Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.3 KB, 34 trang )

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Tổng quan về vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản: Sức lao động, đối tượng lao động và tư
liệu lao động. Để có được các yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn
nhất định phù hợp với qui mô và điều kiện kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá từ
hình thái ban đầu là tiền chuyển sang hình thái hiện vật và cuối cùng lại trở về hình
thái ban đầu là tiền. Sự vận động của vốn kinh doanh như vậy được gọi là sự tuần
hoàn của vốn. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên
tục, không ngừng. Do đó, sự tuần hoàn của vốn kinh doanh cũng diễn ra liên tục, lặp
đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn kinh doanh. Sự chu
chuyển của vốn kinh doanh chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
của ngành kinh doanh.
Từ những phân tích trên có thể rút ra: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Vốn kinh doanh không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của doanh
nghiệp mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá trình
hoạt động và phát triển của doanh nghiệp [16].
Theo Mác: vốn là giá trị đem lại lợi nhuận [15]. Biểu hiện cụ thể của vốn trong
các doanh nghiệp là tài sản mà doanh nghiệp sở hữu hoặc kiểm soát.
Ở nước ta hiện nay, khái niệm về vốn cũng được hiểu khác nhau. Một số cho
rằng vốn là số tiền đầu tư ứng trước vào tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp. Một số khác có quan điểm cho rằng vốn gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu
và nợ phải trả. Quan điểm này có sự đồng nhất giữa vốn và nguồn vốn, họ cho rằng
vốn và nguồn vốn chỉ là những cách gọi khác nhau để chỉ ra nguồn vốn của tài sản
trong doanh nghiệp. Theo tác giả, vốn và nguồn vốn là hai mặt của cùng một lượng tài
sản do doanh nghiệp quản lý, sử dụng; trong đó vốn là biểu hiện bằng tiền (giá trị) của


các tài sản của doanh nghiệp, còn nguồn vốn chỉ ra nguồn gốc hình thành các tài sản
này. Khi nói đến vốn tức là muốn nói đến giá trị những tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ, sử dụng để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Vốn trong doanh nghiệp có các đặc trưng sau:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn
phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như: nhà
xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị trí địa lý kinh doanh, nhãn
hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế,…
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao hơn
một đồng vốn trong tương lai, bởi vì có thể đầu tư tiền của ngày hôm nay để thu được
những khoản thu nhập trong tương lai. Tỷ lệ lãi suất là sự đo lường thời giá của tiền
tệ, nó phản ảnh chi phí cơ hội mà người sử dụng vốn phải bỏ ra để thu lợi nhuận. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chính xác hiệu quả của đầu tư.
- Vốn luôn vận động vì mục tiêu sinh lời. Nếu coi hình thái khởi đầu của vốn là
tiền thì sau một quá trình vận động vốn có thể biến đổi qua các hình thái vật chất khác
nhau, nhưng kết thúc chu kỳ vận động vốn lại trở lại trạng thái ban đầu là tiền. Theo
quy luật, để doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì lượng tiền này phải lớn hơn lượng
tiền mà doanh nghiệp bỏ ra ban đầu, có nghĩa là doanh nghiệp phải có lợi nhuận.
- Vốn luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có vốn vô chủ, vì nó
sẽ dẫn đến chi tiêu lãng phí và kém hiệu quả.
- Vốn được xem là một hàng hóa đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường,
hàng hoá vốn được bán sẽ không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng,
người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho người sở
hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Như vậy, lãi suất là giá phải trả cho việc được
quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định. Việc mua bán diễn ra trên thị trường
tài chính, giá mua bán vốn cũng tuân theo quan hệ cung - cầu trên thị trường.
Các đặc trưng của vốn cho thấy, vốn là nguồn lực có hạn cần phải sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch
định chính sách quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

1.1.2.1. Phân loại vốn theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn cố định,
vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính.
- Vốn cố định là lượng tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định
và các khoản đầu tư dài hạn dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài
sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương
tiện vận tải, các công trình kiến trúc... đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn là về thời
gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; về giá trị: ở nước ta qui định hiện
hành, tài sản cố định phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
- Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản ngắn
hạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là những
tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh như: nguyên vật liệu,
công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, các khoản phải thu...
- Vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp là một bộ phận vốn kinh doanh của
doanh nghiệp được đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời.
Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: doanh nghiệp bỏ vốn
mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hoặc góp vốn liên doanh với các
doanh nghiệp khác,... Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi
nhuận và hạn chế rủi ro về vốn nhờ đa dạng hoá đầu tư.
Phân loại vốn theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp
trong việc lựa chọn loại nguồn vốn thích hợp với từng loại tài sản cần tài trợ, trong
việc đề ra các biện pháp quản lý vốn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và bảo toàn số vốn đã bỏ ra.
1.1.2.2. Phân loại vốn theo quan hệ sở hữu
Theo quan hệ sở hữu, vốn của doanh nghiệp được phân thành vốn chủ sở hữu
và vốn nợ phải trả.
- Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, bao
gồm các bộ phận chủ yếu: vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; vốn tăng thêm
bằng phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp mà tính

chất và hình thức tạo vốn của từng doanh nghiệp là khác nhau. Đối với doanh
nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Vốn góp
ban đầu của công ty cổ phần là vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn là do các thành viên của công ty đóng góp. Đối với doanh nghiệp tư
nhân là chủ doanh nghiệp bỏ vốn... Vốn chủ sở hữu được xác định như sau:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản doanh nghiệp - Nợ phải trả
- Nợ phải trả: là số vốn mà doanh nghiệp đi vay, chiếm dụng của tổ chức, cá
nhân khác và do vậy doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán. Doanh nghiệp
có thể vay ngân hàng, sử dụng tín dụng thương mại... Theo thời gian thanh toán, nợ
được chia thành nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn. Thông thường, nợ ngắn
hạn là khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán trong thời hạn 1 năm,
nợ trung hạn từ 1 đến 3 năm và nợ dài hạn từ 3 năm trở lên.
Cách phân loại vốn theo quan hệ sở hữu vốn có ý nghĩa quan trọng đối với
doanh nghiệp trong việc thiết lập cơ cấu nguồn vốn hợp lý, vì doanh nghiệp sử dụng
vốn chủ sở hữu hay nợ để tài trợ cho hoạt động của mình đều phải chịu chi phí sử
dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử
dụng vốn có thể xem như tỷ suất sinh lợi mà doanh nghiệp phải tạo ra từ những dự
án đầu tư để đảm bảo duy trì giá cổ phiếu trên thị trường hoặc có thể hiểu như mức
tỷ suất sinh lời tối thiểu mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu nhằm đảm
bảo sự cung ứng vốn của họ đối với doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu
nguồn vốn tối ưu, cho phép doanh nghiệp tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn và tối đa
hoá giá trị của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Phân loại vốn theo nguồn huy động
Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn, vốn của doanh nghiệp có thể
chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là nguồn vốn có thể huy động được từ
hoạt động của bản thân doanh nghiệp. Đó là tiền khấu hao tài sản cố định, lợi
nhuận chưa phân phối, các khoản dự phòng... Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp
có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp cho doanh nghiệp tự chủ trong việc sử dụng vốn
này, đồng thời tiết kiệm chi phí sử dụng vốn.

- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp là nguồn vốn có thể huy động được từ
bên ngoài doanh nghiệp để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ phải trả.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn bên ngoài rất đa dạng và các hình thức
huy động cũng rất phong phú. Mỗi hình thức huy động vốn từ bên ngoài đều có một
số thuận lợi và khó khăn nhất định, tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu vốn linh hoạt,
kịp thời đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông
thường doanh nghiệp có mức doanh lợi cao thì sử dụng nguồn vốn bên ngoài sẽ đem
lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ bên ngoài thì thường phải có tài sản
thế chấp và doanh nghiệp phải trả lãi tiền vay. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn kém
hiệu quả thì lãi tiền vay sẽ trở thành gánh nặng mà doanh nghiệp phải chịu.
Với cách phân loại này, cho phép doanh nghiệp lựa chọn các phương án huy
động vốn sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình trong phạm vi khuôn
khổ pháp luật cho phép [16].
1.1.3. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Vốn có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp, là yếu tố không thể thiếu
của mọi quá trình kinh doanh. Vai trò quan trọng của vốn đã được Mác khẳng định:
Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu, vì tư bản tạo ra giá trị thặng dư.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động kinh
doanh thì phải có vốn. Vốn là điều kiện để thực hiện các hoạt động tạo nguồn, vì
thế các chiến lược hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ trở thành hiện thực nếu
được đảm bảo bằng vốn.
Như vậy, có thể nói vốn có vai trò quyết định quy mô của doanh nghiệp,
quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Vốn càng lớn thì quy mô doanh
nghiệp càng lớn, nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp, tạo điều kiện hiện
đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ của người lao động, nâng cao năng lực sản
xuất của doanh nghiệp.
Vốn có vai trò nâng cao vị thế, uy tín của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận
lợi trong quá trình hợp tác phát triển của doanh nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp
càng lớn sẽ tạo điều kiện để thực hiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước, tạo

lợi thế trong cạnh tranh, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia tốt các chính sách xã hội,
các đóng góp với chính phủ, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, công
tác quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt
động quản lý của doanh nghiệp [16].
1.1.4. Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp
Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp đòi hỏi phải xác định được
nhu cầu vốn cần huy động trong từng thời kỳ nhất định, từ đó phân tích lựa chọn
các hình thức huy động vốn phù hợp.
1.1.4.1. Xây dựng cơ cấu nguồn vốn
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều nguồn vốn
khác nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều
quan trọng là doanh nghiệp cần phối hợp sử dụng các nguồn vốn để tạo ra một cơ
cấu nguồn vốn hợp lý đưa lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp.
Cơ cấu nguồn vốn là thể hiện tỷ trọng của các nguồn vốn trong tổng giá trị
nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động, sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Quyết định về cơ cấu nguồn vốn là vấn đề tài chính hết sức quan trọng của
doanh nghiệp bởi lẽ: Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp là một trong những yếu
tố quyết định đến chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp; Cơ cấu nguồn
vốn ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hay thu nhập trên một cổ
phần và rủi ro tài chính của một doanh nghiệp hay công ty cổ phần.
Các nhân tố chính cần phải xem xét khi xác định cơ cấu nguồn vốn là:
- Rủi ro kinh doanh: rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của
doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ.
Rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: chi phí cố định
của doanh nghiệp, khả năng thay đổi của cầu, khả năng biến thiên của giá bán, khả
năng biến thiên của giá đầu vào, khả năng điều chỉnh giá đầu ra khi giá đầu vào
thay đổi.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: sẽ làm tiết kiệm chi phí sử dụng nợ vay.
+ Giả sử gọi R

d
:

là chi phí sử dụng vốn vay sau thuế.
+ R
dt
: là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế (lãi suất nợ vay).
+ t: là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
R
d
= R
dt
(1- t)
Nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp càng cao thì càng hạ thấp chi phí
thực tế của nợ (R
d
càng thấp). Khi sử dụng nợ, doanh nghiệp tiết kiệm được một
khoản bằng lãi suất vay nợ nhân với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (R
d
* t).
Vì vậy, thuế suất càng cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết
kiệm nhờ thuế tăng lên [16].
- Khả năng linh hoạt tài chính: là khả năng điều chỉnh nguồn vốn tăng hay
giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn. Doanh nghiệp cần
duy trì được tính linh hoạt tài chính nhằm đảm bảo vẫn có thể huy động được vốn
một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu, bởi vì quyết định huy động vốn
ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn phương thức huy động vốn
trong tương lai.
- Quan điểm của các nhà quản lý: việc xác định cơ cấu nguồn vốn mục tiêu
của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý. Thực tế, có

một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn; trong khi đó, một số nhà quản
lý khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
1.1.4.2. Lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn
Để lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn phù hợp, trước hết cần
phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp
trong kỳ kế hoạch. Nghĩa là trong mỗi kỳ kế hoạch phải xác định rõ doanh nghiệp
cần bao nhiêu vốn cho những việc gì. Việc xác định nhu cầu vốn phải dựa trên các
cơ sở tính toán chính xác, có căn cứ khoa học. Đặc biệt, doanh nghiệp phải tập
trung nhu cầu vốn khi tìm được cơ hội kinh doanh mới cần đầu tư.
Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu vốn trong thời kỳ dài hạn và từng thời
kỳ ngắn hạn. Đồng thời phải xác định được nhu cầu từng loại vốn cố định, vốn lưu
động là bao nhiêu. Cụ thể hơn là xác định nhu cầu vốn cho mỗi hình thức, dự án
đầu tư là bao nhiêu.v.v..
Khi đã xác định lượng tiền cần huy động, công việc tiếp đến là lựa chọn các
hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một cách liên tục với chi
phí sử dụng vốn thấp nhất, rủi ro thấp nhất. Việc lựa chọn hình thức huy động vốn
trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt
các nhân tố như: trạng thái của nền kinh tế; triển vọng của thị trường vốn; ngành
nghề kinh doanh hay lĩnh vực huy động của doanh nghiệp; quy mô, loại hình của
doanh nghiệp; chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp; uy tín
của doanh nghiệp và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người
quản lý.v.v..
Phân tích và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp trong từng kỳ kế
hoạch, cần phải xem xét các vấn đề sau: cơ cấu tài chính mà doanh nghiệp đã chọn;
chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn huy động cụ thể; tình hình thị trường tài
chính và các điều kiện để doanh nghiệp có thể huy động được vốn theo từng hình
thức huy động; khả năng đáp ứng của mỗi nguồn vốn huy động cụ thể.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm cụ thể mà có thể có các
hình thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các hình

thức huy động vốn của doanh nghiệp cần được đa dạng hóa nhằm khai thác tốt
nhất các nguồn vốn trong nền kinh tế. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các hình thức
huy động vốn chủ yếu sau đây:
1.1.4.2.1. Hình thức tự tài trợ vốn
Hình thức tự tài trợ là hình thức doanh nghiệp tự đáp ứng nhu cầu vốn của
mình bằng nguồn vốn do doanh nghiệp tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh,
bao gồm quỹ khấu hao tài sản cố định và lợi nhuận giữ lại.
Quỹ khấu hao của doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở trích khấu hao tài
sản cố định sử dụng trong quá trình kinh doanh, dùng để tái đầu tư thay thế, đổi mới
tài sản cố định. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định, doanh
nghiệp có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của
mình.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại là một hình thức tạo vốn quan trọng và hấp
dẫn của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ
lợi nhuận giữ lại. Thực chất tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại là hình thức tăng vốn
đầu tư các chủ sở hữu doanh nghiệp. Hình thức này hấp dẫn và được coi trọng vì
nó giảm được chi phí sử dụng vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài và tăng
tiềm lực tài chính cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể tự tài trợ
bằng lợi nhuận giữ lại khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
1.1.4.2.2. Hình thức phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu để huy động vốn là một hình thức huy động vốn chỉ có
đối với các công ty cổ phần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán sử dụng.
1.1.4.2.3. Hình thức phát hành trái phiếu
Trái phiếu công ty còn gọi là chứng khoán nợ, là một loại giấy chứng nhận nợ có
kỳ hạn do công ty phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của công ty phát hành
đối với người sở hữu trái phiếu. Phát hành trái phiếu là một hình thức huy động vốn
quan trọng đối với doanh nghiệp trong thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên,
chỉ có những doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định của pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán mới được phép phát hành.

1.1.4.2.4. Vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Vay vốn từ ngân hàng là hình thức huy động vốn rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Đây cũng chính là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh
nghiệp nước ta trong thời gian qua. Theo thời hạn vay, vốn vay ngân hàng bao
gồm: vay ngắn hạn hạn (dưới 1 năm), vay trung hạn (từ 1 đến 3 năm) và vay dài hạn
(từ 3 năm trở lên).
1.1.4.2.5. Các hình thức tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được biểu
hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hoá
được xem là hình thức tín dụng, bởi vì người bán chuyển giao cho người mua sử
dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thoả
thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần
lãi.
1.1.4.2.6. Huy động vốn bằng liên doanh, liên kết
Theo hình thức này, doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số
doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một một số hoạt động hay dự án liên doanh
nào đó. Các bên liên doanh ký kết hợp đồng liên doanh thoả thuận về các vấn đề
như phương thức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, thời hạn hợp đồng.
Có ba hình thức liên doanh chủ yếu:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức hoạt động kinh doanh được
đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh;
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức liên doanh tài sản được đồng
kiểm soát bởi các bên góp vốn liên doanh;
- Hợp đồng liên doanh dưới hình thức thành lập cơ sở kinh doanh mới được
đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh.
1.1.4.2.7. Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Do môi trường kinh doanh biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên
trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại thiếu tài
sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán các tài
sản cố định dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên cơ sở thường xuyên kiểm

tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động, ứng dụng mô hình dự
trữ tối ưu nhằm giảm lượng tài sản lưu động lưu kho không cần thiết. Phương thức
này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh, nhưng lại có tác dụng rất
lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những
nơi không cần thiết.
1.1.4.3. Điều hoà vốn
Điều hoà vốn là việc lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tạm thời, sử dụng kém
hiệu quả sang nơi thiếu vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả cao trong
phạm vi nội bộ doanh nghiệp, nhằm đảm bảo vốn được phân bố hợp lý, mang lại
hiệu quả cao.
Đây là một vấn đề quan trọng trong quản lý vốn nói chung, đặc biệt ở những
doanh nghiệp lớn có nhiều đơn vị kinh doanh. Bởi vì trong một doanh nghiệp vẫn
có thể xảy ra hiện tượng ở đơn vị, bộ phận này thừa vốn tạm thời; trong khi ở đơn
vị, bộ phận khác lại thiếu vốn tạm thời. Hoặc vốn bị phân bổ, đầu tư vào chỗ có
hiệu quả thấp, trong khi doanh nghiệp lại cần vốn cho những dự án có tiềm năng
mang lại tỷ suất sinh lời cao hơn...
Việc điều chuyển vốn trong doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về khả
năng tập trung vốn cho các cơ hội đầu tư tốt hơn, đồng thời đảm bảo khai thác tốt
tiềm lực tài chính trong doanh nghiệp, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Có vốn mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đạt mục đích kinh doanh.
Vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy
động.
Hiệu quả sử dụng vốn là sự gia tăng lợi nhuận trên một đồng vốn được sử
dụng vào sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn có hiệu quả trước hết là điều kiện để
doanh nghiệp bảo đảm đạt được lợi ích của các nhà đầu tư, người lao động, của
nhà nước về mặt thu nhập và đảm bảo sự tồn tại phát triển của bản thân. Mặt khác
đó cũng chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể huy động vốn được dễ dàng trên thị

trường tài chính để mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh.
Xét về bản chất hiệu quả sử dụng vốn, trong các quan điểm trước đây, về lý
luận cũng như thực tiễn đều coi giá trị thặng dư là do kết quả của lao động sống
sáng tạo ra; yếu tố đất đai, tài nguyên không tính đến, yếu tố vốn bị xem nhẹ. Vì
vậy khi xét các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất, người ta chỉ đánh giá phân
tích theo ba yếu tố cơ bản: Lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trong đó
yếu tố lao động là cơ bản nhất. Từ đó đòi hỏi, bản chất về hiệu quả sử dụng vốn
được đề cập một cách đầy đủ hơn. Trước hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
tuân thủ theo quy tắc: "đầu vào" và "đầu ra" được quy định bởi thị trường. Sản xuất
cái gì ? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai ? không xuất phát từ chủ quan

×