Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.44 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THÚY DUNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƢ GIỮA NHÀ ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI VÀ NHÀ NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIÊT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
Phản biện 2: TS. Trần Minh Đức

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội lúc 9 giờ 00 ngày 10 tháng 10
năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
. Trọng tài thương mại từ lâu đã là một phương thức phổ
biến trên thế giới dùng để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại giữa các doanh nghiệp, tổ chức với nhau. Việc giải
quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài được đánh giá là
phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận tiện, thủ tục
linh hoạt, nhanh chóng; có tính chung thẩm; giữ được bí mật kinh
doanh cũng như uy tín trên thương trường, đồng thời tiết kiệm thời
gian cho các bên tranh chấp hơn so với việc giải quyết tranh chấp
thông qua Tòa án. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 tổ chức
trọng tài thường trực như: Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ (AAA), Tòa án
trọng tài Quốc tế LonDon (LCIA), Hiệp hội Trọng tài Singapore
(SIAC), Hiệp hội Trọng tài thương mại Nhật Bản (JCAA), Phòng
Thương mại Stockholm (SCC)...
Ngày 17/6/2010, Quốc Hội chính thức thông qua Luật
Trọng tài thương mại, so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại
(TTTM) 2003, Luật TTTM 2010 được soạn thảo với ý tưởng tiếp thu
các thực tiễn quốc tế nhằm thúc đẩy việc sử dụng trọng tài thương
mại và chia sẻ gánh nặng với hệ thống Toà án đang quá tải của Việt
Nam; Luật TTTM 2010 được đánh giá là một bước tiến tích cực
nhằm xây dựng cơ chế trọng tài thương mại tiệm cận với các tiêu
chuẩn quốc tế.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã và đang tích
cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế và khu vực nhằm phát
triển kinh tế cũng như nâng cao đời sống của người dân. Việc ký kết
và tham gia các Hiệp định thương mại đa phương như TPP hay Hiệp
định Thương mại tự do Châu Âu và Việt Nam (Free Trade
1



Agreement between the European Union and the Socialist Republic
of Vietnam on Trade Relations - EVFTA)…sẽ giúp các hoạt động
hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước không
ngừng gia tăng. Cùng với đó, các tranh chấp về thương mại, đầu tư,
đặc biệt là tranh chấp giữa NĐTNN và cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn.
Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề khó,
điều này đòi hỏi vừa để bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư
nước ngoài, vừa để đảm bảo lợi ích của nhà nước. Xuất phát từ tầm
quan trọng và tính chất thời sự của vấn đề, tác giả chọn đề tài: “Giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng tài thương mại theo
pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các học giả Việt Nam cũng đã có bình luận về cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa NĐTNN và NTNĐT như: Cơ chế và thực tiễn
giải quyết tranh chấp đầu tư của Trung tâm giải quyết các tranh
chấp đầu tư quốc tế của tác giả Đỗ Hoàng Tùng (Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 4/2008); Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện của
Đỗ Thị Ngọc… Các bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra
những đặc điểm về cơ chế giải quyết tranh chấp và cung cấp một số
kiến giải cho việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
NĐTNN và NTNĐT. Tuy nhiên, ta có thể thấy các nghiên cứu này
đều là các công trình được thực hiện từ lâu, các số liệu cũng như tài
liệu tham khảo dẫn chiếu đều là các luật cũ, các Hiệp định xúc tiến
2



và bảo hộ đầu tư được ký kết từ lâu, do đó, không có tính thời sự và
so sánh bị giới hạn.
Đối với riêng vấn đề giải quyết tranh chấp đầu tư bằng
trọng tài, có các đề tài Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại
trọng tài Việt Nam (Trần Minh Ngọc, Luận văn thạc sỹ); Phương
thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài và
tòa án dưới góc độ so sánh (Cao Thị Thanh Thủy, Luận văn thạc
sỹ)…
Qua việc tìm đọc và nghiên cứu các tài liệu này cho thấy,
hầu hết, các tài liệu chỉ đi vào nghiên cứu phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại bằng con đường trọng tài, hầu như
chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về giải quyết tranh chấp
đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) và nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi tắt là nhà nước Việt Nam)
bằng con đường trọng tài thương mại.
3. M c đ ch và nhiệ v n hi n cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư
nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư; Phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn về giải quyết tranh chấp đầu tư
giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bằng trọng tài thương mại; để từ đó đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh
chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng tài thương mại.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
3



- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và và quốc gia
tiếp nhận đầu tư;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng tài thương mại;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn về giải quyết tranh chấp đầu
tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bằng trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước
ngoài và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng
tài thương mại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào các quy định về giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước
CHXHCN Việt Nam thông qua các Hiệp định tự do thương mại thế
hệ mới mà Việt Nam tham gia ký kết thời gian gần đây (như TPP,
EVFTA…), đối chiếu với các quy định này trog Luật Trọng tài
thường mại 2010 về cơ chế này. Bên cạnh, tác giả liên hệ với thực
tiễn trong quá trình giải quyết các tranh chấp này tại Việt Nam, từ đó
rút ra các vấn đề pháp luật cần phải sửa đổi hoàn thiện.
Phạm vi của luận văn là sự đánh giá toàn diện công tác giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước Việt
Nam trong thời gian qua trên phương diện quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng, qua đó, rút ra những điểm tích cực và hạn chế của
các quy định này tại Việt Nam.
5. Phƣơn pháp luận và phƣơn pháp n hi n cứu

4


Để nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả đã vận dụng
các kiến thức được tích lũy trong quá trình sưu tầm, tổng hợp các tài
liệu liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước
ngoài và nước tiếp nhận đầu tư nói chung và nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Song song với đó, tác giả xem xét,
đánh giá, chọn lọc các vụ tranh chấp đầu tư tiêu biểu tại Việt Nam đã
thu thập được để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Tác giả đã kết hợp sử dụng các phương pháp: phương pháp
phân tích; phương pháp so sánh đối chiếu; phương pháp logic;
phương pháp tổng hợp…để đạt được mục tiêu nghiên cứu và hoàn
chỉnh luận văn.
6. Ý n hĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài nghiên cứu khoa học sẽ làm rõ cơ chế giải quyết
tranh chấp giữa NĐTNN và nhà nước Việt Nam bằng trọng tài theo
quy định của pháp luật Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị
đối với các doanh nghiệp cũng như cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam khi hàng loạt Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có hiệu
lực thi hành.
Nghiên cứu về việc vận dụng các cơ chế giải quyết tranh
chấp đầu tư giữa NĐTNN và NTNĐT là cả một hệ thống các vấn đề
lý luận trên cơ sở phân tích, so sánh đi tìm các điểm tương đồng và
khác biệt, các mặt thuận lợi và khó khăn khi áp dụng cơ chế ISDS tại
Việt Nam so với các quốc gia khác trên thế giới. Từ đó, vận dụng
linh hoạt, có hiệu quả vào tình hình thực tế của đất nước là nội dung
quan trọng, cần thiết. Việc hiểu đúng, hiểu đủ có thể vận dụng để
phòng tránh và bảo vệ sự an toàn của môi trường đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam.

5


Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các sinh
viên, các nhà nghiên cứu và những nhà hoạt động thực tiễn trong
việc nghiên cứu và áp dụng các quy định của pháp luật trọng tài Việt
Nam nhằm giải quyết tranh chấp có thể phát sinh trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng tài thương mại
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài
và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng trọng tài
thương mại.

6


Chƣơn 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
GIỮA NHÀ ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI VÀ NƢỚC TIẾP NHẬN
ĐẦU TƢ
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và
nước tiếp nhận đầu tư (Investor – State Dispute settlement – ISDS)
này đã xuất hiện từ những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XIX.

Với công cuộc hợp tác quốc tế, những hiệp định hợp tác kinh tế thế
hệ mới được đàm phán, ký kết giữa các quốc gia trên khắp thế giới
ngày càng nhiều, kéo theo đó là những tranh chấp về đầu tư giữa nhà
đầu tư nước ngoài (NĐTNN) và nước tiếp nhận đầu tư (NTNĐT) gia
tăng về số lượng các vụ tranh chấp với tính chất, mức độ khác nhau.
1.1 Khái niệm Giải quyết tranh chấp đầu tƣ iữa Nhà
đầu tƣ nƣớc n oài và nƣớc tiếp nhận đầu tƣ
1.1.1 Định nghĩa Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà
đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư
Tại tại Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế của Thủ tướng Chính phủ năm 2014, giải thích: “Tranh chấp
đầu tư quốc tế là tranh chấp phát sinh từ việc NĐTNN kiện Chính
phủ, Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi chung là Chính phủ Việt Nam)
hoặc cơ quan nhà nước, tổ chức được cơ quan nhà nước ủy quyền
quản lý nhà nước (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước) dựa trên
cơ sở:…”.
Từ nhận định về tranh chấp đầu tư, ta có thể xác định “giải
quyết tranh chấp đầu tư” là các cách thức, biện pháp, phương tiện
được áp dụng để loại bỏ những bất đồng giữa các bên hoặc đưa ra
7


một phán quyết cuối cùng buộc các bên phải thực hiện để chấm dứt
tranh chấp đầu tư đó.
Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa NĐTNN NTNĐT là một
quyền pháp lý đặc biệt mà chỉ có những người đầu tư vào một quốc
gia nước ngoài mới có thể sử dụng như là một dạng “thách thức
luật”, quy định, quyết định tư pháp hoặc hành chính hoặc các quyết
định khác của chính phủ. ISDS cho phép chủ sở hữu tài sản nước
ngoài được bỏ qua tòa án trong nước, các thủ tục hành chính, điều

trần trước hội đồng thành phố… (tất cả những biện pháp mà nước
tiếp nhận đầu tư có thể áp dụng) và kiện nước tiếp nhận đầu tư trước
một “Hội đồng trọng tài” tư nhân (Giống như Thẩm phán, các Trọng
tài viên có quyền đưa ra các quyết định trong các trường hợp. Tuy
nhiên, họ không được bầu cử hay đề cử, bổ nhiệm, và họ không phải
chịu áp lực từ bất cứ các thế lực chính trị nào).
1.1.2 Đặc điểm cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa
nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư
Chủ thể tranh chấp
Chủ thể trong tranh chấp đầu tư giữa NĐTNN và NTNĐT
được xác định rõ ràng ngay trong tên gọi, bao gồm: nhà đầu tư nước
ngoài và nước tiếp nhận đầu tư.
Nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là công dân hoặc tổ chức
của một quốc gia tiến hành hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác.
Theo Luật Đầu tư năm 2014 “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có
quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”.
Bên còn lại trong tranh chấp – nước tiếp nhận đầu tư – là
các cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước, đó là các cá nhân, cơ quan
được cơ quan Nhà nước (CQNN) giao quyền, có chức năng và nhiệm
8


vụ để thay mặt chính phủ nước tiếp nhận đầu tư của NĐTNN khi họ
đầu tư vào nước mình.
Nội dung giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp sẽ phải tiến tới giải quyết triệt để
vấn đề tranh chấp giữa các bên. Theo đó, hoặc các bên tự thương
lượng, hòa giải để chấm dứt tranh chấp, hoặc sẽ thông qua cơ quan
tài phán (trọng tài) đưa ra một phán quyết về xử lý tranh chấp giữa

các bên. Kể cả khi các bên tự thương lượng, hòa giải hay việc tranh
chấp được chấm dứt bằng một phán quyết thì về nội dung, việc giải
quyết tranh chấp sẽ hướng tới việc đảm bảo quyền của các bên, bên
có hành vi gây tổn hại tới bên còn lại phải bồi thường.
Đối tượng giải quyết tranh chấp
Đối tượng giải quyết tranh chấp là những vấn đề phát sinh
từ hoặc có liên quan đến các quan hệ đầu tư giữa Nhà nước và nhà
đầu tư nước ngoài. Phạm vi các đối tượng tranh chấp cụ thể được
quy định trong các Hiệp định/Thỏa thuận thương mại và/hoặc đầu tư
liên quan hoặc pháp luật nội địa trong trường hợp chưa có Hiệp
định/Thỏa thuận nói trên.
Phạm vi giải quyết tranh chấp
Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư là tranh chấp có yếu tố quốc tế vì những tranh chấp
này phát sinh giữa một bên là cơ quan nhà nước của một quốc gia –
nước nhận đầu tư (với tư cách là một chủ thể công) – với một bên là
nhà đầu tư nước ngoài (chủ thể tư), tức là các doanh nghiệp của nước
khác. Tranh chấp này sẽ làm nảy sinh các mối quan hệ giữa một
quốc gia với doanh nghiệp ở một quốc gia khác và những quan hệ
này thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
9


1.2 Các phƣơn thức giải quyết tranh chấp giữa Nhà
đầu tƣ nƣớc n oài và nhà nƣớc Việt Nam
Các phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, đặc
biệt là tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu
tư, có thể được chia thành hai nhóm chính: các phương thức được
thực hiện bằng con đường ngoại giao (thương lượng, hòa giải/trung
gian) và phương thức thực hiện bằng con đường tài phán (trọng tài

và tòa án).
1.2.1 Thương lượng
Thương lượng là phương thức mà theo đó, các bên
phán với nhau để giải quyết một hoặc nhiều tranh chấp phát
giữa các bên. Trong việc giải quyết tranh chấp đầu tư, đặc biệt
NĐTNN và nước tiếp nhận đầu tư, thương lượng là phương
được chú trọng và là ưu tiên hàng đầu.

đàm
sinh
giữa
thức

1.2.2 Hòa giải – Trung gian
Phương hòa giải và trung gian ít khi được vận dụng riêng lẻ
trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp đầu
tư nói riêng. Các phương thức giải quyết tranh chấp này thường được
kết hợp với các phương thức giải quyết tranh chấp khác (như thương
lượng, trọng tài, tòa án) nhằm đảm bảo đáp ứng được mong muốn
của các bên khi giải quyết tranh chấp.
Hòa giải
Điều 1 Luật Mẫu của UNCITRAL về Hoà giải thương mại quốc
tế năm 2002 nhận định: Hòa giải là quá trình trong đó bên thứ ba, do

các bên tranh chấp chỉ định, hỗ trợ các bên tranh chấp giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan tới quan hệ hợp đồng hoặc
quan hệ pháp lý giữa các bên. Với sự hỗ trợ hòa giải của các hòa giải
viên các bên sẽ trình bày quan điểm, lập luận cũng như nguyện vọng
10



của mình nhằm giải quyết tranh chấp. Từ đó, các bên có thể tìm được
một giải pháp có lợi cho cả hai bên trên cơ sở sự thỏa hiệp của cả
hai.
Trung gian
Tương tự như hoà giải, trung gian là phương thức giải
quyết tranh chấp trong đó các bên thoả thuận giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng giữa các bên với sự hỗ trợ
của bên thứ ba. Điểm khác biệt giữa trung gian và hoà giải đó là nếu
như hoà giải viên không đưa ra giải pháp giải quyết tranh chấp thì
người trung gian, với tư cách là một cá nhân trung lập, sẽ đưa ra giải
pháp để các bên xem xét và chấp thuận
1.2.3 Trọng tài
Trọng tài thực chất là phương thức giải quyết tranh chấp tư,
được các bên tranh chấp lực chọn như là cách thức để chấm dứt xung
đột giữa họ mà không cần viện đến tòa án. Phương thức trọng tài
được thực hành tại nhiều nước với những đặc tính về pháp lý và văn
hóa khác nhau, và dưới các hình thức vô cùng đa dạng, không theo
quy chuẩn cụ thể nào.
1.2.4 Tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ
tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ
tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Tòa án thường được các
bên lựa chọn như một phương thức cuối cùng khi tất cả các phương
thức trên không thể áp dụng đi tới kết quả.

11



1.3 Sự hình thành và phát triển của cơ chế giải quyết
tranh chấp đầu tƣ iữa Nhà đầu tƣ nƣớc n oài và nhà nƣớc Việt
Nam
Ở Việt Nam cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư
và Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư được luật hóa rất muộn. Loại
hình tranh chấp này chỉ phát sinh trong giải đoạn khi Đảng và Nhà
nước ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa cho các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Trải dài từ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày
29/12/1987, đến Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996,
Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Trọng tài
Thương mại 2010 cho tới các Hiệp định thương mại Việt Nam ký kết
với các quốc gia khác trên thế giới, cơ chế giải quyết tranh chấp đầu
tư giữa Nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước Việt Nam ngày càng
được hoàn thiện hơn.
1.4 Những yếu tố tác độn đến việc giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc n oài và nƣớc tiếp nhận đầu tƣ bằng
trọn tài thƣơn
ại.
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư
(ISDS) xuất hiện trong các thỏa thuận đầu tư quốc tế, nhằm giải
quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước phát sinh
trong lĩnh vực đầu tư. Điều khoản ISDS cho phép nhà đầu tư của một
nước thành viên được khởi kiện Nhà nước nơi mà họ thực hiện hoạt
động đầu tư trước cơ quan trọng tài quốc tế. Khi nhà đầu tư khởi kiện
Nhà nước ra trọng tài quốc tế, thì nhà đầu tư phải chỉ ra các hành vi
vi phạm của Nhà nước tiếp nhận đầu tư trái với các quy định trong
Hiệp định. Các yếu tố tác động đến việc giải quyết tranh chấp dạng
này thông qua TTTM được thể hiện qua các mặt sau:

12


Thứ nhất, tính hợp pháp và minh bạch
Thứ hai, phán quyết trọng tài
Thứ ba, trọng tài viên
Thứ tư, chi phí trọng tài

13


Chƣơn 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƢ GIỮA NHÀ
ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI VÀ NHÀ NƢỚC CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BẰNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI
2.1 Thực trạn pháp luật Việt Na về iải qu ết tranh
chấp đầu tƣ iữa nhà đầu tƣ nƣớc n oài và Nhà nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ n hĩa Việt Nam bằng trọn tài thƣơn
ại
2.1.1 Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: " Nguyên
tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1. Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu
thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân
theo quy định của pháp luật.
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các

quyền và nghĩa vụ của mình.
4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành
không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm."
Như vậy, năm nguyên tắc trên là năm nguyên tắc luật định,
bắt buộc các trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân theo.
2.1.2 Điều kiện áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài
Chủ thể tham gia tranh chấp
14


Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài theo quy
định của LTTTM sẽ chỉ được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa
NĐT của một nước thành viên FTA, BTA mà Việt Nam tham gia ký
kết hoặc có thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp đầu tư bằng
trọng tài khi giao kết hợp đồng với Nhà nước Việt Nam.
Bên cạnh các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương
hay khu vực, hoặc các cơ quan có thẩm quyền thì bị đơn trong tranh
chấp giữa NĐTNN và nước tiếp nhận đầu tư còn có thể là “bất kỳ cá
nhân, danh nghiệp nhà nước hoặc bất kỳ cơ quan nào khác” nếu chủ
thể đó được các cơ quan trung ương, khu vực hoặc địa phương uỷ
quyền thực hiện các công việc của Chỉnh phủ.
Thời hạn và thời hiệu khởi kiện
Luật Trọng tài thương mại xác định nếu các bên đã có thỏa
thuận trọng tài thì khi có tranh chấp xảy ra, các bên hoàn toàn có thể
thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài. Điều 33 LTTTM quy định: "Trừ
trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện
theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm".

Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp
LTTTM cho phép các bên lựa chọn pháp luật nước ngoài
nhưng không nêu là các bên phải lựa chọn pháp luật áp dụng như thế
nào.các bên có quyền thỏa thuận chọn pháp luật một nước và tập
quán thương mại quốc tế để điều chỉnh hợp đồng.
Thủ tục tố tụng trọng tài
+ Cơ quan giải quyết tranh chấp.
Trong trường hợp tranh chấp giữa NĐTNN và nước tiếp
nhận đầu tư không được giải quyết thông qua tham vấn, thương
lượng, NĐTNN có quyền khởi kiện nước tiếp nhận đầu tư ra trọng
15


tài quốc tế. Cơ quan được trao quyền giải quyết tranh chấp đầu tư
theo quy định của LTTTM là Trọng tài.
+ Trình tự giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài
Theo thông tin chính thức của Bộ Tư pháp, đến thời điểm
hiện nay, tại Việt Nam có 7 Trung tâm trọng tài đang hoạt động và
được Bộ Tư pháp phê chuẩn điều lệ của Trung tâm theo quy định của
Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Bước 1: Gửi đơn kiện
Bước 2: Tự bảo vệ của bị đơn
Bước 3: Thành lập hội đồng trọng tài.
Bước 4: Chuẩn bị giải quyết vụ việc
Bước 5: Hòa giải
Bước 6: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và quyết
định trọng tài
2.2 Thực tiễn iải qu ết tranh chấp đầu tƣ iữa nhà đầu
tƣ nƣớc n oài và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ n hĩa Việt Nam
bằng trọn tài thƣơn

ại th o pháp luật Việt Na
2.2.1 Số lượng giải quyết
Số lượng vụ việc tranh chấp mà các Trung tâm trọng tài thụ
lý giải quyết đã tăng lên 30% so với trước đây. Theo số liệu thống
kê, trong 4 năm (từ năm 2011 đến 31/12/2015) các trung tâm trọng
tài đã ban hành 1.831 phán quyết trọng tài, riêng trong năm 2015, các
trung tâm trọng tài đã giải quyết được 1.255 vụ tăng 389 vụ việc so
với năm 2014. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải quyết 226 vụ, trung
bình gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ
Chí Minh (TRACENT) thụ lý, giải quyết 291 vụ, trung bình hơn 70
vụ/năm. Các trung tâm trọng tài khác chỉ giải quyết từ 5 đến 10
vụ/năm.
16


Tại Việt Nam, trong những năm qua, số vụ tranh chấp
thương mại được giải quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC
liên tục tăng, từ 18 vụ/năm (giai đoạn 1993 – 2003) lên 42 vụ/năm
(giai đoạn 2004 – 2010). Đội ngũ trọng tài viên không ngừng được
mở rộng.
2.2.2 Một số tồn tại, hạn chế của phương thức giải quyết
tranh chấp đầu tư bằng trọng tài
Thứ nhất, pháp luật Trọng tài thương mại 2010 còn nhiều
khoảng trống.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ trọng tài viên tuy đã được cải
thiện nhưng vẫn còn hạn chế.
Thứ ba số vụ việc được giải quyết bằng trọng tài trong 4
năm qua đã có xu hướng tăng lên.
Thứ tư, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng
tài còn chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ năm, hiện vẫn chưa thành lập được Hiệp hội trọng tài tổ chức xã hội - nghề nghiệp của trọng tài viên để đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp của trọng tài viên.
2.2.3 Nguyên nhân của bất cập hạn chế
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân sau đây:
Một là, thể chế về tổ chức, hoạt động trọng tài.
Hai là, số lượng trung tâm trọng tài ở nước ta được thành
lập tương đối nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong khi đó, cơ sở vật chất của phần lớn các trung tâm trọng tài
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu để phục vụ cho hoạt động.
Ba là, trọng tài thương mại là một trong những phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại mới hình thành và phát triển.
17


Bốn là, do các căn cứ pháp lý để hủy phán quyết trọng tài
còn được hiểu chưa thống nhất nên tình trạng hủy phán quyết trọng
tài trong thời gian qua với tỷ lệ còn cao.
Năm là, một số cơ quan quản lý nhà nước về trọng tài chưa
phát huy hết trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà
nước tại địa phương.

18


Chƣơn 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẦU TƢ GIỮA NHÀ ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI VÀ NHÀ NƢỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BẰNG

TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
3.1 Phƣơn hƣớn hoàn thiện
Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách
nhanh chóng và bền vững thì phải không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp
với xu thế phát triển chung.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước
cũng cần có hành động cụ thể nhằm hỗ trợ cơ chế cho hoạt động này.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài cũng như nâng
cao chất lượng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và
ưu thế của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế này
ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, mỗi trung tâm trọng tài cũng phải có kế hoạch
bồi dưỡng đội ngũ trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất
lượng.
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp đầu tƣ iữa nhà đầu tƣ nƣớc n oài và nhà nƣớc Việt Nam
bằng hình thức trọng tài theo pháp luật Việt Nam
3.2.1 Hoàn thiện quy định pháp luật về thỏa thuận trọng
tài
Thứ nhất, về định nghĩa thỏa thuận trọng tài. Pháp luật nên
quy định rõ các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thuộc phạm vi giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại.
19


Thứ hai, về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Pháp luật
trọng tài nên quy định theo hướng mở rộng hình thức đối với thỏa
thuận trọng tài, tránh trường hợp các bên rõ ràng là có thỏa thuận
trọng tài nhưng thỏa thuận đó lại không được công nhận về mặt hình

thức, làm mất quyền yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp của các
bên.
Thứ ba, về quan hệ hiệu lực của điều khoản trọng tài và
hiệu lực của hợp đồng. Theo đó, pháp luật trọng tài nên đưa ra một
quy định độc lập về thẩm quyền của người ký thỏa thuận trọng tài.
Pháp luật trọng tài của tế đều đã có các quy định độc lập về thẩm
quyền của người ký kết thỏa thuận trọng tài.
Thứ tư, về thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không
thể thực hiện được. Pháp luật về trọng tài cần bổ sung các quy định
về trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không thể
thực hiện được và có thể quy định cho Tòa án có thẩm quyền xét xử
nếu thỏa thuận trọng tài rơi vào tình trạng đó.
3.2.2 Hoàn thiện quy định cụ thể trong Luật Trọng tài
thương mại 2010
"Một là, quy định rõ về phạm vi điều chỉnh của Luật Trọng
tài thương mại 2010.
Hai là, cần bổ sung quy định cụ thể về hòa giải trong thủ
tục tố tụng trọng tài.
Ba là, nên bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng
tài trong Luật Trọng tài thương mại.
Bốn là, bổ sung quy định về điều kiện công nhận Trọng tài
và tiêu chuẩn Trọng tài viên.
Năm là, bổ sung quy định về thời gian tiến hành tố tụng
trọng tài.
20


Sáu là, cần có quy định rõ về “những hành vi được coi là
bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài” trong Luật Trọng tài thương
mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng trọng tài thực hiện

biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các bên.
Bảy là, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp thực
hiện phán quyết của Trọng tài.
3.2.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải
quyết tranh chấp
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Trọng tài
thương mại năm 2010.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá về
trọng tài thương mại.
Thứ ba, triển khai có hiệu quả Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 gắn với việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế và những chủ trương,
chính sách, định hướng quan trọng của Đảng về cải cách hành chính,
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, nâng cao năng lực, chất lượng bồi dưỡng về kiến
thức pháp luật, tính chuyên nghiệp, kỹ năng giải quyết tranh chấp,
đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ trọng tài viên.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh
vực trọng tài.
Thứ sáu, tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về trọng tài thương mại.
Thứ bảy, nghiên cứu, thành lập Hiệp hội trọng tài thương
mại với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các trọng tài
viên.
21


KẾT LUẬN
Đầu tư là việc một cá nhân hoặc pháp nhân sử dụng các

loại tài sản mà mình sở hữu hoặc có quyền quản lý thực hiện hoạt
động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận. Việc một nhà đầu tư của
quốc gia này tiến hành hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trên
lãnh thổ một quốc gia khác rất dễ nảy sinh những tranh chấp với
chính nước tiếp nhận đầu tư. Khi tranh chấp đầu tư phát sinh, vấn đề
đầu tiên là các bên tranh chấp phải mau chóng thực hiện các cơ chế
giải quyết tranh chấp đã được ký kết giữa nước tiếp nhận đầu tư và
nước NĐT mang quốc tịch. Việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh
chấp ISDS càng nhanh, càng chuẩn xác giúp hạn chế những thiệt hại
phát sinh hay sự leo thang tranh chấp.
Tranh chấp với nhà đầu tư trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh
là một dạng tranh chấp đặc thù. Bởi trong tranh chấp này luôn có một
bên là nhừ đầu tư nước ngoài và lĩnh vực phát sinh tranh chấp cũng
là lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như: tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng đối tác công tư… hoặc
cũng có thể là những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện
dự án đầu tư như việc mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản
lý hoạt động đầu tư.
Thời gian qua đã có những vụ tranh chấp trong đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam ngày càng gia tăng và đáng lo ngại. Cụ thể:
Trong giai đoạn 2010 – 2013, đã có tới 16 vụ kiện về đầu
tư quốc tế trong đó Chính phủ Việt Nam là bị đơn. Đến nay, mới chỉ
có 2 trong số 16 các vụ kiện đó được giải quyết với phần thắng thuộc
về chính phủ Việt Nam là vụ kiện của ông Michael McLenzie (công
dân Hoa Kỳ) ra Trọng tài Quốc tế về dự án xây dựng khu nghỉ dưỡng

22


tại Bình Thuận và vụ kiện của nhà đầu tư Pháp - Dial Asie trong dự

án Bệnh viện quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Và tới giữa năm 2015, Chính phủ Việt Nam với đại diện là
Bộ Tư pháp ghi nhận Chính phủ Việt Nam đang là bị đơn trong 4 vụ
kiện về đầu tư quốc tế với các nhà đầu tư bao gồm: Recofi, TVB, Sài
Gòn Metropolitant, Sezako tại Hội đồng trọng tài Quốc tế. Sở dĩ,
Chính phủ Việt Nam liên tiếp phải đối mặt với các vụ kiện về đầu tư
quốc tế là do chính sách về đầu tư vẫn chưa tạo được sự bình đẳng,
môi trường cạnh tranh công bằng giữa các nhà đầu tư theo như cam
kết tại các hiệp định về đầu tư mà Việt Nam tham gia và ký kết.
Theo dự báo, số lượng các vụ tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài
và chính phủ Việt Nam sẽ còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới.
Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư không phải là một vấn
đề mới mẻ cho cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Kể từ
thời điểm năm 1959 có hiệp định đầu tư song phương đầu tiên trên
thế giới, đến nay, đã có hơn 3000 BIT và FTA được ký kết trên toàn
thế giới với những quy định về cơ chế ISDS ngày càng phong phú,
đa dạng và cụ thể hơn. Trong vòng gần 30 năm kể từ vụ việc đầu tiên
được giải quyết bằng cơ chế ISDS, đến nay, số lượng các tranh chấp
đầu tư giữa NĐTNN và NTNĐT đã gia tăng với số lượng lớn và còn
có xu hướng mở rộng số lượng các vụ tranh chấp. Do đó, các FTA
thế hệ mới đều có quy định khác chặt chẽ về cơ chế này.
Thông qua việc đánh giá các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề giải quyết tranh chấp đầu tư, luận văn cung cấp các
điểm tương đồng cũng như hạn chế của pháp luật Việt Nam về vấn
đề này. Từ đó, tác giả đưa ra một số biện pháp để hoàn thiện cơ chế
giải quyết tranh chấp đầu tư giữa NĐTNN và nhà nước Việt Nam
thông qua con đường trọng tài thương mại. Đối với mỗi biện pháp cụ
thể đối với nhà nước Việt Nam hay đối với doanh nghiệp Việt Nam
23



×