Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong một vài năm trở lại đây để kiềm chế lạm phát.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.12 KB, 30 trang )

30

Đề tài thảo luận : Phân tích tác động của một số chính
sách cụ thể mà Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong
một vài năm trở lại đây để kiềm chế lạm phát.


Mục lục :







Lời mở đầu
Phần 1 : Cơ sở lý luận
Phần 2 : thực trạng và nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam từ năm
2010 đến năm 2015
Phần 3 : Biện pháp của chính phủ để giảm lạm phát.
Phần 4: Kết luận.
Bảng đánh giá phân công công việc.

LỜI MỞ ĐẦU

30

Lạm phát – một hiện tượng kinh niên của nền kinh tế, trong thời gian gần
đây, vấn đề lạm phát đã được quan tâm nhiều hơn ở tất cả mọi người dân,
mọi doanh nghiệp, tổ chức. Lạm phát có thể là động lực giúp một nền kinh tế
phát triển xong nó cũng là nguyên nhân phá vỡ sự phát triển của nền kinh tế


một quốc gia, gây nên những bất ổn từ kinh tế dẫn đến đời sống và ảnh
hưởng tới lĩnh vực chính trị - xã hội. Ở Việt Nam, ảnh hưởng của lạm phát
khơng cịn là mới lạ, từ thời kỳ bao cấp nền kinh tế của chúng ta đã bị thiệt
hại nặng nề, tiền đồng liên tục mất giá, 3 lần đổi tiền liên tiếp trong thời gian
ngắn. Bước sang nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề lạm phát đã khó
kiểm sốt nay cịn khó khăn hơn với những tác động từ thế giới trên thị
trường tiền tệ, giá nguyên liệu,… gây ra những bất ổn khó lường. Với đề tài
“Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây và phân
tích các biện pháp mà chính phủ sử dụng để kiểm sốt lạm phát” nhóm 6 với
hi vọng tìm hiểu kĩ hơn về lạm phát, về tình hình lạm phát của nước ta trong
những năm gần đây và các biện pháp, cơng cụ mà chính phủ sử dụng để kiểm
sốt lạm phát từ đó có thể hiểu kỹ hơn về vấn đề này, về sự kết hợp của các
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của Chính Phủ trong việc điều hành
nền kinh tế vĩ mô. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: tình hình lạm phát ở Việt
Nam từ năm 2010 đến năm 2015 Phương pháp nghiên cứu: thu thập số liệu,
tổng hợp, phân tích và đánh giá.


PHẦN 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Khái niệm



Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Tỷ lệ lạm phát: là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ tăng lên hay giảm bớt đi của
mức giá chung với thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ gốc.
Cơng thức:
Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát (%)
chỉ số giá cả thời kỳ nghiên cứu
– 1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó


2. Quy mơ lạm phát: 3 loại.




Lạm phát vừa phải (lạm phát 1 con số) : tỷ lệ lạm phát < 10% /năm →
Không gây ra tác động đáng kể đối với nền kinh tế.
Lạm phát phi mã: xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2-3
con số/năm → Khi bền vững gây biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát tăng đột biến với tốc độ cao, vượt xa
lạm phát phi mã → Gây thiệt hại nghiêm trọng sâu sắc nhưng cũng ít
xảy ra.

3. Phân loại lạm phát.
a. Lạm phát cầu kéo:
Do các thành phần trong chi tiêu tăng:
Có AD =C + I + G +X – IM
o Khu vực tư nhân tự động tăng chi tiêu : I↑
o Khu vực quan hệ nước ngoài tăng : X↑ , IM↑
o Khu vực chính phủ tăng : G↑ , T↓

30




Đồ






thị:

Nhận xét :
o Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng dài hạn ban đầu tại E ()→ khi
các thành phần của chi tiêu gia tăng → AD↑→Y↑→P↑ gây ra
lạm phát.
o Lúc này trạng thái cân bằng được xác đinh tại E1()
o Khi chính phủ sử dụng CSTK mở rộng hoặc do đầu tư tăng mạnh
nên AD↑→AD1.
Kết luận: lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng , tổng cung khơng
đổi.

b. Lạm phát chi phí đẩy.



Do chi phí đầu tăng đặc biệt là các đầu vào cơ bản tăng nhanh làm cho
tổng cung suy giảm dẫn đến giá tăng gây ra lạm phát.
Chi phí đầu vào cơ bản gồm : tiền công, tiền lương, nguyên nhiên vật
liệu...

30




Đồ thị :


Tại E () đây là điểm kinh tế đạt trạng thái cân bằng . AD không thay
đổi nhưng do giá thực tế đầu vào thay đổi ( bị đẩy lên cao ) → AS dịch
chuyển sang trái
Lúc này tại E1 () sản lượng giảm → và giá cả tăng lên từ →
 Đây chính là hình ảnh của nền kinh tế suy thối () nhưng khơng có
sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp.
c. Lạm phát do tăng trưởng tiền tệ




Đây là nguyên nhân duy nhất gây ra tình trạng lạm phát kéo dài.
Lý thuyết só lượng tiền tệ
Giả sử sản lượng nền kinh tế trong một năm là Y → tổng giá trị giao
dịch trong năm đó là PY
Giả định cung tiền trong nền kinh tế là M , tốc độ chu chuyển tiền tệ
trong một năm là V → tổng giá trị giao dịch trong năm là MV

Chứng minh
30






Từ
→log P + log Y = log M + log V
→%

Giả định phân tích trong dài hạn và GDP tiềm năng không thay đổi
Tốc độ chu chuyển tiền tệ được ước tính tương đối ổn định và thay đổi
rất ít theo thời gian →

→ Tỷ lệ lạm phát cân bằng với tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ.
Hiệu ứng Fisher :
Phương trình fisher nêu bật sự khác biệt giữa lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa
Phương trình : i= r +π
→ Phương trình cho thấy lãi suất danh nghĩa có thể thay đổi vì 2 lý do :
lãii suất thực thay đổi hay lạm phát thay đổi.

4. Tác động của lạm phát
a. Đối với sản lượng và việc làm




Đối với sự gia tăng giá, sản lượng quốc gia có thể thay đổi.
Lạm phát từ cầu → sản lượng tăng lên ; lạm phát từ cung→ sản lượng
giảm xuống.
Nếu từ hai phía thì tùy theo mức độ tác động của tổng cung, tổng cầu
mà sản lượng thay đổi.

b. Đối với phân phối lại thu nhập
c. Đối với thay đổi cơ cấu kinh tế





Lạm phát xảy ra giá của các loại hàng hóa không thay đổi theo cùng
một tỷ lệ. Một số ngành tăng giá nhanh , nguồn sản xuất chạy về ngành
đó => làm tăng sản lượng của ngành
Ngành có tốc độ tăng giá chậm => sản lượng sẽ giảm xuống

5. Giải pháp chống lạm phát
Từ phía cầu có thể thực hiện bằng sử dụng chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ chặt.

30








Chống lạm phát từ phía cung có thể thực hiện bằng cách cắt giảm chi
phí sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất trên cơ sở nâng cao hiệu
quả.
Kiểm soát để hạn chế cú sốc cung và cầu.
Kiểm soát để ổn định giá cả, đặc biệt là giá của mặt hàng của vật tư cơ
bản : xăng, dầu, điện, …
Kiểm soát lượng cung tiền trong nền kinh tế: hoạt động của thị trường
mở lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

30





PHẦN 2 : THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015
I/Thực trạng
1.Thực trạng lạm phát trong năm 2010
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%. Chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng
12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả nước
lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được
Quốc hội đề ra hồi đầu năm(khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình qn theo từng tháng(cách tính mới của Tổng cục
thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.

Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%.Tiếp đó là
hàng ăn(16,18%), nhà ở -vật liệu xây dựng(15,74%).Các ngành giao thơng,
hàng hóa và dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chínhviễn thơng là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng
miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%, cao

30

hơn 1,78% của khu vực thành thị.


2.Thực trạng lạm phát 9 tháng đầu năm 2011
Tính từ đầu năm, lạm phát của cả nước đã tăng 15,68% so với thời điểm cuối
năm 2010. So với cùng kỳ năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại đã cao hơn
23,02%. Nhìn chung lạm phát nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể từ đầu
năm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng mạnh từ tháng 1 với 1,78% so với tháng
trước và đỉnh điểm mức 3,32 ở tháng 4. Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có xu

hướng giảm khi các thời điểm 5,6,7 có giá trị lần lượt so với tháng trước là
2,21%,1,09%,1,17%. Đặc biệt với 2 tháng 8,9 con số này đã giảm xuống dưới
1% hạn chế sự tăng trưởng của lạm phát.

Đỉnh cao của lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 rơi vào tháng 4 với tỷ lệ 9,64%
so với cuối năm 2010, vượt xa ngưỡng 7% mà chính phủ đặt mục tiêu cho cả
năm vào thời diểm đó. Với so với cùng kỳ năm ngối, lạm phát đã lên tới
17,51%, cao hơn mức đỉnh lạm phát 16% mà Ngân hàng phát triển Á châu
đưa ra cho Việt Nam. Nhóm hàng và dịch vụ giao thơng tăng giá mạnh, tới
30

6,04%.


Chỉ số giá tiêu dùng cả nước sau tháng 4 đã có xu hướng giảm xuống và tăng
2,21% trong tháng 5. Tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng
giá hiện tại, so với đầu năm và cùng kỳ 2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07%
và 19,78%. Đến tháng 6 CPI tăng 1,09 so với tháng 5, nâng tổng mức lạm
phát từ đầu năm đến thời điểm đó lên 13,29% và cùng kỳ năm 2010 là
20,82%. Sang tháng 7 CPI tăng nhẹ có giá trị 1,17 so với tháng 6. Tháng 8 chỉ
số giá tiêu dùng(CPI) cả nước tăng 0,93% nhờ sự giảm nhiệt đáng kể của
hàng ăn-dịch vụ ăn uống. Lạm phát thấp nhất kể từ đầu năm là tháng 9 với chỉ
số tiêu dùng CPI tăng chỉ là 0,82 so với tháng trước.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, đã tăng giá trị nhóm hàng ăn và dịch vụ
ăn uống tiếp giảm tốc khi chỉ tăng 0,28% trong tháng 9(con số tương ứng của
2 tháng trước là 2,12 và 1,35%). Với quyền số khoảng 40% trong rổ hàng hóa
tính CPI, nhóm này đã có tác động lớn đến việc kiềm chế đà tăng của chỉ số
giá( tăng tổng cộng 16,3% kể từ đầu năm). Chỉ số giá ở nhóm giáo dục tăng
lên rất mạnh, lên tới 8,62% trong tháng 9. Tuy nhiên con số này vẫn thấp hơn
so với mức 12% của cùng kỳ 2010. Bên cạnh Bưu chính-viễn thơng có xu

hướng giảm khá đều trong nhiều tháng qua , giao thông là nhóm hàng thứ 2
giảm giá trong tháng này do tác động của quyết định giảm giá xăng vào cuối
tháng 8. Mức giảm tại 2 nhóm này lần lượt là 0,07% và 0,24%.
Ngồi các mặt hàng nói trên, tất cả các nhóm cịn lại trong rổ hàng hóa đều có
xu hướng tăng nhẹ. Nhóm duy nhất tăng giá trên 1% là hàng hóa –dịch vụ
khác( do có sự góp mặt của các mặt hàng trang sức, vốn chịu tác động mạnh
của giá vàng).

30

3.Thực trạng lạm phát năm 2012


Như dự báo trước của nhiều tổ chức, lạm phát của Việt Nam năm nay chỉ tăng
6,81%, thấp hơn nhiều so với ngưỡng dưới 10% mà Chính phủ đã đặt mục
tiêu. Theo công bố của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong
tháng 12 tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011.
CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011. Tháng 12
so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh nhất tới 1,17%.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng hơn mức tăng chung nhưng cũng
đều dưới 1% là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%, văn hóa, giải trí và
du lịch tăng 0,34%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%. Nhóm có tỷ trọng lớn
nhất trong “rổ” hành hóa tính CPI là hàng ăn và dịch vụ ăn uống , chỉ tăng
khiêm tốn là 0,28%( lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống
ngồi gia đình tăng 0,4%).
Những nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều tháng
trước thì ở tháng này lại tăng thấp hơn mức tăng chung. Đó là nhà ở và vật
liệu xây dựng chỉ tằn 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09%, trong đó , dịch vụ
giáo dục tăng 0,05%, nhóm giao thơng giảm 0,43%...Sau 2 tháng liên tiếp
tăng kỷ lục tới 10-12%, Chính phủ yêu cầu giãn thời gian tăng giá viện phí thì

các thuốc và dịch vụ y tế chỉ cịn tăng 0,14%, trong đó dịch vụ y tế tăng
0,03%.
Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ
“nhỉnh” hơn mức tăng 6,52% của năm 2009- năm suy giảm kinh tế mạnh và
thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13%
của năm 2011 và cách xa so với mục tiêu CPI đề ra ban đầu thì năm 2012 vẫn
là năm có nhiều biến động bất thường.Cơ qua này phân tích, CPI không tăng

30

quá cao vào 2 tháng đầu năm( tăng 1% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng


2) nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,20%. Đây là tháng chịu
tác động chủ yếu của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Sau đó,
mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng cuối năm.
Trong năm có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết chỉ tăng dưới
0,5%. Một điều khác thường nữa của thị trường giá cả là CPI không giảm vào
sau Tết âm lịch mà giảm vào 2 tháng giữa năm( tháng 6 và tháng 7). Chỉ số
giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng trước , giảm 0,96% so với
tháng 12/2011.
Từ đầu năm đến nay, tăng trưởng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước. Trong
đó quý I tăng 4,64%, quý II tăng 4,80%, quý III tăng 5,05% và quý IV tăng
5,44%. So với năm 2011, GDP năm nay đã giảm tới 0,86 điểm phần trăm.
Tuy nhiên tổng cục thống kê cho rằng, trong bối cảnh kinh tế gặp khó khăn,
cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mơ thì mức tăng như vậy là hợp lý. Trong 5,03% tăng trưởng chung của
tồn nền kinh tế, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp
0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm ; khu vực dịch vụ tăng

6,42%, đóng góp 2,7 điểm phần trăm.
Trước đó, Bộ trưởng Bộ kế hoạch đầu tư cho hay, với tốc độ tăng trưởng này
thì mục tiêu 6,5-7% như kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015
sẽ khó đạt. Năm 2011, GDP chỉ ở mức 5,89%, kế hoạch năm 2013 , GDP dự
báo khoảng 5,5%. Với 2 năm cịn lại là 2014-2015, trung bình GDP phải đạt
được 8-9% thì GDP trung bình giai đoạn 5 năm 2011-2015 mới đạt mục tiêu
trên. Tại hội thảo đầu tháng 12, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế -xã hội

30

quốc gia của Bộ kế hoạch đầu tư nhận xét: nhờ nỗ lực tăng trưởng 2 quý cuối


năm , tăng trưởng cả năm không giảm sâu về tốc độ. Tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2012 vẫn giảm năm thứ 2 liên tiếp.
Từ năm 2012, Chính phủ tiến hành thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm sốt
lạm phát và ln đặt mục tiêu này lên hàng đầu. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm
về một con số, song kèm theo đó là những hệ quả như tăng trưởng tín dụng
thấp, vốn đầu tư tồn xã hội suy giảm.
4. Lạm phát năm 2013
+ Báo cáo trước chính phủ của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư(KH-ĐT)
Bùi Quang Vinh cho thấy lạm phát được kiềm chế , chỉ số gia tăng thấp, góp
phần đảm bảo kinh tế vĩ mô được ổn định. “So với tháng 12-2012 chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tháng 12-2013 tăng 6,04%, thấp nhất trong vòng 10 năm
qua, đạt mục tiêu đề ra là khoảng 8%,thấp hơn mức tăng giá cuối năm 2012
6,81%.
+ Về tốc độ tăng trưởng GDP, qua thống kê đã có sự gia tăng qua từng quý ,
dù tốc độ tăng GDP cả năm thấp hơn kế hoạch đề ra nhưng cao hơn năm
trước . Cụ thể GDP cả năm ước tăng 5,421%, thấp hơn kế hoạch đề ra là 5,5%
nhưng cao hơn năm 2012(5,25%).

+ Trong điều kiện kinh tế thế giới cịn nhiều khó khăn, phải ưu tiên mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ trong một thời gian khá dài thì đây
là mức tăng hợp lý , thể hiện sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của chính phủ.
+ Xuất khẩu tăng nhưng chủ yếu dựa vào FDI
+ Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số yếu kém, hạn chế như: tái

30

cơ cấu các tổ chức tín dụng, triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn; nợ xấu


của hệ thống ngân hàng chậm được xử lý, tỉ lệ nợ xấu vẫn còn ở mức cao; thị
trường chứng khoán và thị trường bất động sản giảm sút và chưa có nhiều cải
thiện; tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chậm…dặc biệt, tăng
trưởng xuất khẩu ước đạt 132,2 tỉ USD, tăng 15,4% so với chỉ tiêu 10% được
giao, nhưng chủ yếu dựa vào khu vực FDI và thấp hơn 2012(mức 18,2%).
+Những khó khăn:
*Thứ nhất,cộng đồng doanh nghiệp cịn gặp q nhiều khó khăn.
*Thứ hai, nợ xấu được kiềm chế, tốc độ tăng nợ giảm so với năm ngoái
nhưng tỷ lệ vẫn ở mức độ cao.
*Thứ ba, nguy cơ mất cân đối ngân sách.
5.Thực trạng lạm phát năm 2014
Ngay từ đầu năm 2014, Chính phủ đã tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh
tế vĩ mô, trong đó, kiểm sốt lạm phát là một trong những trụ cột quan trọng.
Kết quả này lại tiếp tục được thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm
2014, chỉ tăng 1,84% so với tháng 12/2013, chỉ bằng 26,2% chỉ tiêu mức lạm
phát của Quốc hội đặt ra (7%) và bằng 37% mức dự kiến lạm phát của Chính
phủ (5%).
Nếu xét mức lạm phát bình quân, thì cả năm 2014 so với năm 2013 tăng
4,09%, dù xét theo chỉ tiêu nào, thì kết quả này cũng là điều đáng ghi nhận.

Đây là mức lạm phát thấp nhất trong 10 năm trở lại đây và khá bất ngờ đối
với các dự báo của nhiều cơ quan chức năng, các tổ chức và chuyên gia kinh

30

tế. Có thể nhận định rằng, kết quả này là một trong những sự kiện nổi bật


nhất, một trong những thành công đuợc ghi nhận của kinh tế Việt Nam trong
năm 2014.
Lạm phát thấp do sự tác động của nhiều yếu tố. Xét từ diễn biến thực tế của
nền kinh tế trong năm 2014, lạm phát của nước ta thấp do những nguyên nhân
sau:
Một là, Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa. Với mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mơ, chính sách tiền tệ, tài khóa ln được kiểm sốt
một cách chặt chẽ. Khác với các giai đoạn trước, khi lạm phát có xu hướng
bắt đầu giảm thì chúng ta lại nới lỏng chính sách tiền tệ, cịn 3 năm qua
(2012, 2013, 2014) Chính phủ đã thực hiện nhất quán và kiên trì chính sách
nói trên, nên lạm phát đã được kiềm chế và kiểm soát ở mức thấp dần. Cụ thể:
CPI năm 2012 là 6,81%; năm 2013 là 6,04%; năm 2014 là 4,09%.
Hai là, công tác quản lý, điều hành giá được chú trọng. Theo đó, Chính phủ
cũng đã đề ra các giải pháp thường kỳ hàng tháng về triển khai cơng tác quản
lý, bình ổn thị trường giá cả; quản lý, điều tiết, bình ổn giá một số mặt hàng
quan trọng thiết yếu (giá xăng dầu, giá điện, giá than, giá dịch vụ khám, chữa
bệnh tại cơ sở công lập, giá dịch vụ giáo dục, giá sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi,
giá dịch vụ bốc dỡ container tại các cảng Cái Mép - Thị Vải, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, giá cước vận tải…). Triển khai các nghị quyết của Chính phủ, chỉ
đạo của Chính phủ, Bộ Tài Chính đã chủ trì hoặc phối hợp với các bộ, ngành
liên quan thực hiện công tác quản lý giá, góp phần bình ổn giá cả thị trường.
Ba là, CPI thường chịu tác động của 4 nhóm yếu tố: chi phí đẩy, cầu kéo, tiền


30

tệ - tín dụng và tâm lý. Cụ thể:


Về yếu tố chi phí trong năm qua cho thấy, giá cả hàng hóa thế giới giảm, các
mặt hàng giảm giá mạnh nhất đó là dầu mỏ và các sản phẩm liên quan tới dầu
mỏ (chất dẻo, nhựa đường, phân bón, thuốc trừ sâu...), tiếp đến là đường, sữa,
các loại ngũ cốc, đậu nành, dầu thực vật… Nhiều khoản thuế đã được cắt
giảm, giãn hoãn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí, giảm giá
hàng hố, dịch vụ; lãi suất cho vay của ngân hàng đã giảm khá nhanh; tỷ giá
ổn định làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằng USD giảm.

Về yếu tố cầu cũng giảm, bao gồm: vốn đầu tư, tổng mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng, xuất khẩu. Trong năm qua, tổng cầu vẫn yếu do
tỷ lệ vốn đầu tư/GDP giảm, chỉ còn khoảng 31%/GDP. Dù sức mua đã được
cải thiện trong năm qua, nhưng mức tăng vẫn chậm. Trong bối cảnh khó khăn
chung, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và
xuất khẩu liên tục đối mặt với nhiều thách thức gây ảnh hưởng không nhỏ tới
sản xuất, kinh doanh.
Về tiền tệ - tín dụng, áp lực đối với lạm phát đang có xu hướng giảm. Cụ thể:
tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cũng đã giảm nhanh trong mấy năm qua,
thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện, đảm bảo khả
năng thanh toán và chi trả của hệ thống; tỷ giá ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại
hối tăng cao. Hệ số giữa tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tốc độ tăng GDP đã
giảm mạnh trong thời gian qua (thời kỳ 2006-2010 là 5,3 lần, năm 2011 là 2,3
lần, năm 2012 là 1,7 lần, năm 2014 là 2,2 lần). Đặc biệt, từ đầu năm đến nay,
tốc độ tăng dư nợ tín dụng chỉ bằng 2/3 tốc độ tăng huy động tiền gửi. Điều
đó cho thấy, tiền cịn bị ứ đọng ở các ngân hàng. Mặc dù nền kinh tế đã những


30

tín hiệu tốt, nhưng hoạt động ngân hàng vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Tỷ


lệ nợ xấu mặc dù có dấu hiệu giảm, nhưng vẫn ở mức cao; chất lượng tín
dụng chưa thực sự được cải thiện; nợ xấu chưa được phân loại và đánh giá
đầy đủ, chính xác. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối năm tốc
độ tăng trưởng tín dụng có thể đạt mức khoảng 13%, nếu so với những năm
trước với mức tăng trưởng 25%-30%/năm.
Trong khi đó, tâm lý kỳ vọng lạm phát không bị áp lực lớn như trước, khi giá
vàng giảm, giá USD ổn định, chứng khoán vẫn chưa vượt khỏi mốc 600 một
cách bền vững, bất động sản chưa có sự phục hồi rõ rệt.
Có thể thấy rằng tỷ lệ lạm phát của các tháng năm 2014 so với cùng kỳ đạt
cao nhất vào tháng 1 cũng chỉ là 5,45%. Kể từ tháng 6, tỷ lệ tăng của CPI
ngày càng giảm. CPI tháng 12 chỉ tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2013, kéo
tỷ lệ lạm phát bình qn tháng chỉ cịn 4,09%/năm, thấp hơn mức trung bình
của năm 2013 là 2,5 điểm phần trăm.
Tính đến ngày 15/12/2014, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 968,5 nghìn
tỷ, bằng 96,2% dự tốn năm. Tính đến ngày 27/12/2014, tổng phương tiện
thanh tốn tăng 15,65% và tín dụng tăng 12,62% so với cuối năm 2013. Như
vậy, với thực tế về số liệu chi ngân sách nhà nước, cung tiền và tín dụng năm
2014 đều gần bằng và vượt mức của năm 2013, nhưng lạm phát lại thấp hơn
cho thấy, lạm phát có những ngun nhân ngồi chính sách tiền tệ và tài khóa,
như: sức cầu cịn yếu, giá xăng dầu sụt giảm liên tục...
Theo Tổng cục Thống kê, trong 12 tháng vừa qua, nhóm hàng có đóng góp
nhiều nhất vào sự gia tăng CPI vẫn là hàng ăn và dịch vụ ăn uống (chiếm
38,8%), thứ đến là giáo dục (14,2%), nhà ở và vật liệu xây dựng (9,3%),

30


nhóm hàng giao thơng chỉ đóng góp 4%. Với sự điều chỉnh giảm liên tục của


giá xăng dầu trong nước, chi phí sinh hoạt cho nhóm hàng giao thơng sẽ giảm
đi, từ đó tác động làm giảm CPI.

II/NGUYÊN NHÂN
1.Nguyên nhân dẫn đến lạm phát năm 2011.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới 9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở
7% mà Quốc hội thông qua đầu năm
lạm phát ở Việt Nam là do yếu tố tiền tệ do chi tiêu công quá mức và phân bổ
vốn thiên lệch ở khu vực thị trường (doanh nghiệp) được diễn giải như sau
- ví dụ năm ngối trong nền kinh tế có 100 đơn vị hàng hóa và 100 đồng tiền
thì giá 1 hàng hóa là 1 tiền. Năm nay, do tăng trưởng kinh tế 10% nên nền
kinh tế có 110 đơn vị hàng hóa. Do những yếu tố khác nhau (chủ yếu vẫn là
việc gia tăng cung tiền của ngân hàng trung ương) mà nền kinh tế có đến 121
đơn vị tiền. Kết quả là giá 1 hàng hóa bằng 1,1 tiền hay lạm phát là 10%.
- lạm phát cũng có thể do cầu kéo hay chi phí đẩy. Một ví dụ đơn giản nhất
của cầu kéo là những gói kích thích kinh tế của chính phủ. Với một kế hoạch
chi tiêu lớn được đưa ra sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế gia tăng dẫn đến
mức giá gia tăng trong ngắn hạn.
-Sự nóng lên bất thường của các thị trường tài sản (chứng khoán , bất động
sản...) cũng có thể gây ra lạm phát cầu kéo do nhiều người trở nên giàu có bất
thường sẽ gia tăng mức chi tiêu rất lớn của mình dẫn đến tăng tổng cầu của cả
nền kinh tế tăng.
- lạm phát chi phí đẩy, ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó
mà làm cho nguồn cung khan hiếm hay giá nguyên liệu đầu vào đột ngột tăng
lên làm cho mức giá chung của cả nền kinh tế tăng lên tưc thì


30

-nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, theo tơi, chính là yếu tố tiền
tệ. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói
một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên


nhân



bản

sau:

Thứ nhất, do đầu tư công quá mức Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá
nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu
vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường
xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và
đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã
hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ
cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như
phân
tích
dưới
đây.
Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu
vực thị trường các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân
lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ

vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 4 tỷ đơ la trong
thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất
điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đối với một số doanh nghiệp tư nhân lớn, chúng ta thấy rằng, khơng ít trong
số họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động kinh doanh (nói đúng hơn là đầu
cơ) các loại tài sản (bất động sản, chứng khốn ...) hay tìm kiếm tài ngun
quốc gia chứ không phải tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo
ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều đáng quan tâm là hầu hết các
doanh nghiệp này khơng chỉ có các ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của
mình mà cịn có quan hệ chặt chẽ với khơng ít các tổ chức tài chính ngân
hàng
lớn
hay
những
mối
quan
hệ
khác.

30

Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và
một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hoạt động kinh doanh có
tính đầu cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Dĩ nhiên,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động
lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn
và khó tiếp cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho
qua
ngày.



Thứ ba, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm
phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Như nhiều lần tơi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm
cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một
lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiệc
lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường
có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao
đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn
2.Nguyên nhân dẫn đến lạm phát năm 2012.
Những nhân tố bên ngoài như giá hàng hóa thế giới giảm (do nhu cầu hàng
hóa nguyên vật liệu thơ suy giảm trước nguy cơ suy thối kinh tế cao) cũng
tác động tích cực đến việc kiểm sốt lạm phát của Việt Nam. tăng lương và
tăng giá một số mặt hàng cơ bản như điện, than… là nhân tố tác động tiêu cực
đến lạm phát năm 2012

30

Theo tính tốn của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, CPI 2 q đầu năm
2012 - khơng tính tới yếu tố thời vụ (thời điểm Tết Nguyên đán) và với giả
định khơng có điều chỉnh về giá cả mặt hàng cơ bản và tỷ giá - sẽ dao động
trong khoảng 3-4%. Nếu điều chỉnh giá điện 20% trong năm 2012 có thể
khiến CPI năm 2012 tăng thêm 1,43% giảm so với năm 2011


PHẦN 3: BIỆN PHÁP LÀM GIẢM LẠM PHÁT CỦA
CHÍNH PHỦ

1.

Năm 2011

- Nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2011 ở mức 17%, ổn
định kinh tế vĩ mô, Bộ Tài chính ban chủ trương từ nay đến cuối năm tập
trung vào 6 giải pháp.
Ngày 17-8, Bộ Tài chính đã công bố các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát năm 2011 ở mức 17%, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào
6 giải pháp như sau:
Thứ nhất, tập trung giải quyết các vấn đề từ gốc của giá cả là chất lượng tăng
trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ hai, kiên định thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm khống chế tổng cầu
của nền kinh tế mà Nghị quyết 11/NQ-CP đã đề ra.
Thứ ba, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống,
trước hết là các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để
xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thơng hợp lý,
tránh đẩy chi phí lưu thơng tăng cao. Rà sốt, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất,
thuế… cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng
cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép đẩy giá tăng.
Thứ tư, thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các
hành vi gian lận thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại
hối.

30

Thứ năm, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích
hợp để xố bao cấp qua giá đối với các loại hàng hố dịch vụ cịn bao cấp và

phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch, than
bán cho điện… Đồng thời, bộ sẽ có các giải pháp hỗ trợ hợp lý đối với những
ngành sản xuất gặp khó khăn, hỗ trợ đối với người nghèo, người có thu nhập
thấp, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.


Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương
biện pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an
sinh xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, giảm thiểu các yếu tố tâm lý,
kỳ vọng tăng giá trên thị trường.

2. Năm 2012
Mục tiêu ưu tiên của Việt Nam năm 2012 là kiềm chế lạm phát dưới 10%, các
năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 đến 7%. Trong bối cảnh
với các áp lực lạm phát còn khá đậm như kể trên (dù chỉ số CPI tháng 1-2012
chỉ tăng 1% so với tháng 12-2011 và khả năng CPI tháng 2-2012 sẽ tăng
khoảng dưới 1,5% so với tháng 1-2012 là tín hiệu tốt vì thấp hơn nhiều cùng
kỳ năm trước), thì rõ ràng đây là mục tiêu cần thiết, nhưng không dễ đạt
được, nếu thiếu các nỗ lực và sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía và nhiều loại
cơng cụ, giải pháp, mà nổi bật là:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh
hoạt theo tín hiệu thị trường; kết hợp hài hịa giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa để bảo đảm tăng tổng phương tiện thanh tốn và tăng dư nợ tín
dụng hằng năm không vượt quá mức đề ra trong Nghị quyết 11. Giữ mặt bằng
lãi suất hợp lý. Ðiều hành tỷ giá chủ động, phù hợp, không để biến động lớn.
Giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại; bảo đảm
vốn cho sản xuất; kiểm soát chặt cho vay bất động sản và kinh doanh chứng
khoán; kiểm soát nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, giảm sâu hơn bội chi

ngân sách; tăng cường tiết kiệm chi thường xuyên; rà sốt, sắp xếp lại danh
mục đầu tư cơng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chuyển một phần đầu tư
nhà nước sang đầu tư từ các nguồn vốn khác. Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu
tư, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Bảo đảm nợ công trong giới hạn
an toàn.

30

Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước về giá; xử lý nghiêm khắc các hành vi
tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu; công khai, minh bạch và tăng cường cơ chế thị


trường đối với giá các hàng xăng dầu, điện và những mặt hàng nhạy cảm khác
chưa có cạnh tranh thị trường đầy đủ.
Thứ tư, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và quản lý thị trường để
hạn chế thấp nhất các tác động tăng giá do yếu tố tâm lý và đầu cơ. Các bộ và
địa phương hữu quan phải chủ động, kịp thời can thiệp thị trường hoặc trình
cấp có thẩm quyền các giải pháp ứng phó trong trường hợp cần thiết để bảo
đảm khơng xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa, gây tăng giá đột biến, ảnh
hưởng sản xuất và đời sống của nhân dân, nhất là rà soát cân đối cung - cầu
các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước như:
gạo, xăng, dầu, phân bón, xi-măng, sắt thép.
Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng khơng khuyến
khích để giảm nhập siêu và cải thiện cán cân thanh toán. Ðẩy mạnh xuất khẩu,
tăng hàm lượng nội địa và giá trị gia tăng của sản phẩm; phát triển sản xuất
thay thế có hiệu quả hàng nhập khẩu; tiếp tục khuyến khích thu hút và đẩy
nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI (đặc biệt trong phát triển
cơ sở hạ tầng, công nghiệp phụ trợ và nơng nghiệp), cùng với việc kiểm sốt,
ngăn chặn việc chuyển giá, trốn thuế. Tăng cường quản lý các dịng vốn đầu

tư gián tiếp nước ngồi (FII). Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách du lịch
quốc tế và nguồn kiều hối.
Thứ sáu, thúc đẩy trên thực tế q trình tái cấu trúc kinh tế vĩ mơ và vi mô,
gắn với các đột phá chiến lược theo một chương trình tổng thể; đồng thời, chủ
động giảm thiểu các tác động mặt trái của quá trình này. Chủ động điều chỉnh
cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng và nâng cao hiệu quả; kiên
quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và tăng cường quản lý đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ và kiểm sốt chặt chẽ đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước. Ðẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước. Phải rà sốt đánh giá tồn diện hiệu quả hoạt
động của các tập đồn kinh tế và tổng cơng ty. Tái cơ cấu các ngân hàng
thương mại và các định chế tài chính, tín dụng theo hướng tăng hợp lý về quy
mô, giảm nhanh số lượng các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém; nâng
cao chất lượng tín dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng.

30

Thứ bảy, cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
triển sản xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường; bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại tệ
với lãi suất hợp lý cho sản xuất các ngành hàng, các sản phẩm trọng điểm mà


thị trường trong nước và xuất khẩu đang có nhu cầu lớn. Hồn thiện cơ chế
chính sách để huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao hiệu quả
đầu tư; đa dạng các hình thức đầu tư theo các cơ chế BOT, BT, BTO...; đẩy
mạnh hình thức hợp tác công - tư (PPP) để phát triển hạ tầng có quy mơ lớn
nhằm tạo bước đột phá trong lĩnh vực quan trọng này.
Thứ tám, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường cơng
tác phịng, chống tham nhũng. Cần tạo đột phá về nhận thức lý luận và chủ
thuyết phát triển, củng cố giá trị chuẩn và tạo đồng thuận xã hội chung, tăng

cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới công tác cán bộ, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách
hành chính, chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành chính, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp và nhân dân.

3. Năm 2013

Để giảm bớt lạm phát thì dù chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa cũng
nhằm vào hai mục tiêu đó là: giảm bớt lượng tiền trong lưu thơng và gia tăng
cung cấp hàng hóa dịch vụ trong xã hội . Với mỗi mục tiêu trên thì mỗi chính
sách có cơng cụ sử dụng riêng biệt để thực hiện tốt hai mục tiêu trên.
Mục tiêu giảm bớt lượng tiền trong lưu thơng.
+ Đối với chính sách tiền tệ:

-

-

Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vào
lưu thông trong xã hội.
Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền
vào thị trường. Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng và bình
dẳng giữa các ngân hàng với nhau.
Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi : biện pháp này nhằm hạn
chế các ngân hàng thương mại mang giấy tờ có gia đến ngân hàng nhà
nước để triết khấu. Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng sẽ thu
hút người dân giử tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
30

-



-

Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các
chứng từ có giá cho các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng trung ương bán vàng ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại.

+ Đối với chính sách tài khóa;
-

Giảm chi ngân sách : đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư
công
Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu trong xã hội.

Mục tiêu gia tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hợi.
+ Đối với chính sách tiền tệ : đưa ra những chính sách ưu đãi tín dụng thông
qua ưu đãi lãi suất đối với các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực sản xuất .
Việc ưu đãi về lãi suất sẽ làm giảm chi phí đầu vào vì vậy tăng năng suất lao
động.
+ Đối với chính sách tài khóa : Bộ tài chính chỉ đạo tổng cục thuế giảm thuế
đầu tư, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc và thiết bị, thu thuế doanh
nghiệp. Từ đó giảm bớt chi phí đầu vào làm tăng năng suất lao động.
Một số giải pháp kiềm chế lạm phát của nước ta hiện tại trong nghị quyết 11.
Trong thời gian tới, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và chính
sách tài khóa thận trọng và thắt chặt, cụ thể như sau:
+ Đối với chính sách tiền tệ:
-

-


Quy định tốc độ tăng trưởng tín dụng phải giữ ở mức dưới 20%.
Trong tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15-16% và ưu tiên cho
việc phát triển nông nghiệp , nông thôn , xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thắt chặt tín dụng với lĩnh vực phi sản xuất đặc biệt là lĩnh vực bất động
sản và chứng khốn . Ngồi ra cịn giảm tỉ lệ dư nợ đối với lĩnh vực này.
Đưa ra chính sách bình ổn thị trường ngoại tệ và vàng nhằm đáp ứng nhu
cầu kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối .
30

-


×