Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Chiến lược sản phẩm cho công ty cổ phần giống cây trồng Miền Nam tại Quảng Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.86 KB, 115 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu , kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Người cam đoan

Trương Tuấn Anh


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................i
MỤC LỤC.................................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................v
DANH MỤC CÁC BẢNG.......................................................................................vi
DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH...............................................................................vii


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBNV

:

Cán bộ nhân viên


CBTD

:

Cán bộ tín dụng

CSTD

:

Chính sách tín dụng

CV QHKH

:

Chuyên viên quan hệ khách hàng

DPRRTD

:

Dự phòng rủi ro tín dụng

NHNN

:

Ngân hàng Nhà nước


NHTM

:

Ngân hàng Thương mại

NQH

:

Nợ quá hạn

PGD

:

Phòng giao dịch

RRTD

:

Rủi ro tín dụng

TCTD

:

Tổ chức tín dụng


TSĐB

:

Tài sản đảm bảo


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Tình hình huy động vốn giai đoạn 2009 – 2011

42

2.2

Tình hình cho vay giai đoạn 2009 – 2011

43

2.3


Kết quả tài chính giai đoạn 2009 – 2011

45

2.4

Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu

46

2.5

Tình hình nợ quá hạn và nợ xấu theo thời gian vay

47

2.6

Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành

48

2.7

Nợ quá xấu và tỷ lệ nợ xấu theo ngành

49

2.8


Tình hình nợ quá hạn và nợ xấu theo đối tượng khách

50

2.9

hàng
Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn

59

2.10

Xếp hạng tín dụng Doanh nghiệp

62

2.11

Xếp hạng tín dụng Cá nhân

63

2.12

Khách hàng từ chối cho vay

67

2.13


Tỷ lệ bảo đảm

68

2.14

Số lượng khách hàng vay

69

2.15

Dư nợ đã mua bảo hiểm

70

2.16

Tình hình xử lý nợ quá hạn

72

2.17

Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng

73



v

DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH
Số hiệu mô
hình
3.1

Tên bảng

Trang

Chứng khoán hóa

96

3.2

Ảnh hưởng của hoạt động bán nợ

99

3.3

Hợp đồng trao đổi tín dụng

100

3.4

Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập


101

3.5

Hợp đồng quyền tín dụng

102

3.6

Hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng rủi ro

103


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ
của ngân hàng luôn gắn liền với những rủi ro. Những rủi ro của hoạt động ngân
hàng gồm nhiều loại, nhưng tập trung chủ yếu là rủi ro tín dụng. Thậm chí, những
rủi ro tín dụng trong lĩnh vực ngân hàng còn diễn ra phức tạp, gây ra những tác hại
to lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt là khi hệ thống ngân hàng nước ta trong thời kỳ hội
nhập WTO với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt và tiềm ẩn nhiều biến động khó
lường, phức tạp, … Chính vì vậy, rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng là một
đề tài mà các nhà quản trị, nhà nghiên cứu đã và đang nghiên cứu không ngừng
nhằm hoàn thiện trong các điều kiện mới để đạt được tối ưu.
Hiện tại, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ lực mang lại doanh thu và

lợi nhuận cho Sacombank Đà Nẵng với doanh thu từ hoạt động tín dụng chiếm trên
80% tổng doanh thu của Chi nhánh. Đi đôi với hoạt động tín dụng là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng mặc dù vẫn đang được Chi nhánh kiểm soát ở mức thấp nhưng đang
có dấu hiệu tăng mạnh và biến động khó lường. Do đó, để hoạt động tín dụng nói
riêng và hoạt động kinh doanh của Chi nhánh nói chung phát triển ổn định và bền
vững, đòi hỏi Chi nhánh phải có những quan tâm đúng mực đối với rủi ro tín dụng
cũng như có những giải pháp hiệu quả để hạn chế rủi ro tín dụng. Do đó tác giả đã
chọn đề tài “QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK CHI
NHÁNH ĐÀ NẴNG” làm đề tài nghiên cứu Luận Văn Thạc Sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
- Nhận dạng, phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng và đánh giá thực
trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hiện nay tại Sacombank Đà Nẵng.
- Trên cơ sở những lý luận về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng và thực
trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà Nẵng nhằm đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà Nẵng.


2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá tình hình rủi ro tín dụng và công tác quản
trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2009-2011, và
đưa ra những giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng trong thời gian đến.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp sử
dụng các phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, tổng hợp để nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và rủi ro tín
dụng một cách logic và khoa học.

- Phân tích, đánh giá được tình hình, nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng và
thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà Nẵng.
- Đề xuất được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản
trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà Nẵng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Sacombank Đà
Nẵng
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng
tại Sacombank Đà Nẵng


3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
1.1 Rủi ro tín dụng
1.1.1 Khái niệm rủi ro tín dụng (RRTD)
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản
của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một
khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định [6].
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại
lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn.
Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, RRTD chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt
động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của
ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu
dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3
thu nhập ngân hàng [8] (Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại). Kinh doanh
ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được là

bản chất của ngân hàng, P. Volker, cựu Chủ tịch Cục dữ trữ liên bang Mỹ (FED) đã
nói: “Nếu ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động
kinh doanh”. RRTD là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng [4]. Có nhiều định nghĩa
khác nhau về RRTD:
Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern Perspective »
A.Saunder và H.Lange định nghĩa RRTD là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp
tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang
lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng
và thời hạn [1].
Theo Timothy W.Kock: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy
ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi
theo thỏa thuận. RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn


4

xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn (Timothy W.
Koch, Ph.D. is Professor of Finance at the University of South Carolina) [2].
Theo khoản 1 điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc NHNN Việt Nam và các quyết định sửa đổi, bổ sung về việc phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của
Tổ chức tín dụng (TCTD), RRTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân
hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết [9], [10].
Như vậy, có thể hiểu RRTD là biến cố xảy ra trong quá trình cấp tín dụng của
ngân hàng, biểu hiện trên thực tế là việc khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ
trả nợ (bao gồm lãi vay và gốc) hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng như đã
cam kết trong hợp đồng.
Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ hoàn

toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do chúng
gây ra. Chúng ta cũng cần nên hiểu RRTD theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó
có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất [2]. Điều này có nghĩa là một khoản vay dù
chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ
lệ nợ quá hạn (NQH) thấp nhưng nguy cơ RRTD sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín
dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách
hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị RRTD được chủ động trong phòng ngừa,
trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Tùy theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu mà có cách phân loại RRTD phù hợp
1.1.2.1 Căn cứ vào tính chất kết quả, mức độ và khả năng kiểm soát tổn thất
+ Rủi ro đọng vốn: Là RRTD mà vốn của ngân hàng bị ứ đọng do người vay
không trả được nợ đúng hạn trong cả thời gian dài, nhưng ngân hàng vẫn còn có khả
năng kiểm soát và thu hồi được nợ, tuy nhiên phải mất thời gian dài.
+ Rủi ro mất vốn: Là RRTD mà người vay đã hoàn toàn mất khả năng thanh
toán nợ, khả năng thu hồi nợ vay của ngân hàng là bằng không, hoặc có rất ít. Loại


5

này thường rơi vào các trường hợp con nợ phá sản/ chết mà không còn tài sản thu
nợ hay gặp trường hợp lừa đảo tín dụng.
1.1.2.2. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro [1]:
Rủi ro tín dụng
(Rủi ro mất vốn)

Rủi ro giao dịch
(Rủi ro liên quan đến một khoản cho vay)

Rủi ro xét duyệt

(liên quan đến
việc đánh giá một
khoản cho vay)

Rủi ro kiểm soát
(liên quan đến
việc theo dõi
khoản cho vay)

Rủi ro danh mục
(Rủi ro liên quan đến danh mục các khoản
cho vay)

Rủi ro cá biệt
(liên quan đến
từng loại cho vay)

Rủi ro tập trung
cho vay
(liên quan đến
kém đa dạng hóa
cho vay)

Rủi ro bảo đảm
(liên quan đến chính sách
và hợp đồng cho vay)

- Rủi ro giao dịch: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quá trình giao
dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm:
* Rủi ro lựa chọn: Liên quan đến quá trình đánh giá, phân tích tín dụng khi

ngân hàng lựa chọn phương án cho vay.
* Rủi ro đảm bảo: Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại TSĐB, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên trị giá của TSĐB.
* Rủi ro nghiệp vụ: Liên quan đến công tác quản lý khoản cho vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý
các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quản lý danh
mục cho vay của ngân hàng, bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.


6

* Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay.
* Rủi ro tập trung: Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một
số khách hàng; cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành,
lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho
vay có rủi ro cao.
1.1.3 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, người ta thường dùng chỉ tiêu
NQH, nợ xấu và kết quả phân loại nợ.
1.1.3.1 Tỷ lệ nợ quá hạn
NQH
Tỷ lệ NQH = ------------- x 100%
Tổng dư nợ
NQH là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn, là
các khoản nợ thuộc các nhóm 2,3,4,5 theo Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/04/2007 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều

của Quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng, dự phòng để xử lý RRTD
trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Tỷ lệ NQH càng cao thể hiện chất lượng tín dụng ngân hàng càng kém và
ngược lại tỷ lệ NQH càng thấp chứng minh được chất lượng tín dụng ngân hàng
càng tốt. Hiện nay, NHNN đang khống chế tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ của các
TCTD ở mức tối đa là 5% trên tổng dư nợ.
1.1.3.2 Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ------------------ x 100%
Tổng dư nợ


7

Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN
Việt Nam có quy định nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Và các
nhóm nợ này đã được sửa đổi, bổ sung trong Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN
ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN Việt Nam [9], [10]..
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ dùng để đánh giá chất lượng tín dụng của
TCTD. Hiện nay, NHNN đang khống chế tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các
TCTD ở mức tối đa là 3% trên tổng dư nợ.
1.1.3.3 Phân loại nợ:
Phân loại nợ là cơ sở để đánh giá chất lượng của các khoản nợ và trích lập dự
phòng để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ khi xảy ra rủi ro.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN thì TCTD thực hiện
phân loại nợ theo 5 nhóm sau:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn)
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý)

- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn)
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ)
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn)
1.1.4 Nguyên nhân rủi ro tín dụng
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường đều gặp rủi ro.
Đặc biệt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh doanh nhạy
cảm càng không tránh được những rủi ro. RRTD của ngân hàng có thể phát sinh do
những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan và cả từ hai phía khách hàng và
ngân hàng.
1.1.4.1 Nguyên nhân chủ quan:
Theo nghiên cứu của ngân hàng Standard Chartered, nguyên nhân chủ yếu của
các khoản nợ có vấn đề xuất phát từ khách hàng, ngân hàng và hoàn cảnh khách
quan. Trong đó nguyên nhân từ phía khách hàng chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 56%,


8

kế tiếp là nguyên nhân từ phía ngân hàng chiếm khoảng 27%, số còn lại là từ
nguyên nhân hoàn cảnh khách quan [1].
a. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc
biệt đi vay với lãi suất thấp và sau đó cho vay lại với lãi suất cao hơn để hưởng
chênh lệch lãi suất. Dó đó, ngân hàng luôn xem xét rất cẩn thận trước khi cho vay
để đạt hiệu quả tránh rủi ro mất vốn. Vì thế RRTD do nguyên nhân từ phía ngân
hàng thường chiếm tỷ lệ nhỏ và do những nguyên nhân sau:
 Do Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để
phân tích và đánh giá khách hàng,…dẫn đến việc xác định sai hiệu quả phương án
xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án
kinh doanh của khách hàng.
 Sự lơi lỏng trong quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay nên không
phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay không đúng mục đích.

 Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm coi đó là vật chất
đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi nợ gốc và lãi tiền vay.
 Chạy theo số lượng (theo kế hạch) mà bỏ qua việc coi trọng chất lượng
khoản vay, lạc quan, tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh.
 Ngân hàng có thể thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro,
quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản
phẩm từng địa phưng khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng
thời kỳ.
 Do cán bộ tín dụng (CBTD) thực hiện không đúng quy trình cho vay hay

do quy trình tín dụng thiếu chặt chẽ và không phù hợp.
 Ngân hàng phạm vi các nguyên tắc trong cho vay, cho vay vượt tỷ lệ an
toàn, hoặc thiếu tài sản thế chấp, cầm cố.
 Do chất lượng CBTD thấp nên thẩm định khách hàng để cho vay thiếu

chính xác hoặc CBTD vi phạm đạo đức trong cho vay, cấu kết với khách hàng để
cho vay không đúng quy định của ngân hàng, hoặc CBTD chiếm dụng vốn vay dẫn
đến các khoản NQH, nợ xấu gia tăng.


9

 Do cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt nên ngân hàng nới lõng
về điều kiện cần có của khách hàng để cho vay nhằm thu hút khách hàng.
b. Nguyên nhân từ phía khách hàng: Rủi ro từ phía khách hàng là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc phòng tránh
rất khó khăn và phức tạp nó do thường những nguyên nhân sau:
* Đối với khách hàng là cá nhân:



Thiếu năng lực tài chính: khách hàng vay vốn không đủ khả năng tài

chính để trả nợ, dẫn đến việc thu hồi nợ của Ngân Hàng gặp khó khăn.


Thiếu năng lực pháp lý: Khi khách hàng thiếu năng lực pháp lý thì việc

thu hồi nợ của ngân hàng cũng gặp khó khăn do cản trở về thủ tục và thời gian.


Sử dụng vốn sai mục đích: Đó là việc khách hàng dùng vốn vay của

mình không đúng mục đích theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Từ đó dẫn đến
khách hàng có thể làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.


Do ý muốn chủ quan của người đi vay cố tình không trả nợ: Đây là

trường hợp xấu nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến RRTD. Loại nguyên
nhân này được xếp vào nguyên nhân rủi ro về đạo đức của người đi vay. Trên thực
tế cho thấy yếu tố đạo đức là nguyên nhân rất quan trọng trong việc trả nợ vay,
người đi vay có thể có khả năng nhưng cố tình không trả nợ, lừa đảo chiếm đoạt
tiền vay của bên cho vay.


Do hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn như: bị sa thải, thất nghiệp, tai nạn

lao động…dẫn đến mất đi nguồn thu nhập để trả nợ ngân hàng.
* Đối với khách hàng là doanh nghiệp:



Doanh nghiệp bị mất năng lực pháp lý: Do trong quá trình hoạt động

kinh doanh doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép kinh doanh, dẫn đến sản xuất kinh
doanh không được và không có khả năng trả nợ ngân hàng.


Năng lực chuyên môn và uy tín lãnh đạo của doanh nghiệp bị giảm

thấp, đạo đức nghề nghiệp yếu kém, thiếu quan tâm để thực hiện tốt các khâu của
quá trình tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh hay do sự hạn chế về nghề nghiệp


10

chuyên môn của nhân viên doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp làm ăn yếu kém
thua lỗ.


Do doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích.



Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ( như gia nhập tổ chức WTO,

AFTA), các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh lại với các công ty nước
ngoài dẫn đến giảm sút thị trường tiêu thụ, giá thành sản phẩm làm ra phải hạ thấp
để cạnh tranh từ đó các doanh nghiệp làm ăn thua lổ và mất khả năng trả nợ ngân
hàng.



Do doanh nghiệp không mua bảo hiểm như: bảo hiểm hỏa hoạn, bảo

hiểm tài sản, bảo hiểm thiên tai,…nên khi có biến cố xảy ra thì doanh nghiệp bị tổn
thất lớn và không có khả năng trả nợ vay.


Sự thay đổi trong chính sách của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi
nợ của ngân hàng.
1.1.4.2 Nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân này là tác nhân gây ra RRTD bất khả kháng, xảy ra ngoài ý
muốn và tầm kiểm soát của con người trong một thời điểm nào đó.


Có thể xuất phát từ môi trường kinh tế, trong một nền kinh tế tăng

trưởng lành mạnh tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động
sản xuất kinh doanh còn có nhiều cơ hội để phát triển và ngược lại, khi nền kinh tế
có hiện tượng lạm phát tăng vọt kéo theo đồng tiền nội địa bị mất giá, dẫn đến kinh
doanh trong nước bị trở ngại và khó khăn khiến cho khả năng thu hồi vốn tín dụng
trở nên phức tạp.


Có thể xuất phát từ gốc độ của môi trường pháp lý, đây là một nhân tố

cũng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh RRTD, cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến rủi ro trong sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp.



Bên cạnh đó, trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế các nước trên thới

giới có mối quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế, cho nên sự bất ổn về kinh tế của
nước này sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước khác. Do đó, các cuộc khủng


11

hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính trên thới giới xảy ra dây chuyền từ một hay
một vài nước sau đó lan sang nhiều nước, đây cũng là nguyên nhân làm phá sản các
NHTM.
Cần lưu ý rằng dù nguyên nhân RRTD có thể là từ phía khách hàng hay từ
phía ngân hàng, có thể là chủ quan hay khách quan, nhưng suy cho cùng RRTD đều
dẫn đến hậu quả là khách hàng không trả được nợ vay và ngân hàng không thể thu
hồi được khoản cho vay. Do vậy, vấn đề của quản lý RRTD còn liên quan đến việc
giải quyết và khắc phục hậu quả của việc mất vốn vay như thế nào, chứ không phải
chỉ dừng lại ở việc phân tích và chú ý đến nguyên nhân gây ra RRTD. Tuy nhiên,
việc phân tích và phân định rõ ràng nguyên nhân sẽ giúp ngân hàng có biện pháp xử
lý hợp tình hợp lý hơn.
1.2 Quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đến nay, chưa có một khái niệm thống nhất về quản trị và có nhiều cách khái
niệm về quản trị, nhiều cách tiếp cận về quản trị. Tuy nhiên tất cả đều dựa trên nền
tảng lý thuyết quản trị nói chung (gồm 4 chức năng cơ bản: Hoạch định, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm tra). Theo đó, có nhiều phát biểu về khái niệm quản trị rủi ro.
Theo Kloman, Haimes: Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách
khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và
giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
Theo Ủy ban Basel: Quản trị rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện

ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài
chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch
về tài chính.
Quản trị rủi ro là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của các nhà quản
trị ngân hàng lên các đối tượng quản trị và khách thể nhằm mục tiêu phòng ngừa,
hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng từ đó nâng cao mức độ an
toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn và dài
hạn của mỗi ngân hàng [11].


12

Quản trị rủi ro là việc chủ động kiểm soát các sự kiện tương lai trên cơ sở kết
quả dự báo trước các sự kiện xảy ra chứ không phải là sự phản ứng thụ động. Như
vậy, một chương trình quản trị rủi ro hiệu quả không những làm giảm bớt xác suất
xuất hiện sai sót mà còn làm giảm mức độ ảnh hưởng của những sai sót đến việc
thực hiện các mục tiêu đã định.
Quản trị rủi ro là nỗ lực nhằm xác định/nhận dạng, đo lường, theo dõi, giám
sát và quản lý sự không chắc chắn. Mục tiêu của quản trị rủi ro là giảm mức độ rủi
ro thuộc những ngành/ nội dung đã được lựa chọn xuống một mức độ được chấp
nhận đã xác định trước.
Theo cách suy nghĩ hiện đại, quản trị rủi ro không chỉ đơn thuần tuân thủ quy
định và kiểm soát nội bộ mà trở thành một phần không thể tách rời trong mỗi quyết
định kinh doanh và văn hóa rủi ro mang tính đặc trưng của mỗi định chế tài chính.
Kỹ năng quản trị rủi ro thay vì cách tiếp cận hậu kiểm đã chuyển sang cách tiếp cận
rủi ro mang tính phòng ngừa, dự báo trước và có sự lựa chọn. Các quyết định kinh
doanh dựa trên cơ sở rủi ro. Thay vì quản trị rủi ro với vai trò là tác nhân hạn chế
chuyển sang quản trị rủi ro đóng vai trò là tác nhân giúp ích.
Chấp nhận rủi ro là trung tâm của hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần
phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm

ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân
hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý, kiểm soát
được và nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng
của ngân hàng.
Walter Wriston (1993), cựu chủ tịch & CEO của citibank/citicorp đã đánh giá
về vai trò của quản trị rủi ro ngân hàng: “thực tế các chuyên viên ngân hàng đang ở
trong một ngành kinh doanh về quản lý rủi ro. Nói một cách trực tiếp và đơn giản,
đó chính là công việc của ngân hàng”.
Từ những cách tiếp cận trên về quản trị rủi ro, quản trị RRTD được khái niệm
là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh
tín dụng nhằm tối đa hóa lợi ích trong phạm vị mức độ rủi ro có thể chấp nhận hay


13

quản trị RRTD là quá trình ngân hàng hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và
giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận với
mức rủi ro có thể chấp nhận [4].
Quản trị RRTD hiệu quả liên quan đến việc quản trị chặt chẽ mối quan hệ giữa
rủi ro/ lợi nhuận và kiểm soát, giảm thiểu RRTD trong nhiều khía cạnh khác nhau,
chẳng hạn như chất lượng tín dụng, mức độ tập trung, loại tiền tệ, thời gian đáo hạn,
các hình thức bảo đảm và các loại công cụ tín dụng. Khi xem xét RRTD cần chú ý
tới các yếu tố tạo nên RRTD:
- Các khách hàng khác nhau và các ngành nghề khác nhau có các rủi ro khác
nhau;
- Các sản phẩm khác nhau (các hình thức cho vay hoặc theo loại tiền tệ) thể
hiện các rủi ro khác nhau;
- Chuyên môn của CBTD và các nguồn lực của ngân hàng (trong đó có hệ
thốngcông nghệ thông tin);
- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng.

1.2.2 Những nguyên tắc cơ bản của quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro ngân hàng được dựa trên hàng loạt những nguyên tắc, trong đó
bao gồm một số nguyên tắc cơ bản sau (Quản trị rủi ro ngân hàng: Cơ sở lý thuyết,
thách thức thực tiễn và giải pháp cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam –
TS Phí Trọng Hiển - Tạp chí ngân hàng Số chuyên đề 18/11/2005) [3]:
Một là, nguyên tắc chấp nhận rủi ro. Các nhà quản trị ngân hàng cần phải
chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn có được thu nhập phù hợp
từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Dĩ nhiên, mỗi nghiệp vụ cụ thể sau khi
đánh giá mức độ rủi ro các ngân hàng thương mại (NHTM) cần xây dựng chiến
thuật “phòng chống rủi ro”. Tuy nhiên, loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong hoạt động
ngân hàng là không thể, bởi vì rủi ro ngân hàng – là sự hiện hữu khách quan vốn có
trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình quản
trị rủi ro đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải nhận biết những “rủi ro cho


14

phép”. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro ngân hàng nào chính là điều kiện quan
trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro.
Hai là, nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép. Nguyên tắc này đòi hỏi phần
lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng điều tiết trong quá trình
quản lý, mà không phụ thuộc vào những hoàn cảnh khách quan và chủ quan của nó.
Chỉ đối với những loại rủi ro như vậy thì các nhà quản trị ngân hàng mới có thể sử
dụng tất cả những “vũ khí”, “nghệ thuật” của mình để điều tiết chúng. Ngoài ra, đối
với các loại rủi ro không có khả năng “điều chỉnh” cần phải được chuyển đẩy sang
các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Ba là, nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt. Một trong những
nguyên lý cơ bản của lý thuyết quản trị rủi ro là các loại rủi ro khá độc lập với nhau
và sự thiệt hại do một loại nào đó trong “gói rủi ro cho phép” gây nên không nhất
thiết sẽ làm tăng xác suất xảy ra với các loại rủi ro khác. Nói cách khác, về nguyên

tắc sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây nên là khá độc
lập với nhau và quá trình quản lý chúng cần phải được điều tiết riêng biệt, không
thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một phương pháp
điều hành.
Bốn là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu
nhập. Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro. Các ngân hàng trong
quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro mà
thiệt hại khi chúng xảy ra ở mức không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có
nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong
đợi cần phải được loại bỏ.
Năm là, nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài
chính. Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro phải phù
hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích dự phòng cho những thiệt hại khi
chúng xảy ra. Khi rủi ro xảy ra, nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng
lợi nhuận và nhịp độ phát triển của ngân hàng trong tương lai. Do đó, giá trị thiệt
hại phải phù hợp với mức vốn dự phòng của ngân hàng và ngân hàng phải xác định


15

được mức độ (dự báo) phù hợp, bao gồm cả những khoản rủi ro không thể chuyển
được sang cho đối tác hay các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Sáu là, nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Mục đích cơ bản của việc quản lý rủi ro
ngân hàng là điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro khi xảy ra. Cùng với điều
này, chi phí của ngân hàng bỏ ra để điều tiết phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những
rủi ro ngân hàng có khả năng xảy ra và thậm chí ở mức độ giá trị cao nhất khi chúng
xảy ra.
Bảy là, nguyên tắc hợp lý về thời gian. Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ
ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết những tác
động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi ro càng thấp. Khi bắt buộc phải

tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải đảm bảo có mức độ thu nhập phụ trội
cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều
tiết tác động của rủi ro trong trường hợp chúng xảy ra.
Tám là, nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng. Hệ
thống quản lý rủi ro cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến
lược phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách điều hành từng hoạt động
riêng biệt của ngân hàng.
Chín là, nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép. Nguyên tắc
này đòi hỏi các loại rủi ro nằm trong “gói rủi ro cho phép” phải có khả năng/ tính
chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro không tương thích với khả năng của ngân hàng
trong việc điều tiết những hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không phù hợp với
những yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành hoạt động của ngân
hàng cần phải được loại bỏ khỏi “gói rủi ro cho phép”. Hay nói cách khác, chúng
chỉ được cho vào khi có khả năng chuyển đẩy cao sang các đối tác hoặc các công ty
bảo hiểm bên ngoài.
Trên đây là 9 nguyên tắc cơ bản để từ đó mỗi ngân hàng xây dựng cho mình
một chính sách quản trị rủi ro ngân hàng riêng biệt. Chính sách quản trị rủi ro ngân
hàng phải được xem là một cấu phần trong chiến lược hoạt động chung của ngân
hàng và nó đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống phòng chống từ xa, đưa ra


16

được giải pháp nhằm điều tiết các tác động xấu đến tình hình tài chính của ngân
hàng.
1.2.3 Tổ chức quản trị rủi ro tín dụng
Để đạt được mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng trong quá trình hoạt động, bất kỳ
ngân hàng nào cũng phải tổ chức hoạt động quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với cơ
cấu tổ chức và định hướng phát triển hoạt động kinh doanh cụ thể trong từng thời
kỳ của ngân hàng mình.

Việc tổ chức công tác quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng đều xuất phát
từ nhu cầu, mục tiêu phòng ngừa rủi ro và giảm thiểu tổn thất tín dụng cũng như
đều hướng đến việc điều hòa các nguồn lực con người, vật chất sao cho với chi phí
thấp nhất để đạt được mục đích, mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng nhất định. Công
tác quản trị rủi ro tín dụng cần hướng tới những nội dung cụ thể sau [7]:
- Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cũng như với từng nghiệp vụ kinh doanh cụ thể, đảm bảo mọi
thành viên của ngân hàng đều nhận biết được các rủi ro tín dụng và các lợi ích trong
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần
phải xây dựng được một khuôn khổ báo cáo quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả và có
hiệu lực cho phép thông tin tới tất cả các cấp ra quyết định tín dụng của ngân hàng.
- Thiết lập các mục tiêu hoạt động tín dụng, quản trị danh mục cho vay, thiết
lập quy trình cho vay, các chính sách có liên quan phù hợp để thực hiện kiểm soát
và quản trị rủi ro tín dụng.
- Xác định nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu quản trị rủi ro tín dụng
của ngân hàng, bao gồm các nguồn lực như nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất, kỹ
thuật công nghệ, mạng lưới ... Đảm bảo Ngân hàng có các phương pháp về quản trị
rủi ro tín dụng phù hợp, có cơ sở hạ tầng công nghệ hỗ trợ toàn diện cho việc thu
thập, phân tích và truyền đạt thông tin về rủi ro tín dụng của tất cả các sản phẩm,
hoạt động của ngân hàng và đội ngũ cán bộ có kỹ năng để thực hiện quy trình và
giám sát rủi ro tín dụng.


17

- Bố trí, phân bổ các nguồn lực lãnh đạo, quản lý vào các khâu quản trị rủi ro
tín dụng để thực hiện các kế hoạch, chiến lược, các chương trình, mục tiêu đã hoạch
định của ngân hàng.
- Tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch, chương trình để thực hiện được
các mục tiêu đề ra của ngân hàng trong toàn hệ thống, từng cấp, từng bộ phận, mô

hình cho vay, mô hình xét duyệt tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng.
- Kiểm tra, kiểm soát, đánh giá các chính sách, quy trình hiện tại có đảm bảo
rằng công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng là phù hợp với mục tiêu, chiến
lược, nhiệm vụ của ngân hàng không; Các chính sách, quy trình đã đủ để giảm thiểu
rủi ro tiềm năng chưa; Giám sát việc tuân thủ chính sách, quy trình như thế nào; …
1.2.4 Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Theo cách tiếp cận của quản trị rủi ro hiện đại, nội dung chính của hoạt động
quản trị rủi ro sẽ gồm có 4 bước là: Nhận diện rủi ro, đo lường và đánh giá rủi ro,
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. Nội dung cụ thể như sau:
1.2.4.1 Nhận dạng rủi ro tín dụng
Nhận diện RRTD là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro và bất
định của một tổ chức. Tất cả các rủi ro trọng yếu (gồm cả rủi ro đang có, rủi ro chưa
được phát hiện và rủi ro mới) ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng
phải được ngân hàng nhận ra và hiểu được. Các hoạt động nhận diện nhằm phát
triển thông tin về nguồn rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, và nguy cơ rủi ro.
Yêu cầu chính của nội dung này là thực hiện công việc dự báo các rủi ro có thể có,
xác định nó xuất hiện từ nguồn nào trên cơ sở những thông tin được cung cấp và tự
thu thập về các vấn đề có liên quan đến quyết định kinh doanh. Đối với một TCTD,
yêu cầu nhận diện RRTD phải được thực hiện đối với thực trạng toàn bộ hoạt động
tín dụng (để phục vụ cho công tác quản trị điều hành kinh doanh tín dụng), và cả
với từng khoản cấp tín dụng/khách hàng cụ thể (để phục vụ cho việc ra các quyết
định tín dụng).
Có các phương pháp nhận diện rủi ro sau: Phương pháp bảng liệt kê (phương
pháp check – list) là phương pháp thông qua các câu hỏi về những vấn đề có thể xảy


18

ra để từ đó nhận dạng và đánh giá mức độ tác động của từng loại rủi ro; Phương
pháp phân tích tài chính là phương pháp đánh giá tình hình tài chính hiện tại của

công ty thông qua các báo cáo tài chính để từ đó đưa ra đánh giá có căn cứ về tình
hình tài chính tương lai của công ty và đưa ra ước tính tổn thất về khả năng kinh tế
trong tương lai; Phương pháp lưu đồ là phương pháp liệt kê trình tự các bước đối
với một quy trình cho vay, từ đó xác định rủi ro khi thực hiện từng bước để có
những biện pháp khắc phục nhất định. Ngoài ra, trong thực tế còn sử dụng phương
pháp giao tiếp với chuyên gia, phương pháp nghiên cứu các số liệu tổn thất trong
quá khứ, phương pháp đánh giá hiểm họa RRTD, phương pháp giao tiếp với nội bộ
tổ chức, và phương pháp phân tích hợp đồng trong phân tích, nhận diện RRTD. Mỗi
phương pháp có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, do vậy trên thực tế có thể
phối hợp các phương pháp trên để tối ưu hóa công tác nhận diện RRTD.
Việc nhận biết RRTD là rất phức tạp, các tình huống dẫn đến rủi ro luôn đa
dạng. Các NHTM đã cố gắng xây dựng một số dấu hiệu nhận biết RRTD điển hình
để hỗ trợ cho hoạt động quản trị RRTD cụ thể như sau [11]:
a. Các dấu hiệu từ người vay
- Doanh nghiệp khó khăn trong thanh toán lương, gia tăng các khoản nợ
thương mại và các khoản vay ngân hàng một cách bất thường.
- Đề nghị các khoản vay vượt quá nhu cầu cần thiết, thường xuyên yêu cầu
ngân hàng đáo hạn, cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
- Sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn,
các hệ số tài chính biến động xấu.
- Doanh nghiệp nợ tiền thuế Nhà nước dây dưa, bị cơ quan thuế nhắc nhở
nhiều lần.
- Doanh nghiệp vay vốn trì hoãn cung cấp các báo cáo tài chính cho ngân
hàng: Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng để ngân hàng thẩm định cho vay, là cơ
sở để đánh giá tình hình vay vốn, sử dụng vốn. Việc chậm trễ trong xây dựng hoặc
gửi báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp nói lên tình hình tài chính của
doanh nghiệp có vấn đề, có thể người vay gặp khó khăn hoặc gian dối về tài chính.


19


Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra, phân tích và kết luận cụ thể để có biện pháp xử
lý kịp thời.
- Mối quan hệ không bình thường giữa ngân hàng và người vay: Sự chậm trễ,
thất hẹn, hoặc trốn tránh các giao tiếp bình thường với ngân hàng cũng là dấu hiệu
cho thấy khách hàng không bình thường, có thể khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, tài chính suy giảm. Ngân hàng cần tăng cường cảnh giác, tìm hiểu thực chất
vấn đề để đối phó kịp thời.
- Dự trữ vật tư hàng hóa tăng cao, ứ đọng lâu ngày, khả năng quay vòng thấp.
- Chất lượng hàng hóa, dịch vụ giảm sút, doanh nghiệp bị rắc rối trong tranh
chấp và kiện tụng về chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
- Khách hàng vay vốn giảm bất thường về giá bán hàng hóa: Việc giảm giá
bán bất thường có thể do doanh nghiệp khó khăn về tài chính.
- Sự thay đổi bất thường về tổ chức: Việc thay đổi người quản lý (cách chức,
từ chức, chuyển công tác, ...) hoặc người lao động thiếu việc làm, giảm nhân công,
bán tài sản, ... đây là những dấu hiệu rõ nét cho thấy những khó khăn của doanh
nghiệp, có thể ảnh hưởng đến việc trả nợ ngân hàng gặp khó khăn.
- Đối tác của người vay gặp khó khăn (phá sản hoặc bị truy tố): Nếu đối tác
của người vay gặp rủi ro thì nguy cơ rủi ro dây chuyền có thể xảy ra và ảnh hưởng
đến các món nợ của ngân hàng.
- Khách hàng hoàn trả nợ vay không đúng hạn: Các trường hợp trả nợ vay
ngân hàng chậm trễ đều được coi là dấu hiệu cơ bản của RRTD. Mục đích cuối
cùng và cơ bản nhất trong hoạt động tín dụng là thu hồi nợ đầy đủ và đúng hạn.
Việc khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng
đồng nghĩa với RRTD.
- Xuất hiện tình trạng khách hàng vay vốn ở nhiều ngân hàng: Thường các
doanh nghiệp chỉ quan hệ tín dụng với một vài ngân hàng quen thuộc và thuận tiện.
Tuy nhiên, trong trường hợp khó khăn, không trả được nợ ngân hàng đầy đủ và
đúng hạn, nên khách hàng tìm cách vay nhiều ngân hàng để đảo nợ và tránh sự kiểm
soát của ngân hàng.



20

b. Các dấu hiệu từ phía ngân hàng.
- Quy trình cho vay không được thực hiện đúng quy định: Thông thường các
ngân hàng chấp hành quy trình cho vay một cách chặt chẽ, kiểm soát việc cấp tín
dụng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, quá trình cho vay
không phải lúc nào cũng được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Trong bối cảnh cạnh
tranh diễn ra ngày càng gay gắt, mạnh mẽ, các ngân hàng có xu hướng nới lỏng các
điều kiện vay vốn, bỏ qua một số quy định để thu hút hoặc giữ chân khách hàng, do
đó RRTD sẽ tăng lên.
- Giải ngân khoản vay trước khi hoàn thành bộ hồ sơ vay vốn: Điều này thể
hiện sự bất ổn, vội vã của ngân hàng trong việc tăng trưởng tín dụng, dẫn đến không
kiểm soát được chất lượng tín dụng. Khách hàng sau khi đã nhận được khoản vay
thường thiếu thiện chí bổ sung các thủ tục còn thiếu. Những khoản vay như vậy
thường có độ rủi ro cao so với các khoản vay bình thường.
- Ngân hàng cho khách hàng vay đảo nợ: Khi một khoản vay không được
thanh toán đầy đủ, đúng hạn, thay vì phải đàm phán với khách hàng để xử lý, nhưng
ngân hàng giải quyết tình trạng quá hạn trước mắt bằng cách cho vay nợ mới để thu
hồi nợ cũ. Biện pháp này không kiểm soát được các khó khăn của khách hàng phải
đối mặt mà làm tích tụ thêm rủi ro cho khoản vay. Đến một lúc nào đó, tài chính của
doanh nghiệp bộc lỗ rõ ràng, không cứu vãn được nữa, RRTD là rất cao.
1.2.4.2 Đo lường rủi ro tín dụng
Một khi các rủi ro đã được xác định, chúng ta phải đánh giá được về mức độ
thua lỗ và xác suất nảy sinh. Trong quản trị RRTD, đo lường rủi ro được thực hiện
bằng thẩm định rủi ro khoản vay, xếp hạng tín dụng khách hàng.
Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật khác nhau, từ
các công cụ và mô hình đơn giản đến các công cụ và mô hình phức tạp.
Đo lường rủi ro chính xác và kịp thời là rất cần thiết cho hệ thống quản lý rủi

ro hiệu quả. Nếu không có một hệ thống đo lường rủi ro, ngân hàng đã hạn chế khả
năng kiểm soát hoặc giám sát mức độ rủi ro của mình. Ngân hàng nên kiểm tra định
kỳ các công cụ đo lường rủi ro để chắc chắn rằng chúng chính xác. Hệ thống đo


×