Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.51 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

NGUYỄN HOÀNG THOẠI PHƢƠNG

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

NGUYỄN HOÀNG THOẠI PHƢƠNG

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một công trình nào.
Mọi sự giúp đỡ cho luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, số liệu ghi
trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hoàng Thoại Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI .............................................................. 6
1.1. Bản chất của hợp đồng ......................................................................................... 6
1.2. Sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận ................................................................. 9
1.3. Điều kiện có hiệu lực của sự thỏa thuận ............................................................ 20
1.4. Nguyên tắc của thoả thuận ................................................................................. 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THỐNG
NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ............................ 25
2.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay ........................ 25
2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về yếu tố thỏa thuận (thống nhất ý chí) của hợp
đồng ........................................................................................................................... 28
2.3. Pháp luật điều tiết những rủi ro thường gặp trong thoả thuận ........................... 41

2.4. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong thoả thuận .................................. 48
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA SỰ
THỐNG NHẤT Ý CHÍ TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM .............................................................................................................. 51
3.1. Cần phải có quan niệm đầy đủ, chính xác, thống nhất về thoả thuận trong pháp
luật hợp đồng ............................................................................................................. 51
3.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Bộ luật Dân sự có liên quan đến thoả
thuận trong giao kết hợp đồng................................................................................... 53
3.3. Đối mới, nâng cao hiệu quả xét xử của toà án đối với tranh chấp hợp đồng ..... 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

GKHĐ

: Giao kết hợp đồng



: Hợp đồng

L/C

: Thư tín dụng


LTM

: Luật thương mại

NLHV

: Năng lực hành vi dân sự

UBTVQH

: Uỷ ban thường vụ Quốc hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử, là nền tảng
của giao dịch kinh doanh. Cùng với tự do thương mại, pháp luật hợp đồng ngày
càng được hài hòa hóa, thậm chí nhất thể hóa trên quy mô khu vực và toàn cầu. Sự
ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã góp phần giải quyết được sự tản mạn, rải rác
của những quy định pháp luật hợp đồng được điều chỉnh ở nhiều văn bản có giá trị
pháp lý khác nhau như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 1995,
Luật Thương mại 1997, và các đạo luật chuyên ngành khác; pháp luật hợp đồng
Việt Nam đã dần dần được thống nhất thành một hệ thống, các quy định cũng thể
hiện được sự tương thích với pháp luật thế giới và là một phần quan trọng của pháp
luật quốc gia.
Khi nhắc đến hợp đồng thì có một vấn đề không thể không đề cập đó là “sự
thống nhất ý chí”. Dù cổ luật hay pháp luật hiện đại, dù là Civil law hay Common
law…, tất cả đều thống nhất với quan điểm “Hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực
pháp lý bắt buộc”, nghĩa là sự thống nhất ý chí là yếu tố cơ bản và không thể thiếu
của hợp đồng, phải tồn tại một sự thỏa thuận hợp pháp thì hợp đồng mới được hình

thành. Như vậy, nghiên cứu về yếu tố thỏa thuận chính là nền tảng để hiểu đúng bản
chất của hợp đồng nói chung.
Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại ở Việt
Nam thời gian qua cho thấy hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không
theo kỹ năng pháp lý. Trong khi đó, xu hướng hội nhập đang mở ra rất nhiều cơ hội
và cả thách thức cho thương nhân Việt Nam.Những hợp đồng được ký kết với bên
đối tác nước ngoài như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế… ngày càng phổ biến
và chiếm số lượng lớn. Nếu không có một sự hiểu biết nhất định về pháp luật hợp
đồng thì liệu những thương nhân nước ta có đủ sức bảo vệ mình khi có tranh chấp
trước những đối tác nước ngoài vốn rất hiểu biết và coi trọng pháp luật? Những vấn
đề pháp lý như đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, năng lực chủ thể

1


tham gia giao kết… nếu không được nhìn nhận một cách thỏa đáng thì chúng ta sẽ
rất khó có được những bằng chứng pháp lý thuyết phục để bảo vệ quyền lợi cho
mình. Do đó, có thể nói giai đoạn giao kết hợp đồng, đặc biệt là yếu tố thỏa thuận
gần như là giai đoạn quan trọng bậc nhất trong pháp luật hợp đồng, nó sẽ là nền
tảng thiết lập nên quan hệ giữa các bên và là cơ sở cho những hậu quả pháp lý phát
sinh sau này.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự thỏa thuận như vậy, pháp luật hợp
đồng Việt Nam cũng đã phần nào thể hiện sự quan tâm đến yếu tố này với những
quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa và phát triển
những quy định của BLDS 1995 và Luật thương mại 1997, đồng thời cũng có sự
tương thích nhất định với pháp luật thế giới, đặc biệt là với hệ thống luật thành văn.
Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn mang tính nguyên tắc chung, khiến cho việc
áp dụng có thể gặp phải những bất cập không đáng có, đôi khi còn không phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Trước tình hình đó, tôi chọn “Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để

giao kết hợp đồng thương mại” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, qua đó
có được cái nhìn tổng quan về vấn đề, thấy được những điểm tiến bộ và thiếu sót
của pháp luật Việt Nam để tìm hướng khắc phục, góp phần vào quá trình thống nhất
và hoàn thiện hệ thống pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật hợp đồng là nền tảng của kinh doanh.Tìm hiểu luật hợp đồng là thiết yếu
đối với những người mong muốn tiến hành kinh doanh.Bởi thế các quy định về hợp
đồng luôn được giới luật học và cả các cá nhân, thương nhân quan tâm tìm
hiểu.Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành đối với hầu hết các khía cạnh liên quan
đến pháp luật hợp đồng. Liên quan đến đề tài mà tác giả đã chọn, có thể kể đến một
số sách, báo, bài viết ít nhiều liên quan đến đề tài như: Tạ Thị Hồng Vân- luận văn
thạc sĩ luật học, 2005 “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam”; TS.
Bùi Ngọc Cường “Thống nhất pháp luật về hợp đồng ở Việt nam”; tạp chí Luật học
số 2 năm 2001; Phạm Hoàng Giang “Vai trò của án lệ với sự phát triển của pháp

2


luật hợp đồng”; Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 91 năm 2007; Đinh Mai Phương,
“Thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS về hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 11 năm 2011; “Giáo trình luật hợp đồng” của PGS Ts Ngô Huy Cương,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội năm 2013….Tuy nhiên, trong giới hạn tìm
hiểu của mình, tôi chưa tìm thấy một công trình chuyên nghiên cứu lý luận và thực
tiễn về sự thống nhất ý chí tạo lập hợp đồng thương mại ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật hợp đồng Việt Nam về
yếu tố thỏa thuận, có đặt trong sự đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài, để
tìm kiếm, phát hiện những tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam, đưa ra
những kiến nghị, giải pháp xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về sự thỏa

thuận; chỉ ra được vai trò quan trọng của sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng
trong tổng thể chung của chế định hợp đồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, tác giả xác định phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về hợp đồng và yếu tố thỏa thuận của hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam và thế giới. Qua đó thấy được tầm quan trọng của
thỏa thuận trong chế định hợp đồng.
+ Phân tích nội dung sự thỏa thuận của hợp đồng; bao gồm quy định của pháp
luật Việt Nam (chủ yếu trong Bộ Luật Dân Sự 2015) về các thành tố tạo nên sự thỏa
thuận: đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, các điều kiện hiệu lực và vô
hiệu của thỏa thuận, các khiếm khuyết chủ yếu của một thỏa thuận trong thực tiễn.
Có sự đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài để làm rõ vấn đề.
+ Đánh giá pháp luật về yếu tố thỏa thuận của hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật
này, đảm bảo tính chặt chẽ về mặt lập pháp, tính ứng dụng cao trên thực tế, và sự

3


công bằng khi buộc phải giải quyết theo con đường tư pháp những tranh chấp xảy ra
đối với sự thỏa thuận.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chế định hợp đồng là một chế định rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề
khác nhau như giao kết, thực hiện, chấm dứt hợp đồng…, các vấn đề về chủ thể,
điều kiện hiệu lực, các nguyên tắc chung…Luận văn không có tham vọng nghiên
cứu toàn bộ hệ thống này mà chỉ đi sâu nghiên cứu yếu tố thỏa thuận hay thống nhất
ý chí - là yếu tố đầu tiên của hợp đồng, nghiên cứu các quy định cụ thể được nêu ra
trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Tập trung phân tích các thành tố tạo nên sự

thỏa thuận: đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS 2015, luật
gốc của chế định hợp đồng Việt Nam, có sự đối chiếu so sánh với các quy định của
các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Đồng thời chỉ ra các điều kiện để thỏa
thuận có hiệu lực, các khiếm khuyết của nó, từ đó đưa ra những kiến nghị xây dựng
một khung pháp luật thỏa đúng cho vấn đề. Trong luận văn tác giả cũng nghiên cứu
các quy định về hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015, mặc dù bộ luật này có hiệu
lực từ ngày 1/1/2017.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề chung của sự thống nhất ý chí giao kết
hợp đồng thương mại, không đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề của luật chuyên
ngành liên quan tới hợp đồng. Luận văn cũng không phân tích, đánh giá thực trạng,
cũng như thi hành các qui định của các văn bản pháp luật chuyên ngành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở đó, vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, làm phương pháp luận cho quá trình nghiên cứu. Tác giả sử

4


dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh luật học,
khảo cứu thực tế để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận về hợp đồng
trong khoa học pháp lý Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đặc biệt đi sâu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về các
vấn đề liên quan đến yếu tố thỏa thuận, điều này là phù hợp với mục đích và phạm
vi nghiên cứu đã đặt ra. Dựa trên những cơ sở nền tảng đã được đề cập, việc phân
tích như vậy giúp tác giả có thể đánh giá một cách khách quan tính ưu việt và sự
hạn chế của quy phạm pháp luật Việt Nam, đối chiếu vào thực tiễn để rút ra những
điểm cần phát huy và những điểm cần sửa đổi, hoàn thiện, tạo tính minh bạch và
ứng dụng cao của sự thỏa thuận.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận tổng quát về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng
thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sự thống nhất ý chí để giao kết
hợp đồng thương mại
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự thống nhất ý chí
để giao kết hợp đồng thương mại ở việt nam.

5


CHƢƠNG 1

LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI
1.1. Bản chất của hợp đồng
1.1.1. Quan niệm về hợp đồng
Hợp đồng là sự thống nhất ý chí nhằm làm phát sinh ra mối quan hệ nghĩa vụ
giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Nói tới hợp đồng là nói tới hành vi pháp lý đa
phương khác với hành vi pháp lý đơn phương là việc biểu lộ ý chí để tạo lập ra một
quan hệ pháp lý.

Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp tại điều 1101 quy định “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều chủ thể phải chuyển giao một vật, làm hay không làm một
công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác”.
Điều 1305 Bộ luật dân sự Philippin định nghĩa “Hợp đồng là sự thống nhất ý
chí giữa các bên, theo đó mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn trọng bên kia để
đưa một cái gì đó hoặc trả cho một dịch vụ nào đó”.
Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam (BLDS) 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Các định nghĩa trên tuy có cách thể hiện khác nhau phù hợp cách lập pháp của
từng quốc gia, nhưng về cơ bản đều nói lên bản chất của hợp đồng, đó là “sự thỏa
thuận có hiệu lực pháp lý”, nói cách khác “Thực chất, hợp đồng là sự thỏa thuận mà
tòa án cưỡng chế thi hành”, (Daniel Khoury,Yvonne S Yamouni, Understanding
contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart,
Melbourne, Perth, 1989, p.7).
Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng thường theo đuổi những lợi ích nhất định của
riêng mình, do đó hợp đồng chính là kết quả của sự dung hòa các lợi ích đối lập
nhau giữa các chủ thể.
Để đạt được mục đích đó, các bên buộc phải có sự thỏa thuận. Hợp đồng là sự
thống nhất ý chí để làm phát sinh một hệ quả pháp lý đặc biệt: nghĩa vụ. Một khi đã

6


làm phát sinh hậu quả thì đương nhiên nó có giá trị bắt buộc đối với các bên liên
quan, và tòa án có quyền cưỡng chế thi hành.
Tóm lại, về bản chất, hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực pháp lý bắt buộc.
Nghĩa là khi xem xét một hợp đồng cần lưu ý đến hai vấn đề:
(i) Hợp đồng là sự thỏa thuận
(ii) Sự thỏa thuận đó phải có giá trị pháp lý (thỏa mãn các điều kiện có hiệu
lực và được pháp luật thừa nhận).

1.1.2. Các thành tố của hợp đồng
1.1.2.1. Sự thỏa thuận hợp đồng
Thỏa thuận là sự gặp gỡ hay thống nhất ý chí của các bên làm phát sinh các hệ
quả pháp lý.
Đây là yếu tố đầu tiên của hợp đồng. Không thể có hợp đồng nếu không có sự
thỏa thuận giữa các bên. Thỏa thuận có thể là trực tiếp bằng những cuộc gặp mặt,
trao đổi về vấn đề cần thương lượng, hoặc cũng có thể thông qua các hình thức khác
như điện thoại, mail, fax… Bằng chứng của sự thỏa thuận là các giấy tờ như biên
bản thỏa thuận, hoặc các giao dịch, hành động cụ thể… biểu hiện sự thống nhất ý
chí của các bên.
Tuy nhiên, hợp đồng chỉ được coi là hình thành khi đã đạt được sự thỏa thuận
tại những điều khoản cơ bản. Các bên phải xác định được đâu là điểm mấu chốt của
vấn đề, từ đó có sự thỏa thuận sâu vào những điều khoản đó, không nên thỏa thuận
chung chung, thỏa thuận về những vấn đề thứ yếu, vừa không hiệu quả vừa làm mất
thời gian của các bên.
Các thỏa thuận được hình thành một cách hợp pháp thì sẽ có hiệu lực bắt buộc
đối với người xây dựng nên các thỏa thuận.
Một thỏa thuận tạo nên một bản hợp đồng đòi hỏi phải có:
- Sự thống nhất ý chí nội tại, tức là ý chí bên trong và hành vi bên ngoài của
bản thân chủ thể;
- Ý chí của các bên gặp nhau.

7


Mọi nội dung thỏa thuận không phù hợp với ý chí thực của các bên có thể và
cần phải dẫn đến việc không thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng. Tuy nhên, ý
chí là một phạm trù rất khó nắm bắt. Việc “nói vậy mà không phải vậy” là một hiện
tượng khá phổ biến trong thực tiễn. Trong hợp đồng, có thể do nhận thức, hiểu biết,
thậm chí do những mưu đồ riêng của các chủ thể, hay có thể do sự không rõ ràng

của ngôn từ mà việc thực hiện hợp đồng đôi khi gặp khó khăn. Do đó, yếu tố thỏa
thuận luôn được đặt ra và dễ gây tranh cãi nhất.
Cũng cần lưu ý: Hợp đồng là sự thỏa thuận, nhưng không phải bất cứ thỏa
thuận nào cũng là hợp đồng. Và cũng không cần sự thỏa thuận trực tiếp mới có
quan hệ hợp đồng, thỏa thuận có thể ngầm định xét theo hoàn cảnh. Bởi vậy, hoàn
cảnh, địa điểm và thời gian, các bên tham gia,… tất cả phải được xem xét gắn liền
với thỏa thuận. Điều này cũng được áp dụng khi xem xét hiệu lực của thỏa thuận.
Ví dụ một thỏa thuận được đưa ra trong hoàn cảnh cấp bách, một trong các bên bị
đe dọa về tinh thần… thì không thể được xem là một thỏa thuận hợp pháp và có
hiệu lực thi hành.
- Yếu tố nhận biết về sự thỏa thuận hợp đồng là: Đề nghị và chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng.
1.1.2.2. Mục đích của sự thỏa thuận hợp đồng
Một giao dịch khi được tiến hành phải hướng tới những đối tượng nhất định.
Điều kiện quan trọng nhất mà các bên cần phải thỏa thuận trước hết cũng là đối
tượng của hợp đồng, sau đó mới đi vào thỏa thuận các điều khoản còn lại. Tùy
thuộc vào tính chất và nội dung của từng thỏa thuận cụ thể mà chủ đích của nó là
khác nhau.
Điều 276 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 quy định:
“1. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện
hoặc không thực hiện
2. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải được xác định cụ thể

8


3. Chỉ những tài sản có thể giao dịch được, những công việc có thể thực hiện
được mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của
nghĩa vụ dân sự”.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Hồi giáo Iran cũng chỉ ra:

“Điều 214: Đối tượng của giao dịch nhất thiết phải là tài sản hoặc hành vi mà
hai bên đồng ý giao hoặc thực hiện.
Điều 215: Đối tượng của hợp đồng nhất thiết có khả năng được sở hữu và nhất
thiết bao gồm lợi ích hợp lý và chính đáng
Điều 216: Đối tượng của giao dịch không nên mơ hồ trừ trường hợp đặc biệt
khi nhận thức chung về vấn đề này là đầy đủ.”
Như vậy, chủ đích của sự thỏa thuận bao gồm tài sản hoặc hành vi. Tài sản có
thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, hành vi có thể là công việc phải làm
hoặc công việc không được thực hiện….Những tài sản hay hành vi đó phải là hợp
pháp, được xác định cụ thể, đáp ứng được một lợi ích nào đó (vật chất hoặc tinh
thần) cho chủ thể có quyền. Đây là nguyên tắc cơ bản mà bất cứ pháp luật của hệ
thống nào cũng ghi nhận.
Một thỏa thuận hướng đến chủ đích như vậy sẽ làm phát sinh hậu quả pháp
lý: xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận;
đáp ứng những nhu cầu hay lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà chủ thể mong
muốn đạt được khi tham gia thỏa thuận. Đây là mục đích của thỏa thuận và cũng
chính là cơ sở xác lập mục đích của hợp đồng. Mục đích này sẽ được biểu hiện
thông qua chính nội dung của thỏa thuận và áp đặt lên các đối tượng mà thỏa thuận
hướng tới.
1.2. Sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận hợp đồng
1.2.1. Chủ thể của thỏa thuận hợp đồng
Đã gọi là “thỏa thuận” thì đương nhiên có sự bàn bạc, trao đổi, thương lượng
với nhau. Tùy từng trường hợp cụ thể mà số lượng chủ thể là khác nhau và thông
thường là từ hai người trở lên.

9


Trường hợp đặc biệt chỉ có một bên chủ thể. Ví dụ: A giám hộ cho B, quản lý
tài sản của B, thiết lập thỏa thuận cho thuê tài sản của B mà A chính là người thuê

(trong pháp luật Việt Nam phải có sự đồng ý của người giám sát giám hộ), hay A ủy
thác cho B bán tài sản và B cũng chính là người mua…Tuy nhiên dù thực tế là một
chủ thể nhưng chủ thế này lại thể hiện với hai tính cách khác nhau, do đó, vẫn có
thể coi là hai chủ thể của sự thỏa thuận.
Chủ thể của thỏa thuận có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, các tổ chức.
- Nếu là cá nhân, phải đảm bảo có đủ năng lực hành vi tham gia thỏa thuận.
Tùy từng trường hợp mà xem xét hiệu lực pháp lý của những thỏa thuận do những
người bị hạn chế hay chưa đủ năng lực hành vi tạo lập.
Bộ luật dân sự của Pháp tại điều 1108 quy định các điều kiện để hợp đồng có
hiệu lực, trong đó các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Như
vậy, để thỏa thuận trở thành hợp đồng thì cũng đòi hỏi yêu cầu này.
Điều 211 BLDS Cộng hòa Hồi giáo Iran quy định các bên nhất thiết phải ở
một độ tuổi nhất định, đã trưởng thành và có nhận thức thích hợp.
BLDS Việt Nam cũng có những yêu cầu tương tự.
- Nếu là pháp nhân, tổ chức khác thì phải có đủ năng lực để tiến hành giao
dịch, đang hoạt động bình thường và hợp pháp tại thời điểm thỏa thuận… Các vấn
đề về ủy quyền, đại diện… phải hợp pháp và chính đáng.
Chủ thể có thể tự mình tham gia thỏa thuận, hoặc cũng có thể thông qua người
đại diện của họ, người này phải có quyền đại diện. Việc biểu lộ ý chí của người đại
diện sẽ ràng buộc người được đại diện, bởi thế họ cũng phải có ý chí đại diện và ý
chí thỏa thuận, giao kết hợp đồng. Thông thường đại diện được đặt ra khi có bên
chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc người mất năng lực hành vi.
1.2.2. Các thành tố của sự thỏa thuận hợp đồng
Để tiến hành thỏa thuận, các bên có thể trực tiếp gặp nhau và đàm phán, một
trong các bên khởi xướng đàm phán bằng chào hàng. Các bên sẽ thỏa thuận, thống
nhất từng điều khoản, khi điều khoản cuối cùng được thống nhất, các bên có thể ký

10



trực tiếp vào hợp đồng. Trong trường hợp này, khó xác định được đâu là chào hàng,
đâu là chấp nhận chào hàng.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hợp đồng - đặc biệt là
hợp đồng thương mại quốc tế - thường được ký kết giữa các bên vắng mặt, sự thống
nhất ý chí của các bên thông qua trao đổi thư từ, tài liệu, gọi là trao đổi đề nghị và
chấp nhận đề nghị.
1.2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
* Khái niệm
Điều 2.1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004
định nghĩa: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng
và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp
nhận”.
Bộ luật dân sự của Pháp thì quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là quyết
định đơn phương có chủ ý của một người bày tỏ ý định giao kết hợp đồng theo
những điều kiện xác định với một hay nhiều người khác” [23,tr.27]. Định nghĩa này
có phần hơi khác so với định nghĩa trên, nhưng về cơ bản cũng nói được bản chất
của lời đề nghị, nó còn chỉ ra đề nghị không chỉ được gửi đến một người cụ thể mà
có thể với cả nhiều người.
Tóm lại, đề nghị giao kết hợp đồng là một đề nghị bày tỏ rõ ý định muốn giao
kết hợp đồng, có nội dung xác định và được gửi tới những đối tác đã được xác định.
Bên đề nghị còn phải chịu sự ràng buộc về đề nghị đó.
* Đặc điểm của đề nghị
Đề nghị giao kết hợp đồng thực chất là một hành vi pháp lý đơn phương. Hành
vi này do bên đưa ra lời đề nghị thực hiện, hoàn toàn xuất phát từ chủ ý đơn phương
của người đó, làm phát sinh một số hệ quả pháp lý nhất định đối với bản thân người
đó mà không thể làm phát sinh nghĩa vụ đối với bên nhận được đề nghị.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức
cụ thể: văn bản, lời nói, hành vi cụ thể…

11



Đề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, không được mang tính nước đôi,
nghĩa là nội dung của nó phải thể hiện rõ ý muốn giao kết hợp đồng của bên đưa ra
đề nghị, không được có sự thay đổi, thất tín trong một thời hạn nhất định, và chỉ cần
hành vi chấp nhận đề nghị của bên kia là đủ để giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải hướng tới đối tượng cụ thể, có thể là một
người hoặc một nhóm người, thậm chí cũng có thể hướng tới công chúng nói chung;
có kèm theo hoặc không kèm theo thời hạn trả lời.
Ví dụ: Carlill v. Carbolic Smoke Ball Company [1893] 1 QB 256:
Bị đơn là người sản xuất “smoke ball” đã quảng cáo như sau trên một số tờ
báo: “Carbolic Smoke Ball Company sẽ trả 100 bảng cho bất kỳ ai mắc phải cúm,
cảm hay bất kỳ bệnh nào bị gây ra bởi nhiễm lạnh sau khi đã dùng carbolic smoke
ball phù hợp với chỉ dẫn kèm theo. 1000 bảng đã được gửi tại Alliance Bank,
Regent Street minh chứng cho sự thành thật của chúng tôi trong vấn đề này”. Tin
tưởng vào quảng cáo, bà Carlill đã mua hàng và sử dụng phù hợp với chỉ dẫn. Thế
nhưng bà vẫn mắc bệnh cúm, nên bà kiện đòi 100 bảng từ Carbolic Smoke Ball
Company.
Bị đơn lập luận hợp đồng như vậy đã lập với cả thế giới và điều đó là không thể.
Toà án Anh Quốc khẳng định: Đề nghị như vậy được xem là đề nghị với cả
thế giới và nó ràng buộc khi có ai đó tới và thực hiện điều kiện như quảng cáo.
[Sir William R. Anson, Principles of the English Law of Contract and of
Agency in its Relation to Contract, Twenty- second edition, Oxford at the
Clarendon Press, 1965, p. 41; Daniel Khoury, Yvonne S Yamouni, Understanding
contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart,
Melbourne, Perth, 1989, p. 20]
* Điều kiện của đề nghị
Thứ nhất, đề nghị phải đủ cụ thể, rõ ràng để cho phép hình thành hợp đồng khi
được chấp nhận.
Đề nghị giao kết hợp đồng là nền tảng cho hợp đồng trong tương lai, bởi thế

phải nêu rõ nội dung chủ yếu, các điều khoản cơ bản của hợp đồng. Tuy nhiên, để

12


đảm bảo tính linh hoạt của các quan hệ tư, “nhà làm luật không thể và cũng không
cần xác định một cách cứng nhắc những nội dung nhất định mà một đề nghị giao
kết hợp đồng phải bao gồm” [28,tr.161]. Việc xem xét tính cụ thể của một đề nghị
tùy thuộc vào mong muốn bị ràng buộc bởi hợp đồng của người đề nghị và người
chấp nhận; và những điều khoản có thể xác định bằng việc diễn giải ngôn ngữ của
hợp đồng, xác định theo tập quán, theo ý chí chung của các bên….Thực tế một đề
nghị thiếu cụ thể có thể được khắc phục bằng nhiều cách như dẫn chiếu đến các
quan hệ hợp đồng đã có giữa các bên, các điều khoản mẫu đã được thừa nhận, tình
hình thị trường vào thời điểm ký kết….
Tuy nhiên, những phân tích trên không làm mất đi đặc điểm về tính xác định
của đề nghị. Lời đề nghị đưa ra vẫn phải cụ thể, rõ ràng, có đủ cơ sở để ràng buộc
trách nhiệm đối với bên đề nghị. Nếu thiếu đi đặc điểm này thì đề nghị có thể trở
nên vô hiệu, thậm chí không được xem là tồn tại, đặc biệt đối với đề nghị chung (đề
nghị gửi tới công chúng rộng rãi).
Ví dụ:
Sự việc

Phán quyết của Tòa án

Trong vụ kiện Công ty đại lý bán buôn A thắng kiện. Giữa A và B không có
Farris Wholesale, Inc.(bên A) và cửa quan hệ hợp đồng. Hai bên chỉ thỏa
hàng bán ga Harvey(bên B), CA 9 thuận rằng A sẽ cung cấp ga cho B khi
Idaho,589 F 2d 1979; A thỏa thuận sẽ nào B cảm thấy có nhu cầu và giá cả
cung cấp ga cho B khi nào B có nhu cầu hợp lý. Một thỏa thuận như vậy không
và cảm thấy giá cả phù hợp. Sau một quy định một nghĩa vụ xác định và cụ

thời gian khi B muốn mua thì A từ chối thể của B, vì B có thể thực hiện khi thấy
với lý do tại nơi B kinh doanh đã có quá có lợi cho mình. Do thiếu tính xác định
nhiều cửa hàng đại lý bán ga cho A.

như vậy, cho nên giữa 2 bên không tồn
tại quan hệ hợp đồng.
[28, tr.162]

Thứ hai, thể hiện được ý chí của bên đề nghị mong muốn được ràng buộc nếu
bên kia chấp nhận đề nghị đó.

13


Nghĩa là bên đề nghị phải biểu lộ ý định muốn giao kết hợp đồng trong lời đề
nghị được đưa ra. Tuy nhiên, ý chí thì khó mà tuyên bố được một cách rõ ràng, do
đó cần xem xét đến các yếu tố khác để đánh giá mong muốn này của bên đề nghị
như hoàn cảnh, cách thức trình bày đề nghị, đối tượng được đề nghị…. Thông
thường một đề nghị được gửi tới 1 hoặc 1 vài người cụ thể thì được chú ý hơn là
một đề nghị gửi tới cộng đồng nói chung; và đề nghị càng chi tiết, càng cụ thể thì ý
chí muốn giao kết của bên đề nghị cũng được chú ý hơn.
Nếu thiếu ý chí muốn xác lập các nghĩa vụ pháp luật của bên đưa ra lời đề
nghị thì không được coi là đề nghị giao kết hợp đồng và không dẫn đến trách nhiệm
của người đưa ra nó.
Thứ ba, phải gửi tới những người mà lời đề nghị nhắm tới.
Bên đề nghị đã sẵn sàng cho việc ký kết một bản hợp đồng tương lai, và chủ
thể ký kết cũng đã được họ xác định. Do đó đề nghị phải có một đích đến cụ thể và
được gửi đi trong thời gian hợp lý.
Cũng cần phân biệt giữa đề nghị và “lời mời đàm phán”: Một lời mời đàm
phán cũng là một đề nghị, tuy nhiên nó lại khác căn bản so với đề nghị giao kết hợp

đồng. Việc phân biệt hai khái niệm này sẽ làm rõ hơn các điều kiện của đề nghị giao
kết hợp đồng, và cũng phần nào giải thích được tại sao cần có những điều kiện đó
thì một lời đề nghị mới được coi là đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị GKHĐ

Lời mời đàm phán

- Thể hiện rõ ý định giao kết - Chỉ gồm những thông tin chung, chưa
hợp đồng với 1 bên đã được xác định

cụ thể

- Thể hiện việc chịu sự ràng buộc về đề

- Chưa thể hiện rõ

nghị đối với bên đã được xác định
- Chịu sự ràng buộc về trách nhiệm - Không có sự ràng buộc pháp lý, ngoại
pháp lý

trừ nghĩa vụ thiện chí,trung thực

- Nếu được chấp nhận thì hợp đồng sẽ - Nếu được chấp nhận thì không đủ để
được giao kết

giao kết hợp đồng mà chỉ đưa tới kết quả
các bên đồng ý đàm phán về hợp đồng

14



Để một tuyên bố tạo thành một lời đề nghị giao kết hợp đồng, nó nhất thiết
phải làm rõ rằng người lập ra nó có ý chí bị ràng buộc pháp lý bởi sự chấp thuận của
người khác. Nếu không có ý chí như vậy có thể được biểu lộ, thì tuyên bố được lập,
dù nó có thể là bất cứ thứ gì khác, không tạo thành một lời đề nghị giao kết hợp
đồng. Giấy báo giá, catalogue, đấu giá… đều là lời mời đàm phán.
Thực tế việc phân chia ranh giới giữa đề nghị giao kết hợp đồng và lời mời
đàm phán thường rất mập mờ, phải dựa vào tình tiết của từng vụ việc cụ thể.
Ví dụ: Khi một công ty kêu gọi mọi người mua cổ phần của công ty thì chỉ là
lời mời thương thảo, người muốn mua mới là người đưa ra đề nghị, công ty có
quyền đồng ý bán hoặc không. Nhưng khi công ty chào bán cổ phần mới thì cổ
đông phổ thông có quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán với một tỷ lệ
nhất định, lúc này thư của công ty thông báo cho các cổ đông quyền ưu tiên mua cổ
phần của họ được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, chỉ cần cổ đông chấp nhận mua
thì hợp đồng được xác lập mà công ty không có quyền từ chối.
* Hiệu lực của đề nghị
Đề nghị được đưa ra sẽ có ý nghĩa bắt buộc đối với bên đề nghị. Tuy nhiên
trách nhiệm này không phải là vô hạn mà tùy thuộc vào hiệu lực của lời đề nghị. Đề
nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn các điều kiện kể trên thì sẽ có hiệu lực vào
thời điểm được gửi tới cho người được đề nghị.
- Đề nghị có thời hạn và đề nghị không có thời hạn
Với đề nghị có kèm thời hạn trả lời thì đó là thời hạn có hiệu lực của đề nghị,
trong khoảng thời gian này, người nhận có quyền chấp nhận và hợp đồng sẽ được
giao kết. Đây cũng là thời gian ràng buộc trách nhiệm của bên đưa ra lời đề nghị,
bên đề nghị không được giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong khi chờ bên được
đề nghị trả lời.
Trường hợp đề nghị không kèm thời hạn trả lời thì cũng phải xác định một
khoảng thời gian hợp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Khoảng
thời gian này tùy từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào đối tượng của hợp đồng,


15


phương thức liên lạc, tập quán, thói quen kinh doanh giữa các bên… mà có cách
xác định riêng cho phù hợp.
- Rút lại, thay đổi, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
Pháp luật hợp đồng theo hệ thống Common law cho phép hủy bỏ hay rút lại đề
nghị giao kết hợp đồng tại bất cứ thời điểm nào trước khi thỏa thuận. Để việc rút lại
này có hiệu lực thì bên đề nghị phải thông báo cho người nhận đề nghị trong thời
gian hợp lý.
Quy định này tương đối khác so với các nước theo truyền thống dân luật, trong
đó có Việt Nam. Đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được rút lại trong một số trường
hợp luật định như: phải quy định rõ điều kiện này trong đề nghị, hay khi bên được
đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng
với thời điểm nhận được đề nghị.
Tùy theo cách tiếp cận của từng hệ thống mà có cách nhìn nhận khác nhau
Cần phân biệt “rút lại” và “hủy bỏ”: Có thể rút lại một đề nghị trước khi đề
nghị này có hiệu lực trong khi việc xem xét một đề nghị giao kết hợp đồng có thể
hủy bỏ hay không lại chỉ đặt ra sau thời điểm này” [1,tr.84].
- Việc một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy ngang hay không cũng là một
trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong hình thành hợp đồng, đòi hỏi một giải
pháp để điều hòa hai cách tiếp cận trên. Bộ nguyên tắc UNIDROIT đã có 1 cách
giải quyết tương đối hợp lý tại điều 2.1.4:
“1. Cho đến khi hợp đồng đươc giao kết, đề nghị giao kết vẫn có thể bị hủy
bỏ, nếu hủy bỏ này đến bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp nhận giao kết
hợp đồng.
2. Tuy nhiên, đề nghị giao kết hợp đồng không thể hủy bỏ:
a, Nếu đề nghị này quy định không thể bị hủy ngang với việc quy định một
thời hạn xác định cho việc chấp nhận hoặc cách khác; hoặc:
b, Nếu bên được đề nghị có cơ sở hợp lý để tin rằng đề nghị không thể hủy

ngàng, vì vậy, bên được đề nghị đã hành động”.

16


Với cách tiếp cận này thì về nguyên tắc, đề nghị giao kết hợp đồng có thể bị
hủy ngang, và hai trường hợp không thể hủy ngang tại khoản 2 là ngoại lệ quan
trọng của nó. Có thể chỉ ra ví dụ làm rõ điểm b như sau:
“ A- nhà buôn bán đồ cổ yêu cầu B phục chế lại 10 bức tranh với điều kiện là
công việc phải được hoàn tất trong vòng 3 tháng và giá cả không được vượt quá một
số tiền nhất định. B thông báo cho A rằng, để biết có nên chấp nhận lời đề nghị này
hay không, B cho rằng cần phải bắt đầu phục chế một bức tranh và sẽ trả lời cuối
cùng trong vòng 5 ngày. A đồng ý, B căn cứ vào đề nghị của A và bắt đầu công việc
ngay lập tức. A không thể rút lại lời đề nghị đó trong vòng 5 ngày này” [1,tr.88].
Pháp luật Hoa Kỳ cũng chỉ ra một số ngoại lệ:
* Người đề nghị không được rút lại đề nghị nếu đã hứa trước một thời hạn để
đề nghị này có hiệu lực và đã nhận được của người nhận một nghĩa vụ đối ứng
(consideration) như là một sự trả giá cho việc giữ lời hứa trên.
* Chào hàng bằng văn bản đã được ký bởi thương nhân hứa không hủy ngang
thì không được rút lại trong thời hạn đã cam kết hoặc trong một thời hạn hợp lý
không quá 3 tháng nếu không cam kết chi tiết trong chào hàng
* Nếu người đề nghị đã biết trước rằng người nhận sẽ phải dựa vào đề nghị
của mình thì không được rút lại đề nghị [28, tr164-165].
 Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị được gửi đi có thể được chấp nhận hoặc từ chối. Nếu bên được đề
nghị từ chối thì đề nghị đó không còn hiệu lực khi từ chối đến được bên đề nghị.
Việc từ chối được thể hiện rõ ràng hoặc ngầm hiểu (kèm theo bổ sung, sửa đổi đề
nghị). Việc từ chối sẽ làm chấm dứt mọi đề nghị, không kể đó là đề nghị hủy ngang
hay không hủy ngang.
Hết thời hạn chấp nhận, bên được đề nghị không trả lời hay không ưng thuận

thì đề nghị cũng hết hiệu lực.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị cũng sẽ hết hiệu lực khi:
+ Người được đề nghị đưa ra đề nghị mới
+ Một trong hai bên mất năng lực hành vi

17


+ Nội dung của đề nghị vi phạm pháp luật.
1.2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
* Khái niệm
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi thể hiện ý chí của bên được đề
nghị đồng ý ký kết hợp đồng theo toàn bộ nội dung và điều kiện của đề nghị đưa ra.
Chấp nhận này chỉ có hiệu lực khi nó phù hợp với đề nghị giao kết một cách “tuyệt
đối và vô điều kiện” hoặc trong một số trường hợp thì ít ra là đối với các nội dung
chính của đề nghị nếu xét thấy ý chí chung của các bên là muốn ràng buộc bởi hợp
đồng và các gợi ý bổ sung không ảnh hưởng đến nội dung chính của hợp đồng. Chấp
nhận này phải chuyển đến cho người được đề nghị thì hợp đồng mới được xác lập.
* Đặc điểm
Chấp nhận đề nghị là sự biểu lộ ý chí của bên được đề nghị nhằm thiết lập hợp
đồng với các điều kiện mà bên đề nghị đưa ra.
Chấp nhận có thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói, hành vi. Sự im lặng
không được xem là chấp nhận, tuy nhiên, nếu giữa 2 bên đã hình thành thói quen
kinh doanh, tập quán thương mại, hoặc đã thỏa thuận “im lặng là đồng ý” thì về cơ
bản có thể xem đó là trả lời chấp nhận đề nghị.
Việc chấp nhận đề nghị phải là tuyệt đối và vô điều kiện. Nếu chấp nhận mà
có kèm theo điều kiện thì sẽ xuất hiện lời đề nghị mới, đồng nghĩa với việc từ chối
giao kết hợp đồng với nội dung của lời đề nghị cũ.
Nếu bên đề nghị ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận phải trong
thời hạn này mới có hiệu lực. Nếu có trả lời chấp nhận sau khi hết thời hạn này thì

chấp nhận được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời
Bên nhận được đề nghị tự do quyết định chấp nhận hay không chấp nhận, tuy
nhiên cũng có ngoại lệ buộc bên được đề nghị phải chấp nhận như một nghĩa vụ. Về
vấn đề này, pháp luật Hoa Kỳ chỉ ra một số trường hợp như: Cung cấp dịch vụ công
đối với nhà ở và các tiện ích công cộng khác; Giao kết hợp đồng không phân biệt
đối xử, không được lấy lý do sắc tộc, tôn giáo, màu da hay quốc tịch mà từ chối hợp

18


đồng; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: phải bán hoặc cung cấp các hàng hóa, dịch
vụ đã quảng cáo.
* Điều kiện:
- Chấp nhận đề nghị phải thể hiện rõ ý chí của người nhận muốn xác lập quan
hệ hợp đồng.
Một đề nghị phải thể hiện rõ ý chí của bên đề nghị mong muốn được giao kết
hợp đồng thì khi chấp nhận, bên được đề nghị cũng phải thể hiện rõ ý chí đó
- Chấp nhận phải là tuyệt đối và vô điều kiện các nội dung của đề nghị. Nếu có
sửa đổi, bổ sung thì được xem là đưa ra đề nghị mới, lúc này bên đề nghị có thể
chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị mới này.
Ví dụ: [28, tr.169]
Sự việc

Phán quyết của tòa án

Trong vụ kiện giữa công ty xây dựng A thắng kiện. Hồ sơ dự thầu của A là
nhà Building Systems housing Co (bên một chào hàng. B chấp nhận với 2 điều
A) và Wayne State University (bên B); kiện bổ sung là sự phê chuẩn dự án của
62 Mich App 77 233 NW 2d 195 cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
(1975), bên B đã thông báo mời thầu việc phát hành trái phiếu công trình.

xây dựng một tòa nhà. A đã gửi hồ sơ Các điều kiện bổ sung này có hiệu lực
dự thầu, sau đó một thời gian bên B gửi như là từ chối chào hàng của A và
chấp nhận thầu nếu dự án được cơ quan thông báo của B là một chào hàng mới.
nhà nước thông qua và phụ thuộc vào Do không được A chấp nhận nên giữa 2
thực tế phát hành trái phiếu tài chính. Vì bên chưa có quan hệ hợp đồng.
điều kiện như vậy, A rút lại hồ sơ dự
thầu. B khởi kiện, cho rằng A đã vi
phạm hợp đồng.
Tuy nhiên trên thực tế tùy từng trường hợp cụ thể mà có những sửa đổi chỉ
mang tính gợi ý để hợp đồng được thực hiện dễ dàng hơn, đảm bảo quyền lợi cho cả
hai bên, không làm thay đổi cơ bản các nội dung chính của đề nghị thì chấp nhận đó

19


vẫn có hiệu lực và hợp đồng vẫn được giao kết với những sửa đổi đó, trừ khi bên đề
nghị từ chối ngay lập tức.
Ví dụ: A đặt mua một thiết bị của B. Thiết bị này phải được chạy thử tại cơ sở
của A. Trong giấy báo nhận, B thông báo chấp nhận các điều khoản của đề nghị,
nhưng quy định thêm rằng mình muốn có mặt tại buổi chạy thử máy. Điều kiện bổ
sung này không phải là một thay đổi cơ bản đề nghị giao kết hợp đồng, vì thế nó trở
thành một phần không tách rời của hợp đồng, trừ khi A phản đối điều này không
chậm trễ” [1,tr.103].
* Hiệu lực
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của việc chấp
nhận đến được với bên đề nghị. Dấu hiệu này có thể rõ ràng hoặc ngầm hiểu, thông
qua các hình thức khác nhau. Hơn nữa, việc chấp nhận phải là chấp nhận hoàn toàn,
vô điều kiện, không phụ thuộc vào các biện pháp khác mà bên đề nghị hoặc bên
được đề nghị phải thực hiện.
Việc chấp nhận phải nằm trong thời hạn quy định, nếu không quy định thì

trong thời hạn hợp lý. Một chấp nhận chậm trễ chỉ có hiệu lực nếu ngay sau đó bên
đề nghị thông báo hoặc gửi thông báo cho bên được đề nghị về việc này.
Cũng giống đề nghị, chấp nhận đề nghị trong những trường hợp nhất định
cũng có thể được rút lại. Khi đó chấp nhận đề nghị sẽ hết hiệu lực. Điều 2.1.10 Bộ
nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế đã quy định cụ thể vấn đề
này, theo đó: Một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể bị rút lại nếu việc rút
lại đến bên đề nghị chậm nhất vào thời điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
có hiệu lực.
1.3. Điều kiện có hiệu lực của sự thỏa thuận
1.3.1. Các điều kiện cụ thể của sự thoả thuận
Để hợp đồng có hiệu lực, trước hết thỏa thuận phải tồn tại, nghĩa là giữa các
bên đã thực tế có thỏa thuận hợp pháp, không phải là “thỏa thuận khống”.

20


×