Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Bài giảng đạo đức và PHƯƠNG PHÁP GIÁO dục đạo đức ở TIỂU học (dành cho học viên hệ đại học, liên thông VLVH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.02 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ,dành cho học viên hệ đại học, Liên thông VLVH)

ĐẠO ĐỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Ở TIỂU HỌC

Nhóm tác giả:
Th.s Lương Thị Lan Huệ
Th.s Nguyễn Thị Như Nguyệt
Th.s Phan Thị Thu Hà

Năm 2017

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC.......................................................4
1.1 Khái niệm đạo đức.....................................................................................................4
1.2 Chức năng của đạo đức..............................................................................................5
1.3 Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam.....................................7
CHƯƠNG 2 ĐẠO ĐỨC LÀ MỘT KHOA HỌC ....................................................................12
2.1. Đối tượng của Đạo đức học................................................................................................12
2.2. Một số phạm trù cơ bản của Đạo đức học..........................................................................12


CHƯƠNG 3 MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC ........................................................................19
3.1. Vị trí môn Đạo đức.............................................................................................................19
3.2. Mục tiêu môn Đạo đức........................................................................................................20
3.3. Đặc điểm môn Đạo đức......................................................................................................24
3.4 Nội dung chương trình môn đạo đức ở tiểu học.................................................................28
CHƯƠNG 4 PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC .................................33
4.1 Giáo dục đạo đức ở Tiểu học...............................................................................................33
4.2 Các con đường cơ bản của giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học..................................37
4.3 Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học......................................................42
CHƯƠNG 5 PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC VÀ HÌNH THỨC KIỂM
TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC............................46
5.1 Cơ sở lựa chọn phương pháp dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học.........................................46
5.2 Các phương pháp dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học...........................................................49
5.3 Sử dụng phương tiện dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học.....................................................58
5.4 Kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn Đạo đức..................................................................58
5.5 Dạy thử................................................................................................................................67

2


LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục đạo đức là một trong các mặt toàn diện của nhà trường nói chung, của trường
tiểu học nói riêng. Xét đến cùng giáo dục đạo đức là hình thành kĩ năng hành vi, thói quen
đúng chuẩn mực đạo đức cho học sinh. Để thực hiện yêu cầu đó, phải tiến hành hoạt động
giáo dục thường xuyên, liên tục kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đó là công việc
của nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường và phải thực hiện bằng nhiều con
đường khác nhau. Trong đó, giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học thông qua con đường
dạy học đóng vai trò quan trọng nhất.
Nhằm giúp sinh viên tiếp cận nội dung đổi mới và yêu cầu dạy học môn Đạo đức và
giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học, chúng tôi biên soạn giáo trình. Nội dung giáo trình

này nhằm cung cấp cho sinh viên một số kiến thức về đạo đức, phương pháp giáo dục, dạy học
đạo đứcở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, thực hành soạn và
giảng thử trong môi trường giả định. Hy vọng giáo trình sẽ là tài liệu nghiên cứu bổ ích cho
sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị và Địa-GDCD, Cao đẳng, đại học Tiểu học

Quảng Bình, tháng 7 năm 2017
Giảng viên

3


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC (2LT)
1.1. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC
Một trong những đặc trưng của loài người là con người sống trong cộng đồng, xã
hội với những mối quan hệ đa dạng với những người xung quanh. Mỗi một cá nhân có
những nhu cầu, lợi ích của bản thân, của gia đình... Một hành động của cá nhân nào đó,
rất có thể mang lại lợi ích riêng cho người đó nhưng lại làm tổn hại đến lợi ích của
người xung quanh, của cộng đồng, xã hội. Để xã hội tồn tại và phát triển mỗi cá nhân
trong xã hội cần thực hiện những hành vi, thể hiện thái độ phù hợp trên cơ sở lợi ích
của cộng đồng, xã hội, lợi ích của người khác và của bản thân mình. Những cách đối xử
thích hợp được sự tán đồng, ủng hộ của đa số thành viên trong cộng đồng, xã hội và
được nhiều người khác noi theo. Dần dần chúng sẽ trở thành quy tắc xử sự chung của
những cá nhân trong cộng đồng, xã hội nhằm điều chỉnh hành vi cá nhân cho phù hợp
lợi ích xã hội, đồng thời, phán xét và khắc phục những mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội. Những hành vi ứng xử theo các quy tắc này được coi là thiện, là đạo
đức. Những hành động ngược lại - có hại cho lợi ích cộng đồng, xã hội, của người khác,
bị coi là ác, vô đạo đức và do đó. Bị lên án, phê phán.
Khi nói đến giá trị đạo đức, chỉ có thể là tích cực hoặc tiêu cực, không có giá trị
trung hòa. Nếu có người không cư xử tốt thì có nghĩa là cư xử tồi rồi. Ví dụ như không
cứu người lúc hoạn nạn trong khi mình có khả năng đương nhiên là xấu. Như vậy có thể

chia ra 4 loại hành động: Hành động đạo đức, không thực hiện hành động đạo đức, hành
động vô đạo đức và không thực hiện hành động vô đạo đức. Nghe qua, “không thực
hiện hành động đạo đức”và “không thực hiện hành động vô đạo đức”có vẻ trung hòa,
giống nhau nhưng thực ra trường hợp thứ nhất là hành vi vô đạo đức, còn trường hợp
thứ hai là hành vi đạo đức. Trong thực tế cuộc sống, khó có thể nói một người hoàn
toàn đạo đức hay vô đạo đức. Ví dụ, trong hầu hết các trường hợp, anh ta làm những
việc đạo đức, nhưng đôi khi có những hành động vô đạo đức. Và ngược lại, một người
có khi được coi là vô đạo đức nhưng lắm khi cũng thực hiện những hành vi đạo đức. Vì
vậy, đánh giá một người là đạo đức hay vô đạo đức là việc rất khó, phức tạp. Nói một
cách chính xác hơn, đánh giá một hành động là đạo đức hay không, dễ hơn đánh giá
một con người nói chung.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy, đạo đức của con người thể hiện ở năng lực
hành động tự giác vì lợi ích của người khác và lợi ích của cộng đồng, xã hội, phù hợp
với những quy định, những chuẩn mực đạo đức xã hội. Những chuẩn mực này luôn
hướng đến cái thiện, đòi hỏi mỗi thành viên trong xã hội đó phải thực hiện với sức ép
của dư luận, đánh giá của những người xung quanh, cộng đồng xã hội. Đạo đức xã hội
là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực được xã hội thừa nhận và đòi hỏi các
thành viên thực hiện sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội, cộng đồng, bản thân, nhằm
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con
người, con người với cộng đồng xã hội.

4


Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có tác dụng điều chỉnh
hành vi của con người trên cơ sở sự đối lập thiện và ác. Hình thái ý thức xã hội này tồn
tại song song cùng với những hình thái ý thức xã hội khác, như pháp luật, tôn giáo,
khoa học…, trong đó mỗi một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng của mình luật trong pháp luật, lòng tin trong tôn giáo, chân lý trong khoa học... Với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, đặc trưng của đạo đức là ở chỗ, nó phản ánh tồn tại xã hội
bằng các quy tắc, chuẩn mực về lối ứng xử giữa con người với các thành viên trong xã

hội và xã hội nói chung liên quan đến lợi ích của con người, cộng đồng xã hội.
Đạo đức của con người không chỉ mang tính xã hội mà còn có tính tự giác. Khái
niệm tự giác ở đây không hoàn toàn mang tính lý trí Mà nó chỉ bao hàm ý thức của con
người về lợi ích của mình và mối tương quan lợi ích này với lợi ích của những người
xung quanh, của cộng đồng xã hội. Sự đánh giá của cá nhân về mối quan hệ những lợi
ích đó có tác dụng định hướng cho con người hành động.
Sự đánh giá bao giờ cũng biểu hiện qua một thái độ của chủ thể liên quan đến một
quan hệ xác định - Tích cực hay tiêu cực, tán thành hay phản đối, chấp nhận hay phủ
nhận. Cả lý trí, tình cảm và ý chí đều tham gia vào việc đánh giá. Việc đánh giá về một
kết cục lợi ích của bản thân, lợi ích của những người xung quanh, cộng đồng xã hội.
Điều này phù hợp rất nhiều vào ý thức đạo đức của con người - những quan niệm của
cá nhân về những quy tắc xử sự này và những tương quan các lợi ích.
Đạo đức của con người được thể hiện qua hành vi đạo đức. Thông thường, hành vi
đạo đức do ý thức đạo đức quy định, khi đó có sự thống nhất giữa ý thức và hành vi.
Tuy nhiên trong thực tế, không phải điều đó luôn luôn xảy ra, đặc biệt là trong những
trường hợp có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của người khác và với lợi ích
cộng đồng xã hội.
1.2 CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC
1.2.1. Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức giúp con người nhận thức về
thế giới xung quanh liên quan đến cách ứng xử của mình với người khác, cộng đồng xã
hội. Mỗi một người phải nhận thức được rằng, mình là một thành viên trong xã hội nên
phải cư xử theo những quy tắc chuẩn mực đạo đức mà xã hội yêu cầu, những việc mình
làm không được phép gây tổn hại cho người khác, cho cộng đồng xã hội. Với nhận thức
đúng đắn, con người biết được sự cần thiết của việc thực hiện hành vi đạo đức phù hợp,
những hành vi, việc làm được khuyến khích, nhận được sự đồng tình của những người
xung quanh, của cộng đồng xã hội; những hành vi bị lên án…
Ở cấp độ cao hơn, đạo đức giúp con người hiểu được vai trò của đạo đức trong sự
phát triển xã hội, trong việc mang lại hạnh phúc cho cá nhân cho gia đình và cả xã hội
nói chung, những phẩm chất đạo đức vào mỗi con người chân chính cần rèn luyện.


5


Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là, bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội cũng có
nhận thức như nhau, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng khả năng nhận
thức, sự tác động của giáo dục đến cá nhân, kinh nghiệm đạo đức, điều kiện cuộc
sống... Hay, nói cách khác, chức năng nhận thức của đạo đức thực hiện qua quá trình
giáo dục và tự giáo dục,trải nghiệm cuộc sống của từng cá nhân.
Nhận thức đúng đắn có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi và giúp con người
đánh giá hành vi của người khác và hành vi của bản thân một cách khách quan.
1.2.2. Chức năng định hướng và điều chỉnh hành vi
Đạo đức con người hành động đúng trong các tình huống khác nhau trong cuộc
sống hàng ngày. Sự định hướng hành vi ở mỗi con người phụ thuộc vào ý thức đạo đức,
lương tâm, trách nhiệm, kinh nghiệm sống... của chính người đó. Khi đó, con người cần
phải cân nhắc sự lựa chọn hành vi của mình trong mối tương quan giữa lợi ích bản thân
và lợi ích của những người xung quanh, cộng đồng, xã hội. Cụ thể đạo đức định hướng
cho con người thực hiện một hành vi nếu hành vi đó mang lại lợi ích cho bản thân mà
không làm tổn hại lợi ích của những người xung quanh, cộng đồng xã hội, hay hành vi
đó mang lại lợi ích cho những người xung quanh, cộng đồng xã hội, thậm chí làm tổn
hại lợi ích cá nhân. Ngược lại, không được làm một việc nếu nó gây tổn hại cho người
xung quanh cộng đồng xã hội và kể cả lợi ích cá nhân. Như vậy trong từng tình huống
cuộc sống cụ thể, mỗi cá nhân sẽ được tự xác định cho mình một cách ứng xử sao cho
thích hợp - được những người khác đồng tình, mang lại niềm vui hạnh phúc cho những
người xung quanh, không bị lên án, sao cho bản thân cảm thấy thoải mái, thanh thản...
Đạo đức luôn “nhắc nhở”con người rằng, phải sống làm sao để mọi người nể trọng,
không được làm những việc để người đời chê cười, phê phán, khinh bỉ.
Trong thực tế cuộc sống, khó có ai có thể tránh khỏi những điều mình làm chưa
phù hợp với các quy tắc đạo đức nào đó. Khi đó có thể có người khác nhìn thấy, biết
được và do đó, con người đó bị lên án, trách cứ, chê cười. Hoặc, không ai nhìn thấy,

biết việc làm này nhưng con người đó thấy được “kết cục”không tốt xảy ra (ví dụ như
với người khác, với bản thân…), từ cái ân hận về những việc mình làm. Trong những
trường hợp đó, anh ta (hay chị ta) sẽ điều chỉnh lại hành vi của mình. Cụ thể là, khi gặp
những tình huống tương tự, người này sẽ không làm những việc như vậy nữa mà phải
làm những việc khác, làm cách khác (ít ra cũng không để điều xấu này xảy ra với những
người xung quanh, với bản thân mình…). Đó chính là sự điều chỉnh của đạo đức từ phía
cộng đồng xã hội và từ phía bản thân.
Sự điều chỉnh hành vi con được thể hiện trong những trường hợp con người làm
được việc tốt. Khi đó anh ta (hay chị ta) được khen người (nếu việc làm đó mang lại lợi
ích cho cộng đồng xã hội và được người khác biết đến), hai con người này từ cảm thấy
thoải mái, vui mừng khi mình làm được việc tốt. Từ đó anh ta (hay chị ta) tự nhủ mình,
sẽ tiếp tục thực hiện hành vi tương tự.
Qua đây chúng ta cũng thấy, sự định hướng hành vi của đạo đức phụ thuộc phần
lớn vào nhận thức, sự điều chỉnh phụ thuộc vào sự đánh giá của nó.
6


1.2.3. Chức năng đánh giá
Bất kỳ một hành vi đó lúc nào cũng được đánh giá - từ những người xung quanh
và từ chính bản thân mình. Ngoài thước đo cơ bản của sự đánh giá này là những quy
tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, việc đánh giá còn dựa vào điều kiện thực hiện, động cơ,
kết quả…
Đánh giá từ xã hội có thể là khen người, đồng tình (nếu hành vi đó phù hợp với
các quy tắc, chuẩn mực đạo đức, mang lại những kết quả tốt đẹp, có lợi), ngược lại, sẽ
bị lên án, phê phán (Nếu hành vi này trái ngược lại những quy tắc, chuẩn mực đạo đức
mang lại những điều xấu, có hại).
Đánh giá từ bản thân chính là “tòa án lương tâm”. Khi con người làm được điều
tốt thì thấy thanh thản, thoải mái, điều đó mang lại niềm vui, sự thỏa mãn cho người đó.
Ngược lại, khi ai đó làm điều xấu, điều ác thì thấy ân hận, day dứt, hối tiếc, điều đó làm
cho anh ta (hay chị ta) từ buồn phiền, có khi cả sự đau khổ.

Ngoài ra, đạo đức còn giúp con người đánh giá hành vi của những người xung
quanh. Sự đánh giá này phụ thuộc không chỉ những quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội,
mà còn ý thức đạo đức, lương tâm, trách nhiệm... của người đánh giá.
Những đánh giá trên dẫn đến sự điều chỉnh hành vi đạo đức của người được đánh
giá.
1.3 NHỮNG PHẨM CHẤT CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
1.3.1. Lòng yêu nước
Mỗi người ai cũng có tổ quốc. Tổ quốc là cội nguồn của con người, là môi trường
xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa mà con người sống trong đó. Yêu tổ quốc, yêu nước
là một tình cảm sâu sắc nhất được củng cố trong nhiều thế kỷ và thiên nhiên kỉ tồn tại
của những quốc gia biệt lập (V.I.Lênin). Lòng yêu nước là tình cảm đạo đức biểu hiện ở
xu hướng muốn toàn bộ hành động của mình phục vụ cho lợi ích của đất nước. Người
yêu nước là người tận tâm làm tròn nghĩa vụ của mình, hành động theo những lợi ích xã
hội không một chút do dự và biết lo lắng cho xã hội, biết đặt lợi ích dân tộc, của nhân
dân
lên
trên
hết.
lòng yêu nước là một thứ tình cảm thiêng liêng của con người Việt Nam, được hình
thành, được khẳng định từ mấy nghìn năm lịch sử dựng nước, qua quá trình lâu dài
chống giặc ngoại xâm và ngày nay là xây dựng tổ quốc giàu mạnh.
Có thể nói Việt Nam là một trong những đất nước, trong suốt chiều dài lịch sử của
mình, chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược nhất. Ngay từ ngày đầu dựng nước, dân tộc
ta đã phải chống giặc ngoại xâm. Mỗi khi đất nước bị quân thù nhòm ngó, nhận thức
được chân lý “không gì quý hơn độc lập tự do”, toàn dân tộc đã đồng lòng đứng lên,
không phân biệt già trẻ, gái trai quyết chiến đấu, sẵn sàng hi sinh tính mạng mình để
bảo vệ tổ quốc. Lòng yêu nước đó đã “kết thành một sức mạnh vô mạnh mẽ to lớn, nó
7



lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”(Hồ
Chí Minh). Biết bao tấm gương yêu nước, anh hùng lẫm liệt qua bao cuộc chiến tranh
đã làm sáng ngời lịch sử dân tộc ta - Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh... Đặc biệt, Thánh
Gióng dù là nhân vật truyền thuyết, những tấm gương về một cậu bé 3 tuổi đã biết cưỡi
ngựa sắt, dùng roi sắt cùng nhân dân đánh giặc Ân, có lẽ trên thế giới chỉ có ở Việt
Nam! Trong lòng nhân dân, những nhà yêu nước vĩ đại như chú bé làng Gióng, Trần
Hưng Đạo, Hồ Chí Minh... đã trở thành những vị thánh.
Lòng yêu nước gắn liền với yêu quê hương, biết ơn quê hương. Những ngôi nhà,
cây đa, bến nước, sân đình, lũy tre làng, mảnh ruộng, mồ mả tổ tiên... luôn thiêng liêng
đối với mỗi con người. Quê hương là vùng quê nghèo, đất cằn sỏi đá, người dân luôn
phải vật lộn với thiên nhiên thì nó vẫn có sức gợi nhớ, lay động những ẩn kính trong
tâm hồn, tình cảm của mỗi người Việt Nam! Lòng yêu quê hương là một cội nguồn của
lòng yêu nước.
Lòng yêu nước gắn liền với tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống dựng nước và
giữ nước, những người đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam…
Lòng yêu nước được thể hiện qua việc tôn trọng những nét truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, giữ gìn sự trong sáng ngôn ngữ, chống lại những gì cổ hủ, lạc hậu
gây cản trở sự phát triển xã hội, bênh vực đồng bào mình, đoàn kết với các dân tộc anh
em, tôn kính Quốc kỳ, Quốc Ca, không làm điều gì tổn hại đến Quốc thể…
Lòng yêu nước đối lập, trái ngược với sự phản bội tổ quốc, sự hy sinh lợi ích dân
tộc vì lợi ích cục bộ, cá nhân, gây hấn với các dân tộc khác…
1.3.2. Lòng nhân ái
Là lòng yêu thương, quý mến, tôn trọng con người, hết lòng vì lợi ích, tính mạng
của người khác mà không phân biệt vị thế xã hội, giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, tuổi
tác…
Các nhà nghiên cứu cho rằng, lòng nhân ái có ngọn nguồn từ thời Công xã nguyên
thủy - đó là tình yêu thương đã liên kết các thành viên trong thị tộc, bộ lạc với nhau
trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung. Tình cảm này phát triển qua các thời kỳ lịch sử và
được khẳng định như là giá trị nhân văn trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức, đàn áp,

bóc lột và trói buộc hà khắc của tầng lớp thống trị đối với những người bị trị, người lao
động.
Lòng nhân ái là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, nó được thể hiện
qua những câu tục ngữ, ca dao như “thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm
lá rách”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau
cùng”...

8


Con người có lòng nhân ái luôn làm điều thiện với người khác, mong muốn cho
người khác những điều tốt đẹp nhất sẵn sàng giúp đỡ mọi người (có khi hi sinh cả
quyền lợi, tính mạng của bản thân), mang lại, nhưng cho người khác các lợi ích vật chất
và tinh thần, bảo vệ tính mạng người khác mà không ngại nguy hiểm... không làm điều
gì “ích mình hại người”, không làm điều ác với người khác là mệnh lệnh từ trái tim của
con người nhân ái.
Lòng nhân ái trước hết được thể hiện với những người trong gia đình - cha mẹ
chăm sóc sức khỏe, học hành, tiến bộ của con cái; con cháu chăm sóc, biết ơn, hiếu thảo
với ông bà, cha mẹ; anh em yêu thương, hiếu để với nhau…
Lòng nhân ái của con người biểu hiện đặc biệt đối với những người yếu đuối, khốn
khổ như: Giúp đỡ tiền của, tạo công ăn, việc làm cho những người tàn tật, những người
nghèo đói, tôn trọng phụ nữ, kính trọng người già, yêu thương và dành những điều tốt
đẹp nhất cho trẻ em…
Lòng nhân ái cũng được thể hiện đối với kẻ lầm đường lạc lối phản bội tổ quốc,
phạm nhân, kẻ thù - Đó là lòng khoan dung, sự khoan hồng, giúp họ nhận ra tội lỗi của
mình, tạo điều kiện cho họ làm điều thiện để chuộc lỗi lầm…
Lòng nhân ái trái ngược, đối lập với những hành động thái độ đối với người khác
như đánh đập, coi thường, khinh bỉ, làm nhục, lừa đảo, trù dập người khác, buôn ma
túy, cướp của giết người, chiến tranh phi nghĩa…
1.3.3. Yêu lao động

Cuộc sống của con người có rất nhiều nhu cầu khác nhau và chỉ sinh những nhu
cầu ấy được thỏa mãn thì con người mới tồn tại và phát triển được. Chính lao động là
phương tiện quan trọng nhất đáp ứng nhu cầu. Bởi vì, chỉ có lao động con người mới
làm ra những của cải vật chất cần thiết phục vụ cho nhu cầu của mình. Vì vậy, mọi
người trong xã hội đều phải tham gia lao động theo khả năng và điều kiện của mình.
Và, yêu lao động như là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của mỗi con
người.
Ý nghĩa đạo đức của lao động thể hiện ở tính chất xã hội của nó - lao động không
chỉ mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình mà còn cho cộng đồng xã hội. Chỉ khi con
người lao động để làm ra của cải vật chất và tinh thần thì mới có thể mang lại hạnh
phúc cho người khác, trước hết là những người trong gia đình, mới có thể thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đạo đức, mới có điều kiện thể hiện lòng nhân ái... Như vậy, suy cho cùng,
lao động là thiện, giúp con người cách làm điều ác. Ngược lại, nếu con người có khả
năng lao động nhưng không chịu lao động thì đó là kẻ ăn bám, sống dựa dẫm vào mồ
hôi, nước mắt của người khác - con người này không mang lại hạnh phúc cho những
người khác, không thực hiện được nghĩa vụ đạo đức của mình, không bao giờ thể hiện
lòng nhân ái. Lười lao động là ác và chính nó dễ dẫn con người làm những điều ác khác
- “nhàn cư vi bất thiện”!
9


Yêu lao động trước hết thể hiện thái độ đối với công việc lao động - hăng hái,
siêng năng, cần cù, nhiệt tình, chăm chỉ, tích cực lao động. Con người yêu lao động
luôn nghĩ ra việc để làm, dù đó là việc nhà, hay việc ở cơ quan, công sở…, không nề hà
việc lớn, việc nhỏ. Con người đó cảm thấy bức rứt, khó chịu khi ngồi không nhàn rỗi.
Yêu lao động gắn liền với quý trọng sản phẩm lao động. Mỗi một khi chính mình
bỏ công sức, làm ra sản phẩm (trực tiếp hay gián tiếp) con người mới thấy được giá trị
đích thực của nó, bởi trong kết quả lao động đó có mồ hôi, nước mắt, trí tuệ của mình.
Con người yêu lao động luôn trân trọng, tiết kiệm, giữ gìn, bảo vệ không chỉ sản phẩm
lao động, tài sản chính mình mà còn những thành quả lao động của người khác, tài sản

của xã hội, không làm điều ác có hại cho tài sản của người khác của xã hội. Yêu lao
động luôn chán ghét những hiện tượng tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lãng phí.
Yêu lao động cũng là yêu con người lao động - kính trọng, yêu quý, biết ơn những
con người lao động trong xã hội mà không phân biệt người lao động đó là công việc cao
sang hay nghèo hèn, trí óc hay chân tay, tôn vinh những con người lao động giỏi. Đồng
thời con người yêu lao động luôn tỏ thái độ ghét những người lười lao động, ăn bám,
dối trá trong lao động.
Yêu lao động tạo ra động lực giúp con người tìm kiếm phương án tối ưu - lao động
có kỷ luật, sáng tạo nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động.
1.3.4. Tinh thần tập thể tính cộng đồng
Trong thời kỳ bình minh của lịch sử, trong cuộc đấu tranh sinh tồn, con người phải
đoàn kết, dựa vào nhau, tương trợ nhau và tinh thần cộng đồng bắt nguồn từ đó. Ngày
nay, trong thời đại văn minh, mỗi con người đều sống trong một xã hội vi mô nhất định
- ngoài gia đình, đó là cộng đồng dân cư (thôn xóm, khu chung cư, khối phố…), là tổ
chức, đoàn thể mà mình tham gia, là trường lớp nơi mình học tập, là cơ quan doanh
nghiệp nơi mình làm việc... Sống, hoạt động, làm việc trong tập thể, cộng đồng, mỗi
một thành viên cần phải cư xử đúng đắn để phát triển tập thể và cộng đồng, để khẳng
định bản thân - đó là tinh thần tập thể, tính cộng đồng. Tinh thần tập thể, tính cộng đồng
là biểu hiện của thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
Tinh thần tập thể khiến cộng đồng đòi hỏi mỗi người cần phải kết hợp hài hòa giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể cộng đồng theo tinh thần “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”. Trong trường hợp khi lợi ích của cá nhân không thể thống nhất với lợi
ích của tập thể, cộng đồng khi cần đặt lợi ích tập thể cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân.
Thực ra trong trường hợp đó lợi ích cá nhân không hề bị triệt tiêu mà vẫn được đảm bảo
vì chính trong lợi ích tập thể, cộng đồng đã có lợi ích cá nhân. Vì vậy, trong tập thể,
cộng đồng, mỗi thành viên không được phép làm điều gì có hại cho tập thể, cộng đồng
nói chung và cho từng thành viên nói riêng. Người nào biết sống vì tập thể cộng đồng
bao giờ cũng được quý mến, tôn trọng, đề cao. Ngược lại tinh thần tập thể, tính cộng
đồng đối lập với chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè cánh, nội dung tập thể để trục lợi. Ai đó
chỉ biết đến mình, chỉ lo thu vén cho bản thân, gia đình mà làm hại đến lợi ích chung tất

bị lên án, bị đào thải.
10


Một trong những biểu hiện quan trọng nhất của tinh thần tập thể, tính cộng đồng là
chấp hành nội quy, quyết định của tập thể cộng đồng. Việc thực hiện những quy định
của tập thể cộng đồng là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo không chỉ cho tập thể,
cộng đồng phát triển, mà còn khẳng định vị thế sự tồn tại của cá nhân trong tập thể,
cộng đồng đó. Suy cho cùng, việc thực hiện những nội quy, quyết định của tập thể,
cộng đồng là yếu tố đảm bảo thống nhất giữa hai lợi ích - cá nhân và tập thể.
Biểu hiện cụ thể của việc chấp hành nội quy, quyết định của tập thể, cộng đồng là
tính kỷ luật. Người có kỷ luật tự giác là người không chỉ thực hiện tốt những quy định
của tập thể cộng đồng mà còn sẵn sàng hi sinh mọi quyền lợi cá nhân, hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ mệnh lệnh của cấp trên giao phó trong các tình huống khác nhau…
Trong quá trình hoạt động trong tập thể, sống ở cộng đồng, mỗi người cần phải
biết hợp tác phối hợp tương trợ lẫn nhau, vì công việc chung, lợi ích chung. Rất có thể
trong quá trình đó nảy sinh nhiều mâu thuẫn cần giải quyết. Khi đó, các thành viên cần
biết trao đổi đàm phán thỏa thuận với nhau nhằm dung hòa lợi ích cả hai bên (những lợi
ích của tập thể, cộng đồng luôn được đặt lên trên). Bên cạnh đó, tập thể, cộng đồng
không được triệt tiêu lợi ích cá nhân, và lợi ích cá nhân chỉ bị triệt tiêu khi cá nhân đó
tự nguyện. Đây sẽ là hành vi đạo đức khi cá nhân hi sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích
tập thể cộng đồng.
Tinh thần tập thể, tính cộng đồng không những không cấm đoán hay phủ nhận mà
còn khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh. Đó là sự khẳng định chính mình, vươn lên
của các thành viên, cá nhân phù hợp với những quy định của tập thể cộng đồng. Sự kinh
doanh này không chỉ có lợi cho cá nhân mà còn mang lại lợi ích cho cả tập thể, cộng
đồng.

11



CHƯƠNG 2: ĐẠO ĐỨC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
2.1 ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC
Trong nhiều ngôn ngữ, từ đạo đức học có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ èthos, sau đó, nó
chuyển sang tiếng La tinh thành ethica với nguyên nghĩa là nơi ở, chỗ ở chung, phong
tục... Vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Aristote dùng éthica để chỉ ngành đạo đức
học, tên gọi này vẫn dùng cho đến ngày nay
Mỗi môn khoa học nghiên cứu một lĩnh vực nhất định và thường đề cập đến cấu
trúc đặc tính của sự vật hiện tượng, những quy luật nảy sinh, tồn tại và phát triển liên
quan lĩnh vực đó. Đạo đức học cũng vậy, nó nghiên cứu những nguyên tắc, chuẩn mực,
quy tắc về cách ứng xử, những tập quán, tục lệ, phản ánh mối tương quan giữa con
người với nhau, giữa con người và xã hội, xác định những quy luật nảy sinh, tồn tại,
phát triển chúng, làm rõ bản chất đạo đức trong xã hội loài người. Hay nói cách khác,
đạo đức học là khoa học nghiên cứu về đạo đức, do đó, tất cả những gì liên quan đến
đạo đức đều là đối tượng nghiên cứu của đạo đức học. Tuy đạo đức còn có nhiều ngành
khoa học khác nghiên cứu, như dân tộc học, tâm lý học, xã hội học... Nhưng chỉ có đạo
đức học mới nghiên cứu đạo đức như một hệ thống trọn vẹn, có lôgic vận động và phát
triển riêng với những quy luật đặc thù.
Đạo đức học nghiên cứu các học thuyết về đạo đức của các nhà lý luận về đạo đức
trong đó, coi trong việc nghiên cứu các khái niệm, các quan điểm, các nguyên tắc, các
chuẩn mực đạo đức…
Đạo đức học nghiên cứu sự khác nhau cơ bản giữa đạo đức về ý thức, quan hệ,
thực tiễn đạo đức ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, từ đó xác định quy luật của
sự xuất hiện thay đổi, phát triển đạo đức, đặc biệt là quy luật về sự tác động qua lại giữa
tồn tại xã hội và đạo đức.
Đạo đức học không chỉ nghiên cứu đặc trưng của đạo đức trong thời kỳ mới của
lịch sử mà còn dự báo sự phát triển đạo đức xã hội trong tương lai - đạo đức trong nền
kinh tế thị trường, trong nền kinh tế tri thức, trong xu thế toàn cầu hóa…
2.2 MỘT SỐ PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC HỌC CƠ BẢN
2.2.1. Thiện và ác

Cái thiện là cái tốt lành, cái khó lợi, cái có ích, mang lại những điều tốt đẹp cho xã
hội cộng đồng, con người, vì sự tiến bộ xã hội. Cái thiện là những cái phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội, được xã hội thừa nhận, đồng tình, cổ vũ, được khuyến khích
thực hiện. Cái thiện được bộc lộ qua hành động, việc làm trong thực tiễn cuộc sống.
Theo quan niệm truyền thống của dân tộc, cái thiện được thể hiện rất đa dạng như: Biết
12


quan tâm giúp đỡ người khác,”Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”, kính trọng người già, hi sinh vì Tổ quốc…
Đối lập với cái thiện là cái ác. Cái ác là cái xấu, cái có hại, mang lại những điều
đau khổ, bất hạnh cho con người, có khi còn gây ra sự bất ổn cho cộng đồng xã hội,
trong này sự tiến bộ xã hội, chống lại loài người. Như vậy, cái ác trái ngược với đạo
đức xã hội và do đó, nó bị lên án, phê phán. Cái ác biểu hiện không chỉ qua hành vi cụ
thể, mà có khi được thể hiện qua suy nghĩ, ý nghĩ, động cơ xấu xa, ích kỷ, hèn hạ...
Những biểu hiện của cái ác cũng rất khác nhau - trộm cắp, cướp bóc, đánh đập người
khác, giết người, bỏ rơi con người trong hoạn nạn, tham lam cá nhân, vì lợi ích cá nhân
mà thiệt hại lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng xã hội…
Dù cái thiện và cái ác là những giá trị đối lập nhau nhưng không phải là bất biến
và có mối quan hệ nhất định với nhau. Cái thiện và cái ác luôn biến đổi theo sự phát
triển của xã hội loài người và mỗi một dân tộc, giai cấp, chế độ... đều có quan niệm của
mình về cái thiện, cái ác. Về điều này, Ph. Ăng ghen đã từng khẳng định: “từ dân tộc
này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về cái thiện
và cái ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”. Ví như, “trung
quân”(trung thành với vua chúa) là 1 giá trị quan trọng của đạo đức phong kiến (cái
thiện), và bất kỳ hành vi, thầm kín lời nói nào trái với quy định trên, “đụng chạm”đến
vua chúa (cái ác) không những bị lên án mà còn bị trừng phạt. Ngày nay, người dân có
quyền phê bình, phê phán lãnh đạo của mình (kể cả tổng thống). Nếu những lời phê
phán đó là khách quan, mang lại sự thay đổi tích cực cho xã hội... còn được xem là điều
thiện. Bên cạnh đó, giữa các quốc gia, các dân tộc trên thế giới cũng có nhiều quan

niệm về cái thiện và cái ác giống nhau - lòng yêu thương con người, biết giúp đỡ người
khác, dũng cảm, hi sinh vì Tổ quốc, tận tụy với công việc... là những điều thiện; hành
hạ, giết người, phản bội, hèn hạ, lười biếng... là ác.
Ở nước ta, theo các giai đoạn lịch sử dân tộc nói chung và trong quá trình xây
dựng Chủ nghĩa xã hội bảo vệ Tổ quốc nói riêng, quan niệm về cái thiện và cái ác cũng
thay đổi, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Ví như, trước đây, buôn bán bị coi là xấu
xa, bóc lột, là cái ác (những con người làm nghề buôn bán thường được gọi một cách
miệt thị là “có bu con buôn”) thì ngày nay, được hiểu một cách cởi mở hơn, biểu hiện
đa dạng hơn - làm giàu chính đáng, biết cạnh tranh lành mạnh phù hợp với pháp luật,
biết tự khẳng định mình, tiết kiệm, bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo... Đặc biệt,
cái thiện lớn nhất của đất nước ta hiện nay là “tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tức là biết đặt quyền lợi, lợi ích của dân tộc, của
nhân dân lên trên hết. Ngược lại, những gì gây cản trở, bất lợi, có hại cho quá trình đặt
mục tiêu trên đều được coi là cái ác. Những cái ác đang tồn tại mà xã hội chúng ta đang
lên án, chống lại một cách mạnh mẽ như buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng, gây lãng phí,
gây ô nhiễm môi trường, phá rừng,...
Tuy nhiên, không phải bất kỳ hành vi nào mang lại những kết quả tốt đẹp, có lợi
đều được coi là thiện, hay hành vi mang lại kết quả xấu đều được coi là ác. Việc đánh
giá một hành vi của con người là thiện hay ác không chỉ phụ thuộc vào kết quả mà còn
13


liên quan đến mục đích, động cơ, phương tiện, điều kiện thực hiện... Ví dụ, một người
sắp chết đuối, một người tàn tật tên là A hô to: “cứu người chết đuối”nhưng bản thân
thì không nhảy xuống sông để làm việc đó. Còn thanh niên tên là B lao xuống sông để
cứu chỉ vì anh ta biết người đang chới với dưới dòng trong nhà giàu có, và anh ta hi
vọng sẽ được người kia trả ơn. Trong trường hợp này, người tên A không bị gọi là ác vì
anh đã bị tàn tật nên không có khả năng bơi cứu người, còn hành động của anh tên B
không được gọi là thiện vì động cơ cá nhân của mình. Hành vi được đánh giá là thiện
hay ác cụ thể như sau:



Động cơ tốt, kết quả tốt - được gọi là thiện;



Động cơ tốt; kết quả xấu - không được coi là ác;



Động cơ xấu, kết quả tốt - không được coi là thiện;



Động cơ xấu, kết quả xấu - được coi là ác;

Trong thực tiễn cuộc sống, việc xác định một hành vi là thiện hay ác là hoàn toàn
không dễ dàng. Bởi lẽ đằng sau mỗi hàng vi ẩn chứa động cơ, mục đích nào đó mà
người khác không phải bao giờ cũng nhận ra. Ngoài ra để làm một việc thiện con người
không chỉ có động cơ, mục đích tốt (thiện tâm), mà còn phải có những điều kiện
phương tiện thực hiện... Khi con người nào đó làm được một việc thiện mà chưa chắc
đã được những người xung quanh gọi là thiện, người tốt, có đạo đức Nhưng nếu ai đó
chỉ là một điều ác thôi cũng dễ bị đánh giá là ác, người xấu.
Mặc dù trong xã hội hiện đại, cái thiện và cái ác còn tồn tại song hành, đan xen
nhau. Nhưng lý tưởng cao đẹp của loài người nói chung và của các quốc gia, dân tộc
tiến bộ nói riêng là xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại mà trong đó cái thiện ngự
trị tuyệt đối, cái ác bị đẩy lùi. Để xây dựng được xã hội lí tưởng đó, trước hết, mỗi một
cá nhân là một tấm gương sáng về làm điều thiện, cổ vũ cho cái thiện, tránh xa cái ác,
lên án cái ác.
2.2.2. Nghĩa vụ

Mỗi một người bao giờ cũng tham gia các mối quan hệ, nhóm, tập thể khác nhau
với tư cách xác định - con cháu trong gia đình, học sinh trong nhà trường, công dân của
xã hội... Để mối quan hệ, nhóm hay tập thể đó tồn tại và phát triển, mỗi một cá nhân
dân phải thực hiện những trách nhiệm nhất định. Ví như: Con cháu phải lễ phép, vâng
lời, chăm sóc ông bà cha mẹ; học sinh phải học tập và rèn luyện tốt, công viên phải
tham gia bảo vệ Tổ quốc khi cần... Khi đó, con người ý thức được những việc mình cần
làm gì lợi ích cho người khác, lợi ích chung của xã hội (trong đó có lợi ích của chính
mình). Như vậy nghĩa vụ là thực hiện trách nhiệm của mình vì lợi ích chung.
Trong thực tiễn cuộc sống, như nói ở trên, mỗi người có vai trò khác nhau trong xã
hội nên nghĩa vụ của mỗi công dân là có thể không giống nhau. Ví dụ, ở nhà trường,
một thầy giáo có những nghĩa vụ như: Tham gia các hoạt động sư phạm (giảng dạy,
14


giáo dục…), thương yêu học sinh, tôn trọng phụ huynh...Ở gia đình, người giáo viên đó
có thể có nghĩa vụ của một người chồng đối với vợ, nghĩa vụ của một người cha đối với
con... Khi cần, người đó phải cầm súng ra chiến trường để bảo vệ tổ quốc.
Vì tham gia rất nhiều mối quan hệ khác nhau, cho nên trong tình huống cụ thể, rất
có thể xảy ra trường hợp con người phải đồng thời thực hiện một số nghĩa vụ khác nhau
nên cần phải lựa chọn cách giải quyết phù hợp. Ví như, khi tổ quốc lâm nguy, một
thanh niên có nghĩa vụ ra chiến trường, trong lúc đó, anh ta có cha mẹ già nên có nghĩa
vụ chăm sóc. Vì xét về mặt đạo đức, anh đã phải thực hiện nghĩa vụ nào mới đúng?
trong trường hợp này, người thanh niên này cần ý thức được rằng: Là một công dân,
phải bảo vệ Tổ quốc, một khi tổ quốc còn thì gia đình mới vẹn toàn, mất tổ quốc sẽ mất
tất cả, trong đó có gia đình của mình; và, khi mình cầm súng ra chiến trường, ở quê nhà,
xã hội sẽ có trách nhiệm với cha mẹ của mình. Như lợi ích của cá nhân, lợi ích của gia
đình gắn liền lợi ích đất nước và cần phải đặt lợi ích Tổ Quốc lên trên hết. Thông qua
việc thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích xã hội và lợi ích người khác, lợi ích cá nhân được đáp
ứng tốt hơn.
Trong cuộc sống, ngoài nghĩa vụ đạo đức con người còn phải thực hiện nghĩa vụ

pháp lý. Điểm chung của hai nghĩa vụ này đều là nhằm định hướng, điều chỉnh hành vi
và hoạt động của con người phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Song, nghĩa vụ đòi hỏi
công dân tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành (như Luật giao thông khi tham gia
giao thông, Luật doanh nghiệp đối với các doanh nhân, Pháp lệnh Thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao...). Việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý có thể mang tính chất tự
giác nhưng chưa phải là cái thôi thúc bên trong và chịu sự cưỡng chế từ bên ngoài, bị
trừng phạt bởi các lực lượng bảo vệ pháp luật (công an, Viện kiểm sát, tòa án) nếu vi
phạm. Còn nghĩa vụ đạo đức mang tính tự giác cho con người ý thức được trách nhiệm
đạo đức của mình, được tình cảm thúc đẩy và nó mang lại cho con người cảm giác thích
thú, vui sướng, thoải mái mỗi khi thực hiện được nghĩa vụ của mình. Nếu không thực
hiện nghĩa vụ đạo đức thì lương tâm day dứt, bị xã hội phê phán, lên án. Tuy nhiên sự
phân biệt trên chỉ mang tính chất tương đối và nghĩa vụ đạo đức là nghĩa vụ pháp lý có
mối quan hệ khăng khít với nhau - điều đóng góp vào việc giữ gìn kỷ cương và phát
triển xã hội. Nghĩa vụ đạo đức thúc đẩy con người thực hiện nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ
pháp lý là biểu hiện của việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức... Xã hội càng văn minh, tiến
bộ thì nghĩa vụ pháp lý càng được chuyển hóa thành nghĩa vụ đạo đức
2.2.3. Lương tâm
Khi gặp tình huống đạo đức, đặc biệt khi đó không có sự chứng kiến của người
khác, con người sẽ làm điều thiện hay điều ác? điều đó phụ thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt
là lương tâm. Lương tâm là tiếng nói bên trong chỉ dẫn, thôi thúc con người làm những
điều thiện, theo nghĩa vụ của mình và phê phán ngăn cản con người làm điều ác. Hay
nói cách khác, Lương tâm là tổng hòa ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá
nhân về sự tự đánh giá, tự giám sát động cơ, hành vi của mình và tự yêu cầu mình thực
hiện các chuẩn mực đạo đức xã hội.
15


Tại sao con người thực hiện hành vi đạo đức đúng đắn mà không làm điều trái
ngược? có thể do sợ bị trừng phạt, xấu hổ với người khác hoặc hổ thẹn với chính mình.
Khi con người thực hiện hành vi mà do sợ sự trừng phạt hay xấu hổ trước dư luận

xã hội tức là đã ý thức được việc làm có phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội hay
không và lường trước được những hình phạt, búa rìu dư luận đối với mình. Với con
người đó, nếu có sự chứng kiến của người khác hay anh ta lường trước được rằng, hành
vi của mình sẽ có người biết thì anh ta sẽ làm điều thiện. Trong trường hợp ngược lại,
nếu chắc chắn rằng hành vi của mình sẽ không ai biết và sẽ không bị trừng phạt thì, rất
có thể, anh ta chọn cách thực hiện hành vi sao cho chỉ có lợi cho mình thậm chí làm
những điều ác. Tuy nhiên, không thể khẳng định rằng những hành vi thiện được ai đó
thực hiện do sợ bị trừng phạt, xấu hổ với người khác là vô lương tâm (Thực ra đó chưa
phải là hành vi có lương tâm). Hành vi loại này cũng có ý nghĩa xã hội nhất định vì
trong nhiều trường hợp, nó ngăn chặn con người làm điều xấu, điều ác, và nó rất có thể
là cơ sở ban đầu để con người hình thành nên lương tâm của mình.
Xấu hổ với bản thân hay tự xấu hổ là trạng thái tâm lý khi con người không hài
lòng với chính mình về việc mình đã không làm theo lẽ phải hay đã làm điều ác. Rất có
thể việc đó sẽ không có ai biết nhưng con người vẫn cảm thấy ân hận, day dứt và thầm
hứa sẽ không tái phạm những hành vi tương tự. Nhưng đó có thể chưa hoàn toàn là có
lương tâm vì người biết hổ thẹn không phải bao giờ cũng là người có lương tâm (Mặc
dù người có lương tâm là người biết hổ thẹn). Đây là bước đầu của lương tâm.
Lương tâm, theo đúng nghĩa của từ này, hiện trong suốt toàn bộ quá trình thực
hiện hành vi của con người - từ khởi đầu cho đến khi kết thúc. Đứng trước một tình
huống đạo đức, con người tự nhủ mình phải làm điều thiện theo nghĩa vụ (mà không
tính toán lợi ích cá nhân, không cần biết, hành vi của mình có ai biết đến hay không).
Sau khi thực hiện hành vi, con người tự đánh giá lại toàn bộ sự việc. Ở đây, sẽ xảy ra
hai trường hợp. Thứ nhất là, anh đã thực hiện được hành vi theo dự định, theo lương
tâm mách bảo và hành vi đó mang lại kết quả tốt đẹp. Khi đó, anh ta cảm thấy hài lòng,
vui sướng, thanh thản lương tâm. Trường hợp thứ hai, do nguyên nhân nào đó (không
có khả năng, thiếu thời gian, thiếu phương tiện…) hành vi mong muốn không thực hiện
được hay kết quả hành vi đó không được như dự kiến, thì anh ta cảm thấy không hài
lòng với chính mình, giận mình. Sư cắn rứt lương tâm làm cho con người tự dằn vặt,
day dứt, ân hận…
Như vậy, lương tâm có ý nghĩa to lớn trong cuộc sống đạo đức của con người vì

nó giúp con người tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội, làm tròn nghĩa vụ đạo đức của mình. Khi đó, hành vi của
con người trở nên tự nguyện, tự giác theo tiếng gọi bên trong của lý trí và con tim mà
không phải sự ràng buộc từ bên ngoài. Lương tâm còn giúp con người vượt qua khó
khăn, đặc biệt là vượt qua chính mình để làm điều thiện, không làm những điều ác, giữ
gìn được nhân cách cao thượng, dù ở hoàn cảnh nào. Đúng như A.X. Macarenco đã
từng nói, đại ý, người có đạo đức là người làm cả những việc mình không thích khi
không có ai nhìn thấy.
16


Ngược lại, người không có lương tâm thường làm những việc bất nhân, bất nghĩa,
vô đạo đức miễn là mang lại lợi ích dục vọng thấp hèn của mình - cướp của, giết người,
trả thù cá nhân, phản bội người thân, phản bội tổ quốc... Họ còn sống giả dối, giả nhân,
giả nghĩa, có khi rất nguy hiểm cho xã hội. Không có lương tâm, họ có thể ý thức được
việc mình làm nhưng không thể có tình cảm đích thực và chỉ thực hiện hành vi đạo đức
khi biết chắc chắn rằng có người nhìn thấy, có người khác biết đến hay chỉ mang lại lợi
ích cho mình. Rõ ràng, đó là hành vi không tự giác ở những con người đó không có cảm
giác ân hận, cắn rứt lương tâm trước những việc làm vô nhân đạo gây tổn thương, đau
khổ cho người khác, cho xã hội.
2.2.4. Hạnh phúc
Con người luôn mơ ước xây dựng một cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó, các
yếu tố chân, thiện, mỹ ngự trị tuyệt đối. Cuộc sống hạnh phúc là khát vọng của từng cá
nhân và của xã hội nói chung.
Theo quan niệm truyền thống, hạnh phúc con người gắn liền với cuộc sống gia
đình - có một gia đình ấm êm, vợ chồng yêu thương nhau, con cái khỏe mạnh, ngoan
ngoãn, học giỏi, kinh tế sung túc... Khi đó, con người có cảm giác sung sướng, phấn
chấn, thỏa mãn về những điều mình mong muốn đã đạt được.
Theo nghĩa rộng, hạnh phúc là cảm giác về sự khoan khoái của tồn tại. Con người
chỉ khoan khoái trong trường hợp những nhu cầu cơ bản của mình được thỏa mãn. Hay

nói cách khác, hạnh phúc chỉ sự thỏa mãn những nhu cầu, nguyện vọng chủ yếu của
con người. Đó là những nhu cầu cơ bản có giá trị cuộc sống lớn lao, có ý nghĩa to lớn
đối với cuộc sống con người, đối với sự phát triển con người và xã hội, mà không phải
những niềm vui thông thường ngắn ngủi, nhất thời (con người nghèo khổ được một bữa
ăn, một em học sinh có học lực trung bình một lần nhận được điểm 10 - đó chưa phải là
hạnh phúc).
Những nhu cầu cơ bản của con người gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất - đó là thức ăn, nước uống, quần áo, nhà ở, phương tiện đi lại... Nhu
cầu vật chất là có giới hạn, nếu vượt quá giới hạn đó, con người có thể không còn cảm
thấy sung sướng mà còn cảm thấy khó chịu,thậm chí nguy hiểm - ăn quá no gây bội
thực, ăn quá nhiều gây bệnh, luôn ở trong phòng điều hòa không tốt cho sức khỏe...
Nhưng, sự thỏa mãn nhu cầu vật chất một cách đầy đủ (ví như được ăn ngon, mặc đẹp,
có nhà cao, cửa rộng, ô tô đắt tiền…) chưa hẳn mang lại hạnh phúc cho con người. Đặc
biệt, trong một số trường hợp, nhiều người có được cuộc sống vật chất giàu có là nhờ
những cách làm giàu phi pháp, có khi làm điều ác (như tham ô, ăn hối lộ, buôn lậu, ăn
cướp…) thì những người đó chắc không thể có hạnh phúc, bởi họ không có một tinh
thần lành mạnh, không có sự thanh thản lương tâm.
Chính nhu cầu tinh thần mới là yếu tố cơ bản tạo nên hạnh phúc của con người.
Nhưng nhu cầu tinh thần chính của con người rất đa dạng - hiểu biết về thế giới xung
quanh, thưởng thức và sáng tạo ra cái đẹp (âm nhạc, hội họa, phim ảnh…), giao lưu và
kết bạn với những người khác... Nhu cầu tinh thần của con người là không có giới hạn,
17


khát vọng về chân lý, đạo đức, thẩm mỹ là vô cùng và chúng chỉ mang lại cho con
người những cảm xúc tích cực mà thôi. Con người biết tạo ra hạnh phúc cho mình là
trong trường hợp cần thiết, sẵn sàng hi sinh nhu cầu vật chất để thỏa mãn nhu cầu tinh
thần (“Lá lành đùm lá rách”do “Thương người như thể thương thân”, nhịn ăn sáng để
mua sách đọc, từ chối chốn phồn hoa để được sống gần gia đình…). Trong thực tế,
nhiều khi, con người sống chưa phải thật no đủ nhưng “túp lều tranh”(nhu cầu vật chất)

không cản trở được cảm giác hạnh phúc của “Hai Trái Tim Vàng” (nhu cầu tinh thần).
Những trường hợp khác - rất nhiều người dùng tiền bạc kiếm được phục vụ cho nhu cầu
tinh thần - mua tivi, dàn máy nghe nhạc, đi du lịch, lo cho con học tập, kể cả du học…
Trong những nhu cầu tinh thần, nhu cầu đạo đức chiếm vị trí quan trọng đặc biệt.
Vì trong cuộc sống của mình, không ai thoát được mối quan hệ đạo đức - với những
người xung quanh, với công việc, với xã hội, với môi trường… Hạnh phúc thực sự chỉ
đến với những người có đạo đức - biết làm việc thiện, thực hiện nghĩa vụ của mình.
Nhờ những nhu cầu đạo đức được thỏa mãn, hạnh phúc làm cho con người hài lòng về
cuộc sống, tin tưởng những giá trị xã hội, nâng cao tính tích cực hoạt động của mình,
vượt qua khó khăn để vươn lên... Khi đó, con người sẽ càng nâng cao ý thức nghĩa vụ,
tự giác làm việc thiện, lương tâm càng thanh thản, trong sáng.
Hạnh phúc của con người vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách quan.
Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, mỗi một con người có quan niệm riêng của mình về hạnh
phúc, có điều kiện và khả năng của mình để đạt những nguyện vọng, nhu cầu cá nhân.
Rất có thể đối với anh A hạnh phúc là gia đình yên ấm, con cái tiến bộ, việc làm ổn
định, có nhà để ở... Nhưng, đối với anh B, những yếu tố đó chưa làm anh ta thỏa mãn anh ta cần có xe ô tô đắt tiền, vợ đẹp, con cái học giỏi, được đi du lịch nước ngoài...
Với nhiều người, khi đáp ứng được những nhu cầu so với “mặt bằng xã hội” là hạnh
phúc, còn với những người khác thì phải vượt trên “mặt bằng” đó mới là hạnh phúc. Để
thỏa mãn những nhu cầu của mình, có người rất nỗ lực, có ý chí vươn lên để quyết tâm
“đấu tranh”, có kẻ thì sống kiểu “há miệng chờ sung”...
Tính khách quan của hạnh phúc thể hiện ở chỗ, những nhu cầu của con người và
việc đáp ứng chúng phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi kinh tế - xã hội của
đất nước càng phát triển thì nhu cầu con người, quan niệm về hạnh phúc cũng thay đổi
theo. Ví như, khi đất nước còn nghèo nàn lạc hậu (trong chiến tranh trước đây chẳng
hạn) chiếc xe máy là thứ xa xỉ, có chiếc xe đạp để đi lại là nhu cầu chính đáng. Con
ngày nay, khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, xe máy trở
nên quá phổ biến và nhiều người mơ ước ô tô riêng…
Tính khách quan của hạnh phúc con người còn thể hiện ở sự đánh giá, thừa nhận
của xã hội. Sự đánh giá này là phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội, khả năng của xã
hội đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người, quan niệm xã hội về hạnh phúc,

phụ thuộc vào vị thế xã hội của chính chủ thể. Ví dụ, ngày nay khó có thể cho gia đình
anh X là hạnh phúc nếu họ phải đi làm thuê, cuốc mướn, thiếu ăn, thiếu mặc, nhà cửa
rách nát. Bên cạnh đó, không thể coi chị Y là bất hạnh chỉ vì chị ta ước mơ lấy chồng
triệu phú mà không thành…
18


Như vậy, hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình không tách rời hạnh phúc xã hội
- không chỉ phụ thuộc hạnh phúc xã hội, mà còn làm nên hạnh phúc xã hội. Ngược lại,
hạnh phúc xã hội phấn đấu cho mọi người, mọi gia đình đều được hạnh phúc.

CHƯƠNG 3: MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TIỂU HỌC (2LT)
3.1 VỊ TRÍ MÔN ĐẠO ĐỨC
Để chỉ ra được vị trí môn Đạo đức, chúng ta xem xét hệ thống mà nó tham gia (các
con đường giáo dục học sinh tiểu học, các môn học ở tiểu học, mối quan hệ với môn
Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở), vai trò của nó trong hệ thống và mối quan hẹ
của nó với các thành tố khác trong hệ thống…
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học được thực hiện theo hai con đường cơ
bản là qua quá trình dạy học các môn học khác nhau và qua việc tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Có thể nói, các môn học ở tiểu học đều có khả năng giáo dục đạo đức. Ví như, các
bài thơ, truyện kể trong chương trình môn Tiếng Việt đều chứa đựng những nội dung
giáo dục và nếu chúng được khai thác đúng đắn thì giáo viên có thể giáo dục ở học sinh
những khía cạnh khác nhau của các chuẩn mực hành vi liên quan. Hay, qua việc dạy
học môn Toán , có thể giáo dục học các em những nét tính cách tích cực như tính cẩn
thận, lòng kiên trì, tính chính xác, biết tôn trọng sự thật,…
Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng là một con đường quan trọng trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học với những hình thức cụ thể như văn nghệ, báo
tường, hái hoa dân chủ, tham quan, cắm trại, lao động,… Những hình thức này thường
được tổ chức qua tiết sinh hoạt lớp, tiết chào cờ, hoạt động theo chủ điểm.

Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức qua các môn học và qua hoạt động ngoài giờ lên
lớp ở tiểu học chưa thật sự có tính hệ thống nên hiệu quả giáo dục còn hạn chế. Vì vậy,
cần có một môn học với chức năng chủ yếu là giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
một
cách

hệ
thống

đó

môn
Đạo
đức.
Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào có thể thay thế
được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học với hệ thống
chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn học này. Để thực
hiện được điều này, môn Đạo đức thực hiện ba nhiệm vụ là:
- Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và
niềm tin), từ đó, định hướng cho các em các giá trị đạo đức phù hợp với những chuẩn
mực được quy định trong chương trình môn Đạo đức;
- Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn liên
quan đến các chuẩn mực hành vi quy định;
- Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và
trên cơ sở đó, rèn luyện thói quen đạo đức tính cực
Như vậy, các môn học khác không thay thế được môn Đạo đức là vì:
- Môn Đạo đức thực hiện đồng thời cả ba nhiệm vụ giáo dục đạo đức;
19



- Nội dung môn Đạo đức bao gồm hệ thống các chuẩn mực hành vi đạo đức tương
ứng với các tình huống thường gặp của học sinh trong cuộc sống của mình (trong đó, có
những chuẩn mực bắt buộc và những chuẩn mực mang tính mềm dẻo do địa phương tự
chọn;
- Môn Đạo đức có khả năng hình thành cho học sinh những hành vi đạo đức một
cách thường xuyên, có hệ thống.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh, môn Đạo đức định hướng việc tích hợp
giáo dục đạo đức qua việc dạy học những môn học các ở tiểu học. Ví dụ, bài đạo
đức”Em và các bạn”(lớp 1) có thể định hướng cho giáo viên lựa chọn những bài toán có
lời văn có nội dung về sự chia sẻ, nhường nhịn, giúp đỡ giữa bạn bè với nhau (môn
Toán)…
Qua môn Đạo đức, có thể tổ chức những hoạt đọng mang tính chất liên môn. Ví
dụ, khi dạy học bài đạo đức trên, giáo viên có thể tổ chức cho mỗi học sinh vẽ một bức
tranh về hành động, việc làm mà các em muốn, sẵn sàng thực hiện để giúp đỡ bạn, dành
cho bạn (môn Mĩ thuật), hay cho các em hát những bài hát về tình cảm bạn bè (môn Âm
nhạc)…
Ngoài ra, môn Đạo đức cũng có mối quan hệ mật thiết với việc tổ chức các hoạt
động ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học – nó định hướng, làm cơ sở cho những hoạt
động giáo dục khác nhau ví dụ, bài đạo đức “Giữ gìn trường lớp sạch đẹp”định hướng
cho việc tổ chức những hoạt động như lao động trực nhật lớp, lao động vệ sinh sân
trương, chăm sóc cây xanh… hàng ngày, hàng tuần.
Việc tích hợp giáo dục đạo đức qua các môn học, việc tổ chức những hoạt động
ngoài giờ lên lớp như vậy vừa củng cố, khắc sâu, mở rộng kết quả dạy môn học Đạo
đức, vừa làm phong phú các môn học, làm cho hoạt động của các em được thực hiện
một cách tự giác hơn.
Mối quan hệ của môn Đạo đức với các môn học khác, với hoạt động ngoài giờ lên
lớp, có tác dụng đảm bảo tính trọn vẹn, tính hệ thống, tính liên tục của quá trình giáo
dục học sinh, góp phần thực hiện mục tiêu chung giáo dục tiểu học về hình thành nhân
cách cho các em.
Theo mục tiêu giáo dục tiểu học, sau khi học xong tiểu học có kết quả, học sinh sẽ

học tiếp lên trung học cơ sở. Trong những môn học ở cấp học này, Giáo dục công dân
là môn học có chức năng giáo dục đạo đức, pháp luật cho học sinh. Môn Đạo đức ở tiểu
học với hệ thống chuẩn mực hành vi cụ thể sẽ tạo cơ sở, nền tảng cho quá trình dạy học
môn Giáo dục công dân mà nội dung gồn những phẩm chất, bổm phận đạo đức và pháp
luật với mức độ khái quát cao hơn, sâu sắc hơn.
Như vậy, môn Đạo đức đóng vai trò cực kì quan trong không chỉ trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh tiểu học mà còn là cơ sở để thực hiện quá trình dạy học môn
Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở.
3.2 MỤC TIÊU MÔN ĐẠO ĐỨC
Mục tiêu dạy học môn Đạo đức được quy định trong chương trình giáo dục phổ
thông môn Giáo dục công dân cuả Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 05 tháng 5
năm 2006.
Mục tiêu môn học này có những đặc điểm cần chú ý là:
20


- Đây là kết quả mong muốn cần đạt được ở học sinh qua quá trình dạy học môn
Đạo đức (mà không phải ở giáo viên, chương trình hay tài liệu dạy học môn Đạo
đức…);
- Những mục tiêu này có tác dụng cho việc tổ chức quá trình dạy học môn Đạo
đức để đạt những kết quả trên;
- Chúng là một căn cứ quan trọng để đánh giá kết quả dạy học môn Đạo đức;
- Những mục tiêu này phản ánh các khía cạnh khác nhau của chuẩn mục hành vi
đạo đức – hiểu biết về chuẩn mực, thái độ liên quan và việc thực hiện chuẩn mục đó.
Cụ thể, việc dạy học môn Đạo đức cần đạt được những mục tiêu sau:
3.2.1 Mục tiêu về tri thức
Mục tiêu về tri thức của môn Đạo đức là: Sau khi học môn này, học sinh nêu lên
được những tri thức cơ bản, cần thiết về các chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với
lứa tuổi, phản ánh các mối quan hệ hằng ngày thường gặp của các em, từ đó, bước đầu,
các em có niềm tin đạo đức đúng đắn.

Tri thức đaọ đức là cơ sở của việc hình thành niềm tin và, nhờ đó, học sinh mới có
ý thức đạo đức tự giác.
Những tri thức này, tùy từng bài đạo đức cụ thể, có thể bao gồm:
- Yêu cầu của chuẩn mực hành vi;
- Sư cần thiết thực hiện chuẩn mực hành vi;
+ Ý nghĩa: Mối quan hệ giữa học sinh và đối tượng liên quan đến chuẩn mực;
+ Tác dụng: Những lợi ích đều tốt đẹp mang lại cho đối tượng, những người xung
quanh, bản thân học sinh;
+ Tác hại của việc làm trái chuẩn mực hành vi: Những cái ác điều xấu mang lại
cho đối tượng, những người xung quanh, bản thân học sinh;
- Cách thực hiện chuẩn mực đó theo các tình huống liên quan:
+ Những việc cần làm;
+ Những việc cần tránh theo chuẩn mực quy định.
Ví dụ: Mục tiêu về tri thức của bài “Giữ gìn các công trình công cộng”(lớp 4) có
thể được đưa ra như sau.
Học sinh nêu lên được:
- Các em cần giữ gìn các công trình công cộng;
- Cần giữ gìn các công trình công cộng vì:
+ Các công trình công cộng được xây dựng nhằm phục vụ cho đời sống con người
như trường học, bệnh viện, trạm y tế, nhà văn hóa, đường sá, cầu cống, công viên…;
+ Khi được giữ gìn, các công trình này sẽ bền đẹp, lợi ích mà chúng ta mang lại
cho xã hội càng lâu dài, còn các em sẽ được mọi người khen ngợi;
+ Ngược lại, nếu không được giữ gìn thì các công trình công cộng sẽ bị hỏng
nhanh, lợi ích của chúng sẽ bị giảm sút, còn người vi phạm chúng sẽ bị phê bình, bị
phạt…;
- Để giữ gìn các công trình công cộng, các em cần:
21


+ Thực hiện tốt những quy định về bảo vệ, giữ gìn công trình công cộng như vệ

sinh, sử dụng chúng đúng mục đích, có hành động nhẹ tay với chúng…
+ Tránh những hành động như gây mất vệ sinh, làm bẩn, làm xấu, gây hư hỏng
chúng…
Để đạt được mục tiêu này, cần tổ chức cho học sinh phân tích, đánh giá những
hành vi, việc làm, hiện tượng cụ thể để các em thấy được lợi ích của việc làm đúng, tốt
(hay, tác hại của việc làm sai, xấu), nêu các cách xử lý tình huống tương tự trong cuộc
sống rồi lựa chọn cách phù hợp… Và từ đó, tự học sinh rút ra bài học đạo đức tương
ứng. Song song, cần tạo điều kiện cho học sinh tiểu học độc lập hãy trao đổi, hợp tác
với bạn để tự phát hiện ra khi thức về bản chất của chuẩn mực hành vi. Tri thức, niềm
tin cần được củng cố, khắc sâu qua việc tổ chức cho các em vận dụng để giải quyết các
bài tập đa dạng, qua việc thực hiện hành vi trong cuộc sống hàng ngày.
3.2.2. Mục tiêu về kỹ năng, hành vi
Mục tiêu về kỹ năng, hành vi của môn Đạo đức là: Sau khi học môn này, học sinh
có những kỹ năng vận dụng bài học đạo đức, lựa chọn và thực hiện được các hành vi
phù hợp với những chuẩn mực hành vi quy định và trên cơ sở đó, các em rèn luyện
được thói quen đạo đức tích cực.
Kỹ năng, hành vi được coi là kết quả quan trọng nhất của việc dạy học môn Đạo
đức (nhưng đồng thời cũng là khó khăn nhất) vì đạo đức của con người nói chung và
của học sinh tiểu học nói riêng được đánh giá chủ yếu qua hành động, việc làm mà
không phải chỉ qua lời nói.
Những kỹ năng, hành vi này thường bao gồm:
- Biết tự nhận xét hành vi của bản thân;
- Biết nhận xét, đánh giá hành vi của người khác;
- Biết xử lý những tình huống đạo đức tương tự trong cuộc sống;
- Biết thực hiện các thao tác, hành động đúng đắn theo mẫu qua trò chơi hoạt
cảnh…;
- Biết đánh giá những vấn đề thực tiễn liên quan đến bài đạo đức;
- Thực hiện được những hành vi tích cực trong cuộc sống hàng ngày của mình phù
hợp với các chuẩn mực hành vi…
Ví dụ: Mục tiêu về kỹ năng, hành vi của bài “Giữ gìn các công trình công

cộng”(lớp 4) có thể được xác định như sau.
Học sinh có khả năng:
- Tự nhận xét được hành vi của mình về giữ gìn các công trình công cộng - đã làm
những việc gì, để thực hiện kết quả đạt được…;
- Nhận xét được hành vi của người khác liên quan đến việc giữ gìn các công trình
công cộng - hành động đó đúng hay sai, vì sao;
- Xử lý được tình huống liên quan việc giữ gìn các công trình công cộng - nêu cách
giải quyết và giải thích vì sao;
- Thực hiện được những thao tác, hành động phù hợp về giữ gìn các công trình
công cộng thông qua trò chơi sắm vai;
- Đánh giá được một số nơi công cộng có được giữ gìn tốt hay không, nêu được
nguyên nhân…;
22


- Thực hiện được một số việc làm cụ thể để giữ gìn các công trình công cộng ở địa
phương, nơi các em qua lại…
Việc hình thành kĩ năng được thực hiện qua việc học sinh vận dụng tri thức đạo
đức để liên hệ thực tế, tự đánh giá bản thân, nhận xét hành vi của người khác, giải quyết
các tình huống đạo đức, thực hiện trò chơi, điều tra thực tiễn… Còn hành vi đạo đức và
thói quen tích cực có được là nhờ việc các em tự giác thực hiện những hành động, việc
làm phù hợp với bài đạo đức trong cuộc sống thường nhật của mình qua các mối quan
hệ khác nhau.
3.2.3. Mục tiêu về thái độ
Mục tiêu về thái độ của môn Đạo đức là: Sau khi học này học sinh bày tỏ được
những xúc cảm, thái độ phù hợp liên quan đến những chuẩn mực hành vi đạo đức và từ
đó, có tình cảm đạo đức bền vững.
Thái độ, tình cảm đạo đức đóng vai trò quan trọng trong đời sống vì thái độ, tình
cảm đúng đắn được coi là “chất men kích thích”từ bên trong nội tâm, giúp con người
vượt qua những khó khăn trở ngại, làm điều thiện, làm cho sống trở nên nhân ái hơn,

giàu tình người hơn.
Những thái độ tình cảm này bao gồm:
- Thái độ tự giác, tích cực thực hiện hành vi theo chuẩn mực quy định;
- Thái độ đồng tình đối với hành động tích cực; thái độ phê phán đối với hành
động tiêu cực;
- Tình cảm đối với những đối tượng khác nhau do các bài đạo đức quy định.
Ví dụ: Mục tiêu về thái độ của bài “Giữ gìn các công trình công cộng”(lớp 4) có
thể được đưa ra như sau.
Học sinh bày tỏ được những thái độ, tình cảm:
- Tích cực, tự giác thực hiện việc giữ gìn các công trình công cộng nơi các em qua
lại;
- Đồng tình với hành động biết giữ gìn các công trình công cộng; phê phán những
hành động gây hại, làm hỏng các công trình công cộng;
- Yêu quý, tôn trọng các công trình công cộng.
Thái độ, tình cảm của học sinh nảy sinh, được hình thành trong quá trình nhận
thức các chuẩn mực hành vi đạo đức (ví dụ, một chuyện kể hấp dẫn, sinh động dễ làm
cho học sinh có thái độ đồng tình với hành động tốt, yêu mến nhân vật tích cực trong
đó…), hình thành kỹ năng (các em tỏ thái độ hài lòng khi đánh giá một hiện tượng tích
cực trong thực tế…), thực hiện hành vi đạo đức trong cuộc sống thực tiễn hàng ngày
(học sinh tích cực tham gia công việc, yêu quý, tôn trọng đối tượng mà mình thực hiện
hành vi…).
Một số lưu ý:
Một là, khi xác định các mục tiêu của từng bài đạo đức, cần căn cứ vào tính chất
của bài, khả năng của học sinh, điều kiện để thực hiện đưa ra những nội dung cụ thể của
từng mục tiêu sao cho phù hợp (xem phân tích các ví dụ ở chương thứ năm, mục III.
Vấn đề soạn bài trong dạy học môn Đạo đức).
Hai là, ba mục tiêu trên đây của môn Đạo đức có mối quan hệ mật thiết với nhau tác động lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, thống nhất với nhau:
23



- Tri thức, niềm tin đạo đức có tác dụng định hướng cho việc thể hiện thái độ, tình
cảm đã định đúng đắn và việc hình thành kỹ năng, thực hiện hành vi và thói quen đạo
đức tích cực.
- Qua việc hình thành kỹ năng, thực hiện hành vi, học sinh sẽ củng cố, khắc sâu tri
thức đạo đức, đồng thời, các em cũng thể hiện, khẳng định thái độ và nảy nở tình cảm
đạo đức của mình.
- Thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn có tác dụng kích thích, làm cho quá trình
nhận thức diễn ra thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn (từ đó, các em có được tri thức đạo
đức cần thiết và niềm tin tự giác), thúc đẩy việc hình thành kỹ năng, rèn luyện hành vi
và thói quen đạo đức tích cực.
Sự thống nhất giữa ý thức, thái độ, tình cảm và hành vi, thói quen là đòi hỏi tất yếu
của quá trình dạy học môn Đạo đức ở tiểu học do đó trong việc dạy học môn Đạo Đức
nói chung và từng bài đạo đức nói riêng, cần đảm bảo thực hiện được đồng thời cả 3
mục tiêu trên. Tránh những hiện tượng, như không xác định rõ, đầy đủ ba mục tiêu khi
dạy từng bài đạo đức, coi nhẹ mục tiêu nào đó, do e ngại nên bỏ qua, không thực hiện
tiêu về kỹ năng, hành vi…
3.3 ĐẶC ĐIỂM MÔN ĐẠO ĐỨC
3.3.1. Dạy học môn Đạo đức là một hoạt động giáo dục đạo đức
Như đã nói ở trên, dạy học môn Đạo đức nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu
học. Trong lúc đó việc hình thành nhân cách được thể hiện qua hoạt động và giao tiếp.
Hoạt động, giao tiếp càng đa dạng, phong phú thì việc giáo dục càng có hiệu quả. Kết
quả quan trọng nhất của việc dạy học môn Đạo đức là những hành vi và thói quen đạo
đức tương ứng được hình thành ở học sinh. Vì vậy, cần phải biến bài đạo đức thành
hoạt động giáo dục thực sự mà ở đó, các em được nói nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn,
trao đổi hợp tác với nhau nhiều hơn, vận dụng tri thức và kỹ năng và thực tiễn nhiều
hơn, được thực hiện hành vi được trong cuộc sống nhiều hơn…
Giáo viên cần tổ chức những hoạt động thích hợp, thuận lợi để các em có thể tự
phát hiện tri thức đạo đức mới, tự vận dụng bài học để liên hệ thực tế, nhận xét hành vi,
xử lý tình huống, xây dựng kế hoạch thực hiện những hành vi, công việc phù hợp với
chuẩn mực hành vi… Đặc biệt là, theo mỗi bài đạo đức tùy điều kiện thực tế của địa

phương và khả năng của các em, giáo viên cần dự kiến và đòi hỏi học sinh thực hiện
được những việc làm cụ thể thiết thực - lao động trực nhật lớp, chăm sóc cây xanh, xây
dựng vườn trường (bài “Giữ gìn trường lớp sạch đẹp”), chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật
nuôi ở gia đình (bài “Chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi”), chăm sóc, giữ gìn nghĩa
trang liệt sĩ (bài “Biết ơn thương binh, liệt sĩ”)…
Qua việc tham gia những hoạt động giáo dục như vậy, tri thức đạo đức ở các em
trở nên bền vững, ý thức tự giác được hình thành, thái độ và tình cảm của học sinh trở
nên thực chất và, hành vi, thói quen gắn liền với nhu cầu thực tế của các em.
Ngược lại, nếu việc dạy học môn Đạo đức có phụ thuộc vào sách vở, nặng về lý
thuyết suông, xa rời thực tế, ít thực hành, không tổ chức hoạt động cho học sinh, các em
không được tham gia giải quyết những vấn đề liên quan cuộc sống bản thân thì kết quả
sẽ rất phiến diện, hiệu quả giáo dục sẽ giảm đi nhiều lần. Cụ thể là, nếu chỉ qua sách, vở
bài tập đạo đức, các em mới phần nào nắm được một ít kiến thức về các chuẩn mực
24


hành vi đạo đức mà chưa thể có thái độ, tình cảm bền vững và đặc biệt là, khó có thể
hình thành được hành vi và thói quen tương ứng.
3.3.2.Tính cụ thể của các chuẩn mực hành vi đạo đức
Dạy học môn Đạo Đức, về bản chất là quá trình chuyển hóa các chuẩn mực đạo
đức (như những giá trị xã hội) hành hành vi thói quen tương ứng như ở học sinh (như là
giá trị cá nhân). Để việc chuyển hóa này có hiệu quả, một yêu cầu sư phạm Quan trọng
là, những chuẩn mực đó phải vừa sức với các em. Trong lúc đó, Tư duy trực quan - cụ
thể của học sinh tiểu học còn chiếm ưu thế, kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, cho nên
khả năng nhận thức còn hạn chế. Các em mới nhận thức được các chuẩn mực đạo đức
gắn liền với những tình huống cụ thể thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của mình,
mà chưa đủ năng lực lãnh hội được những chuẩn mực có mức độ khái quát cao, trên
bình diện lý luận. Vì vậy, các chuẩn mực đạo đức được đưa ra trong chương trình môn
đạo đức là những chuẩn mực đạo đức cụ thể, phù hợp với khả năng nhận thức, cuộc
sống thực của học sinh tiểu học và tính bắt chước của các em. Ví dụ, về mối quan hệ

giữa ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình, những chuẩn mực hành vi được đưa ra
giáo dục cho học sinh tiểu học là: “lễ phép với anh chị, nhưng nghĩ em nhỏ”(tương ứng
với tình huống khi ứng xử với anh chị em); “chăm làm việc nhà”(tương ứng với việc
giúp đỡ những người trong gia đình); “quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị
em”(tương ứng với tình huống khi ông bà, cha mẹ, anh chị em có vấn đề về sức khỏe)...
Tuy nhiên, so với các lớp 1,2,3 thì ở lớp 4 và lớp 5, những chuẩn mực hành vi đã
có tính khái quát cao hơn, chung cho nhiều tình huống đạo đức. Đó là do học sinh cả
lớp lớn đã tích lũy được những chuẩn mực hành vi nhất định, kinh nghiệm sống phong
phú hơn, cho nên, trình độ nhận thức đã phát triển cao hơn. Ví dụ, cũng theo mối quan
hệ với những người trong gia đình, ở lớp 4 có bài “hiếu thảo với ông bà cha mẹ”(để thể
hiện lòng hiếu thảo này, con cháu phải vâng lời giúp đỡ gần gũi quan tâm chăm sóc ông
bà, cha mẹ…).
Những chuẩn mực hành vi cụ thể đó, thiết thực giúp các em ứng xử đúng đắn
Trong các mối quan hệ hàng ngày một cách tự tin, chủ động, tự giác.
3.3.3. Tính đồng tâm của các chuẩn mực hành vi đạo đức
Ở học sinh tiểu học, kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, khả năng nhận thức
càng được nâng cao theo độ tuổi. Do đó các chuẩn mực hành vi trong chương trình
cũng phải được nâng cao tương ứng. Trong lúc đó, những chuẩn mực này không thoát
ly khỏi các mối quan hệ hàng ngày của các em (có thể được hiểu một cách cụ thể như
mối quan hệ với ông bà, cha mẹ, hoặc mở rộng hơn như mối quan hệ với gia đình trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em), cho nên, chúng phải có tính đồng tâm.
Tính đồng tâm thể hiện ở chỗ:
- Các chuẩn mực cùng chủ đề thì lặp đi lặp lại từ lớp dưới lên lớp trên
25


×