bảo vệ rừng tốt hơn. [13].
* Inđônêxia:
Vào năm 1992, tại Ngawi, Java của Inđônêxia, người ta đã xây dựng một
rừng làng 5 hecta theo sáng kiến của sở Lâm nghiệp trên đất rừng không thích
hợp cho trồng trọt. Dân làng được phép thu hoạch gỗ để sử dụng tại địa phương
và buôn bán. Việc chăn thả gia súc trong rừng bị nghiêm cấm. Chính phủ phải
quản lý những khu rừng mà việc bảo vệ là rất cần thiết và các cộng đồng địa
phương không thể quản lý được đầy đủ. Theo đó các khu rừng cấm để giữ nước,
rừng sản xuất để xuất khẩu và cung cấp gỗ cho vùng do Sở lâm nghiệp quản lý,
những khu rừng còn lại giao cho địa phương [13].
9



2.2. Thực trạng công tác bảo vệ rừng những năm qua trên Việt Nam
Hình thức quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã tồn tại từ lâu đời
ở nước ta, nhưng sau khi Luật đất đai 2003 và Luật bảo vệ và phát triển rừng
2004 ra đời, người dân được cộng nhận là một chủ rừng thật sự, ngoài những
diện tích rừng do người dân tự quản lý lâu đời, nhà nước còn giao thêm diện tích
rừng cho cộng đồng quản lý. Theo Võ Đình Tuyên thì tính đến tháng 12 năm
2009, đã giao cho người dân quản lý trên toàn quốc là 191.383 hecta rừng
chiếm 1,4%, trong đó cộng đồng quản lý 171.395 hecta rừng tự nhiên, chiếm
1,7% so với tổng diện tích rừng tự nhiên của cả nước [11].
Tỷ lệ diện tích rừng theo các chủ thể quản lý
Tỷ lệ, Tổ chức
khác, 5.0, 5%

Ban QLR

18,3%
32,6%

1,4%

Doanh nghiệp nhà nước
Tổ chức KT khác

15,4%
Tỷ lệ, Hộ gia
đình, 24.8, 25%

Đơn vị vũ trang
Hộ gia đình


1,8%

0,7%

Cộng đồng
Tổ chức khác
UBND các cấp

Biểu đồ 2.1: Diện tích rừng toàn quốc phân theo chủ thể quản lý[11]
Như vậy so với tổng diện tích rừng theo các chủ thể quản lý rừng khác
như Ban quản lý rừng, doanh nghiệp nhà nước, hộ gia đình, ủy ban nhân dân các
cấp, thì tỷ lệ diện tích rừng do cộng đồng quản lý thấp hơn rất nhiều. Trong khi
đó thực tiễn cho thấy hiệu quả từ việc quản lý rừng của cộng đồng rất cao, nhiều
khu rừng được cộng đồng quản lý bảo vệ rất tốt. Vì vậy nhà nước cần quan tâm
nhiều hơn nữa đến công tác giao và quản lý rừng cộng đồng để góp phần quản lý
rừng bền vững.
Tại Hội thảo quốc gia về QLRCĐ diễn ra ở Hà Nội vào 6/5/2009, Nguyễn
Bá Ngãi đã trình bày báo cáo của mình về thực trạng, vấn đề và giải pháp của
QLRCĐ ở Việt Nam. Ông đã chỉ ra rằng tính đến 31/12/2007 cả nước có 10.006
cộng đồng dân cư thôn bản đang quản lý và sử dụng 2.792.946,3 ha rừng và đất
10


trống đồi núi trọc để xây dựng và phát triển rừng. Cộng đồng quản lý chủ yếu là
rừng phòng hộ, đặc dụng (71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản
lý và sử dụng đất lâm nghiệp nêu trên dưới 3 hình thức: Thứ nhất, rừng và đất
rừng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử
dụng ổn định lâu dài với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích
đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý và sử dụng. Thứ hai, rừng và đất rừng do

cộng đồng tự công nhận và quản lý lâu đời nhưng chưa được nhà nước giao với
diện tích 247.029,5 ha tương đương 8,9%. Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào
mục đích lâm nghiệp của các tổ chức nhà nước được cộng đồng nhận khoán bảo
vệ, khoanh nuôi và trồng mới theo hợp đồng khoán nhận rừng lâu năm (50 năm)
với diện tích 902.662,7 tương đương 32,3% [6]. Cũng trong báo cáo của mình,
Nguyễn Bá Ngãi đã đưa ra bảng số liệu tổng hợp về diện tích rừng cộng đồng
được thống kê theo các vùng kinh tế - sinh thái (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng cộng đồng theo vùng kinh tế - sinh thái
Đơn vị: Ha
Diện tích đất Diện tích đất lâm nghiệp của người
lâm nghiệp dân theo nguồn gốc hình thành

Tên vùng

tại các vùng

Giao

Chưa giao

Khoán

Toàn quốc

2.792.946,3

1.643.254,1

247.029,5


902.662,7

Tây Bắc

1.893.300,9

1.263.675,6

45.248,4

584.376,9

Đông Bắc

760.131,1

319.859,9

181.932,9

258.338,3

Bắc Trung Bộ

58.541,7

40.489,1

18.052,6


0

0

1.124,4

4.612,9

Nam Trung Bộ 5.373,3
Tây Nguyên

62.422,3

19.229,6

671,2

42.521,5

Đông Nam Bộ

0

0

0

0

12.813,1


0

0

12.813,1

Đồng
SCL

Bằng

(Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2009)
11


Cũng tại hội thảo quốc gia về LNCĐ, Hà Nội 5/6/ 2009, Lê Thị Thưa, Điều
phối viên Dự án LNCĐ - Bộ NN&PTNT, đã trình bày một số kết quả bước đầu
hoạt động dự án chương trình thí điểm lâm nghiệp cộng đồng. Dự án Chương
trình thí điểm Lâm nghiệp cộng đồng do Quỹ uỷ thác cho ngành lâm nghiệp
(TFF) tài trợ với tổng kinh phí 1.463.000 Euro là một trong những chương trình
thu hút được nhiều cộng đồng tham gia quản lý rừng và đã thực hiện với phạm vi
rộng trên toàn quốc. Dự án bắt đầu từ tháng 9/2006 và kéo dài đến hết tháng
6/2009, tiến hành trên 10 tỉnh (bảng 1.2) [9]
Bảng 2.2. Kết quả quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, giao đất
giao rừng cho cộng đồng

STT

Tỉnh


Số xã
được quy
hoạch

Số cộng
Diện
Đất lâm nghiệp
đồng
tích
được quy
được giao rừng đã
hoạch (ha)
rừng
giao (ha)

1

Điện Biên

4

30.284,41

8

4.287,5

2


Sơn La

4

29.263,70

8

2.283,7

3

Cao Bằng

5

10.944,10

10

1.006,5

4

Lạng Sơn

2

14.914,00


4

551,5

5

Yên Bái

6

19.721,40

8

3.263,3

6

Nghệ An

4

29.407,11

3

369,0

7


Quảng Trị

4

31.583,90

8

1.032,2

8

TT - Huế

4

20.050,20

7

729,8

9

Gia Lai

4

37.883,50


6

1.374,5

10

Đắc Nông

2

17.881,10

2

1.900,2

39

241.933,42

64

16.798,1

Cộng 10 tỉnh

(Nguồn: Lê Thị Thưa, 2009)
Theo báo cáo này thì việc thí điểm mô hình lâm nghiệp cộng đồng tại các
xã tham gia dự án bước đầu đã thực hiện tốt. Đã hoàn thành xây dựng quy hoạch
bảo vệ và phát triển rừng có sự tham gia của người dân của 39 xã tham gia Dự

án (thuộc 18 huyện của 10 tỉnh), được UBND huyện phê duyệt với tổng diện
12


tích quy hoạch đất lâm nghiệp là 241.933,42 ha. Trong đó dự kiến diện tích rừng
và đất lâm nghiệp sẽ giao cho các cộng đồng là 20.428,0 ha. Dự án đã giúp địa
phương triển khai giao đất giao rừng (có sự tham gia của cộng đồng) được
16.798,1 ha, bàn giao và cắm mốc giới ngoài thực địa cho 64 cộng đồng. [9]
* Một số tỉnh Miền núi phía Bắc
Trong nghiên cứu về quản lý rừng cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số
vùng núi phía Bắc Việt nam, Nguyễn Bá Ngãi đã cho thấy tại Điện Biên, Hoà Bình
có 4 hình thức QLRCĐ với nguồn gốc hình thành khác nhau, đó là rừng cộng đồng
truyền thống do người dân tự công nhận từ lâu đời, rừng của thôn bản được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng, rừng giao cho nhóm hộ đồng quản lý, rừng giao cho hộ
nhưng các hộ tự liên kết cùng quản lý. Các hình thức QLRCĐ ở một số địa phương
được tổng hợp trong Bảng 2.3 [6].
Bảng 2.3. Hình thức quản lý rừng cộng đồng của một số đồng bào dân tộc ít
người vùng Miền núi phía Bắc
STT

Hình thức
quản lý

Nguồn gốc
hình thành

Hiên trạng
và quy mô

Mục đích quản lý,

sử dụng

Bản Huổi Cáy, xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên –
người dân đồng bào H’Mông
1

Người
dân Bản tự công Rừng
tự Bảo vệ nguồn
quản lý theo nhận từ lâu đời. nhiên, 81 ha nước. lấy gỗ làm
truyền thống
nhà, các lâm sản
khác tiêu dùng
hàng ngày.

Thôn Cài, xã Vũ Lâm, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình- người dân đồng
bào Mường
2

Nhóm hộ gia Xã hợp đồng sử Rừng
tự Phủ xanh đất trống,
đình
dụng rừng.
nhiên, rừng lấy gỗ, tre nứa bán
trồng, 31 ha ra thị trường.
(Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2009)

Trong đó thì tại Điện Biên nhóm hộ được UBND huyện giao đất giao rừng,
có quyết định kèm theo quyền lợi và nghĩa vụ của nhóm hộ. Trên thực tế, ở
nhiều nơi, việc quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã được hình thành

do truyền thống lâu đời hoặc do Dự án EU thực hiện. Các khu rừng này chưa
13


được xã, huyện hoặc tỉnh thừa nhận trên văn bản nhưng lại được xã, các cơ quan
đơn vị quản lý lâm nghiệp cấp huyện hoặc tỉnh, cấp địa bàn chấp nhận khi triển
khai các hoạt động tại cộng đồng. Kết quả nghiên cứu ở Bản Huổi Cáy, xã Mùn
Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên - Cộng đồng đồng bào H’Mông (Bảng
1.3) là một ví dụ phản ánh tình hình chung về sự tham gia quản lý rừng của
người dân [6].
Tại Bắc Kạn mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng tại 4 thôn Bản
Sàng, To Đoóc, Nà Mực và thôn Khuổi Liềng thuộc 2 xã Lạng San và Văn Minh
của huyện Na Rì với tổng diện tích là 4.748.528m2 cũng là những ví dụ điển
hình. Trên những diện tích đất lâm nghiệp chưa có chủ này sau khi giao cho
người dân đã được quản lý bảo vệ tốt hơn, đã ngăn chặn và răn đe được những
hành vi phá rừng làm nương rẫy, khai thác rừng trái phép. Bên cạnh đó cộng
đồng người dân còn được tập huấn để xây dựng vườn ươm và những kỷ thuật về
trồng rừng bổ sung và chăm sóc rừng cũng như phát triển các mô hình nông lâm
kết hợp, cải thiện đời sống của người dân điạ phương [6].
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Xuân Phương cùng với các tác giả
khác năm 2003 và kết quả nghiên cứu điểm hiện nay tại tỉnh Sơn La đã cho thấy
hộ gia đình, nhóm hộ, cộng đồng làng bản và các tổ trong bản ở một số địa
phương đã được giao đất giao rừng lâu dài, được cấp sổ đỏ và được quyền
hưởng lợi. Kết quả đã chỉ ra rằng các đối tượng trên đều thực hiện tốt nhiệm vụ
quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng và phát triển rừng. Không có biểu hiện nào
cho thấy cộng đồng, nhóm hộ yếu kém trong việc quản lý, thậm chí rừng còn
được khôi phục và bảo vệ tốt hơn rừng của hộ gia đình như tại bản Nà Ngà của
xã Chiên Hặc. [7]
Về vấn đề xây dựng quy ước bảo vệ rừng thì Đỗ Đình Sâm, Hoàng Liên
Sơn và Lê Quang Sơn trong nghiên cứu của mình về “Forest governance in

VietNam” đã chỉ ra rằng, từ năm 2000 các cộng đồng người dân địa phương đã
được khuyến khích lập hương ước quản lý bảo vệ của cộng đồng được chi cục
hoặc cơ quan lâm nghiệp công nhận. Trong tỉnh Lai Châu có 1.791 ngôi làng
của 145 xã có quy ước, và ở tỉnh Sơn La, Hòa Bình có 339 và 1.566 quy ước,
tương ứng. Những quy ước được xây dựng dựa theo phong tục và truyền thống
quản lý và bảo vệ rừng, đồng thời được sửa đổi và phát triển để đáp ứng yêu
cầu của giai đoạn hiện nay. Các mô hình quản lý đã chứng minh là có hiệu quả,
được công nhận và được áp dụng rộng rãi. Các mô hình không chỉ củng cố vai
trò của người dân trong quản lý và bảo vệ rừng, mà còn là củng cố vai trò của
của phụ nữ (ví dụ: trên địa bàn tỉnh Sơn La) [12].
14


Bên cạnh đó Jean-Christophe Castellaa, Stanislas Boissaua, Nguyen Hai
Thanh và Paul Novosad đã có nghiên cứu về ảnh hưởng của việc giao đất giao
rừng ở một số tỉnh miền núi Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra quá trình hình thành
việc giao rừng và ảnh hưởng của việc giao rừng đến hệ thống sinh kế định canh
định cư, đến sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế. Từ đó rút ra bài học cho
các can thiệp đến sự phát triển cũng như tác động của các chính sách [8].
* Một số tỉnh Tây Nguyên:
Theo Bảo Huy trong “Xây dựng cơ chế hưởng lợi trong quản lý rừng cộng
đồng” thì kết quả trong 6 năm thử nghiệm, đã giao được 7.620 ha rừng tự nhiên, từ
nghèo đến trung bình, giao cho 6 cộng đồng thôn buôn ở 4 tỉnh (Bảng 2.4) [3].
Bảng 2.4. Diện tích rừng giao cho người dân ở các vùng thí điểm
DT rừng
giao(ha)

Đặc điểm rừng

808


Rừng lá rộng thường xanh núi
cao. Trạng thái nghèo, trung
bình, giàu

Đê Tar

Xã Kon Chiêng,
huyện Mang Yang,
tỉnh Gia Lai

2,594

Rừng lá rộng thường xanh.
Trạng thái nghèo, trung bình,
giàu, nương rẫy

T’Ly

Xã Ea Sol, huyện
Ea H'Leo, tỉnh Dak
Lak

1,128

Rừng khộp non, nghèo, trung
bình, rẫy

Buôn Tul


Xã Yang Mao,
huyện Krông Bông,
tỉnh Dak Lak

Tên thôn

Địa điểm

Xã Hiếu, huyện
Vi
Ch
Kon Plong, tỉnh
Ring
Kon Tum

Xã Quảng Tâm,
Bu Nơr
huyện Tuy Đức,
(Thôn 6)
tỉnh Dak Nông
Xã Dăk Rtih, huyện
Mê Ra,
Dăk RLắp, tỉnh Dak
Bu Đưng
Nông
Tổng diện tích rừng (ha)

964

Rừng lá rộng thường xanh.

Trạng thái nghèo, trung bình,
nương rẫy

1,016

Rừng lá rộng thường xanh.
Trạng thái nghèo, trung bình,
nương rẫy

1,110

Rừng lá rộng thường xanh.
Trạng thái nghèo, trung bình,
nương rẫy

7,620
( Nguồn: Bảo Huy, 2010)
15


Ở tất cả 6 thôn buôn này, người dân đều quyết định nhận rừng theo
phương thức người dân thôn buôn. Và từ quá trình 6 năm nghiên cứu, thử
nghiệm quản lý rừng cộng đồng ở Tây Nguyên cho thấy đây là một phương thức
quản lý rừng thích hợp với người dân dân tộc thiểu số sống gần rừng. Người dân
hưởng lợi từ gỗ thương mại rừng sau khai thác ổn định đồng thời đã tạo được
thu nhập cho người nghèo nhận rừng. Tổng thu nhập từ khai thác gỗ thương mại
tại 6 thôn buôn ở trên là 6.820 triệu đồng, trừ chi phí khai thác, thuế tài nguyên
và trích cho UBND xã tổng hưởng lợi của cộng đồng là 3,250 triệu đồng [3]
Tuy nhiên trong “Giải pháp xác lập cơ chế hưởng lợi trong quản lý rừng
cộng đồng”, Bảo Huy đã khẳng định, thực tế sau 5 năm hầu như rất ít nơi người

nhận rừng được hưởng lợi. Lý do căn bản là đa số các khu rừng được giao chưa
đạt tiêu chuẩn rừng khai thác theo các quy định hiện hành và như vậy người
quản lý rừng phải chờ đợi. Điều này đã hạn chế mối quan tâm quản lý rừng tự
nhiên của người dân; Để xác định quyền hưởng lợi của chủ rừng một cách công
bằng là dựa vào tăng trưởng sau giao rừng, người quản lý hưởng được phần tăng
trưởng rừng mà họ nuôi dưỡng, nếu bảo vệ nuôi dưỡng tốt sẽ hưởng lợi cao hơn
nhờ gia tăng lượng tăng trưởng. Tuy nhiên tăng trưởng theo trữ lượng là một
vấn đề khó xác định và thực tế ở Việt Nam đang thiếu chỉ tiêu này cho các kiểu
rừng, điều kiện lập địa, khí hậu và trạng thái rừng khác nhau. Vì vậy tiếp cận
theo tăng trưởng để xác định hưởng lợi là một nguyên tắc cần được áp dụng, tuy
nhiên cần có cách xác định đơn giản để có thể vận dụng và người dân có thể tiếp
cận được. Ông cũng chỉ ra rằng xây dựng mô hình rừng ổn định như là công cụ
xác định tăng trưởng số cây, làm cơ sở xác định quyền hưởng lợi, lập kế hoạch
và giám sát quản lý rừng cộng đồng. Một lựa chọn quan trọng trong trường hợp
này là lập kế hoạch và thực hiện khai thác hưởng lợi gỗ củi dựa vào mô hình
rừng ổn định. Mục tiêu xây dựng mô hình rừng ổn định nhằm định hướng trong
cân đối khả năng cung cấp của rừng địa phương với nhu cầu lâm sản của cộng
đồng ổn định trong một kỳ kế hoạch 5 năm, làm cơ sở cho việc xác định giải
pháp khai thác, chặt nuôi dưỡng rừng tự nhiên theo hướng dẫn dắt rừng về dạng
ổn định và tính toán được khả năng cung cấp gỗ, củi cho đời sống người dân [3].
Ngoài nguồn hưởng lợi từ lượng tăng trưởng về gỗ của rừng và các sản
phẩm lâm sản ngoài gỗ từ rừng thì trong nghiên cứu về cơ chế hưởng lợi từ
QLRCĐ, Bảo Huy cũng nhấn mạnh hưởng lợi từ các dịch vụ môi trường rừng,
đây là một tiềm năng để tạo ra thu nhập và khuyến khích người nhận rừng bảo vệ
và phát triển rừng; do vậy cần có nhiều quan tâm để phát triển chính sách về lĩnh

16


vực này; trong đó chi trả hấp thụ CO2 trong bảo vệ các khu rừng non, nghèo chưa

có thu hoạch là vấn đề cần có nghiên cứu và chính sách thích hợp [3].

* Một số tỉnh Miền Trung:
Cũng giống như Điện Biên, tại tỉnh Thanh Hóa giao đất lâm nghiệp áp dụng
chính thức cho 2 đối tượng là hộ gia đình và nhóm hộ. Tuy nhiên trên thực tế thì
tồn tại nhiều hình thức quản lý rừng từ lâu đời và chưa được công nhận trên văn
bản. Việc triển khai cơ chế chia sẻ lợi ích tại các xã chưa rõ ràng, chủ yếu là do dân
trong bản tự quy định, nhất là đối với rừng do cộng đồng dân cư thôn và các tổ
chức trong thôn (Bảng 2.5) [6].
Bảng 2.5. Quản lý rừng có sự tham gia của người dân tại Thôn Páng, xã
Phú Thanh, huyện Quan Hóa, Thanh Hóa
STT Hình
thức
quản lý

Nguồn
gốc Hiên trạng và Mục đích quản lý, sử
hình thành
quy mô
dụng

1

Cộng
đồng
quản lý

Giao và hợp
đồng
khoán

bảo vệ với khu
bảo tồn Pù Hu

2

Nhóm hộ
Giao cho 120 ha do 10 Trồng rừng sản xuất
tự
liên hộ quản lý và nhóm hộ tự liên cung cấp Luồng cho
kết quản sử dụng, các kết quản lý.
thị trường.

hộ tự liên kết

Rừng tự nhiên,
200 ha, trong đó
giao: 102 ha,
hợp đồng khoán:
98 ha

Bảo vệ nguồn nước,
lấy gỗ làm nhà, các
lâm sản khác tiêu
dùng hàng ngày, thu
nhập từ khoán bảo vệ

(Nguồn: Nguyễn Bá Ngãi, 2009)
Theo nghiên cứu của Vũ Hoài Minh và Dr. Hans Warfving tại Nghệ An
cho thấy tại đây mô hình quản lý rừng có sự tham gia của người dân đã xuất hiện
rất sớm và đã thu được một số kết quả trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Năm

1992 hạt kiểm lâm đã thực hiện giao 300 ha rừng tự nhiên cho cộng đồng thôn
Thạch Dương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Sau khi nhận rừng thôn đã tổ
chức quản lý bảo vệ, người dân khi tham gia quản lý bảo vệ được trả công bằng
thóc. Và đến năm 1998 đã tiến hành khai thác và bán ra thị trường, số tiền thu
được ngoài việc chia cho các hộ gia đình trong thôn khoảng 40 đến 50 triệu đồng,
còn lại để làm quỹ thôn. Cũng trong nghiên cứu này, làng Khe Ngầu thuộc xã
17


Thạch Dương, huyện Tương Dương đã được giao 276 ha rừng tự nhiên vào năm
1995 để quản lý bảo vệ. Người dân còn được một số tổ chức hỗ trợ về cây, con
giống và tiền mặt để phát triển sản xuất. Trong thỏa thuận cộng đồng phải quản lý
bảo vệ 120 ha rừng lá rộng thường xanh và xúc tiến tái sinh trên 50 ha [5].
Theo báo cáo của Phạm Thanh Lâm, Chi cục trưởng kiểm lâm Quảng Nam
về kết quả và thực trạng giao rừng cho người dân tại các huyện miền núi tỉnh
Quảng Nam cho thấy, hiện nay tại Quảng Nam diện tích rừng do cộng đồng dân cư
thôn quản lý là 160.540 ha, chiếm 24,06%. Cộng đồng dân cư thôn hầu như chưa
nắm cụ thể được ranh giới, diện tích đất lâm nghiệp được giao, rừng và đất rừng
giao cho cộng động chỉ mới dừng lại trên quyết định, chưa cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, sử dụng rừng. Việc hưởng lợi sản phẩm từ rừng đối với từng hộ
gia đình chưa thể hiện rõ ràng nên người dân vẫn chưa thấy được rừng đó thực sự
là của mình, nên công tác quản lý bảo vệ chưa đạt được kết quả cao. Tình trạng
khai thác, vân chuyển lâm sản trái phép, phát rừng làm rẫy trên diện tích đất rừng
đã giao cho cộng đồng quản lý vẫn diễn ra [4].
Theo báo cáo của Khổng Trung, sở NN và PTNT tỉnh Quảng Trị về công
tác giao rừng tự nhiên đến hộ gia đình và cộng đồng tại Quảng Trị cho thấy, từ
năm 2005 đến năm 2010 Quảng Trị đã tổ chức giao 4.615,2 ha rừng cho cộng
đồng và hộ gia đình, trong đó gia cho 31 cộng đồng với diện tích là 4.194,3 ha.
Và theo Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện giao rừng tự nhiên thí điểm tại
Huyện Hướng Hoá và Đakrông của Chi cục kiểm lâm Quảng Trị năm 2008 thì

huyện Hướng Hoá đã giao 187,9ha và huyện Đakrông đã giao 1.318,5ha cho
cộng đồng quản lý bảo vệ rừng. Đối tượng rừng giao là rừng phòng hộ ít xung
yếu, giao cho các đồng bào dân tộc ít người như Vân Kiều, Pako. Qua thực hiện
giao thí điểm rừng tự nhiên cho cộng đồng và hộ gia đình ở 2 huyện bước đầu đã
đạt được một số kết quả như là hạn chế được các vụ vi phạm tài nguyên rừng,
rừng được phục hồi và phát triển tốt, đồng thời tạo được động lực phát triển kinh
tế cho người dân. Tuy nhiên còn một số hạn chế là nghiệp vụ quản lý bảo vệ và
phát triển rừng của người dân chưa cao, đặc biệt là việc đầu tư làm giàu rừng
của cộng đồng và hộ gia đình chưa được quan tâm [10].
Về việc lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng thì theo Khổng Trung, với
sự hỗ trợ của dự án, 11 cộng đồng thuộc các xã A Vao, Tà Long, Pa Nang,
Đakrông, A Ngo, Húc của Quảng Trị đã xây dựng được kế hoạch quản lý rừng
cộng đồng, được UBND xã phê duyệt, song việc thực hiện kế hoạch đó vẫn chưa
được triển khai [4]. Một thực tế là không chỉ riêng ở Quảng Trị mà hiện nay rất
nhiều cộng đồng ở các tỉnh trên cả nước hoặc là không xây dựng kế hoạch quản
18


lý rừng sau khi giao, hoặc là có kế hoạch nhưng việc triển khai thực hiện chưa
có hiệu quả.
Đã có nhiều nghiên cứu về việc lập kế hoạch quản lý rừng sau khi giao,
trong đó phải kể đến đề tài của Bảo Huy về “Xây dựng mô hình quản lý rừng và
đất rừng dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số J Rai và Bahnar ở tỉnh Gia Lai”, để
tài đã tiến hành xây dựng tài liệu hướng dẫn: “ Lập kế hoạch quản lý rừng dựa
vào cộng đồng”. Hướng dẫn này có hệ thống theo tiến trình, dưới dạng các cộng
cụ để lập kế hoạch để kinh doanh rừng dựa vào cộng đồng sau khi giao đất giao
rừng. Các phương pháp điều tra và lập kế hoạch quản lý rừng được giới thiệu là
đơn giản, tạo điều kiện để người dân có khả năng tham gia, có tính thực tiễn và
như là một tài liệu cụ thể hóa các quy phạm lâm sinh hiện hành cho phù hợp với
điều kiện quản lý rừng của các người dân dân tộc thiểu số [3].

Ngoài ra Chi cục kiểm lâm Đắc Lắc cũng xây dựng tài liệu hướng dẫn
quản lý rừng có sự tham gia của người dân. Nội dung của tài liệu đề cập đến quá
trình xây dựng quy chế bảo vệ và phát triển rừng, lập kế hoạch quản lý rừng
cộng đồng, xây dựng hệ thống biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp với rừng của
người dân. Trong từng quá trình đó, tài liệu cũng chú ý mô tả vai trò của các bên
liên quan [3].

19


×