Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật về hoạt động của Thừa phát lại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.59 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH HỮU NAM

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THỪA PHÁT LẠI TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình này được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội – cơ sở tại Thành Phố
Hồ Chí Minh
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. DƯƠNG ANH SƠN

Phản biện 1: TS. Đặng Vũ Huân
Phản biện 2: TS. Hồ Ngọc Hiển

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm Luận
Văn Thạc Sĩ họp tại Học viện Khoa học Xã hội – Cơ sở
tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Vào lúc 18h00 ngày 09 tháng 10 năm 2017



Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây vấn đề xã hội hóa một số hoạt động tư
pháp nói chung và một số công việc thi hành án dân sự nói riêng
nhằm góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ
quan tư pháp được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Để đáp
ứng nhu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà Việt Nam
tham gia như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), liên minh châu Âu (EU), Hiệp định
đối tác xuyên thái Bình Dương (TPP),... thì pháp luật của nước ta
cũng phải thay đổi, bổ sung để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Khi hội nhập với nền kinh tế quốc tế, sẽ phát
sinh rất nhiều các tranh chấp dân sự cần phải có chứng cứ làm bằng
chứng, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng giữa các bên khi
có tranh chấp xảy ra ở Tòa án hoặc Trọng tài thương mại.
Thực tiễn trên thế giới thì Thừa phát lại đã có từ rất lâu và hiện
diện ở phần lớn các quốc gia trên thế giới.
Chế định Thừa phát lại được thực hiện thí điểm bắt đầu từ năm
2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó mở rộng đến 12 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Kết quả tổng kết thí điểm cho thấy, chế
định Thừa phát lại có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện tốt chủ
trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp đã được đề ra tại Nghị
quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo tiền đề giảm tải công
việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan Tòa án, cơ
quan Thi hành án dân sự, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết

39 – NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh
giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Bên cạnh đó, hoạt động của Thừa phát lại đã bổ sung nguồn chứng
1


cứ, tạo thêm công cụ pháp lý để người dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong
giải quyết tranh chấp; đồng thời, người dân cũng có thêm sự lựa chọn
phù hợp trong việc yêu cầu thi hành án, quyết định của Tòa án.
Qua nghiên cứu tình hình từ mô hình thí điểm văn phòng Thừa
phát lại đầu tiên, đến năm 2016 thực hiện đề án quy hoạch mạng lưới
văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn Thành phố đến năm 2020; hiện
tại Thành phố Hồ Chí Minh có 11 Văn phòng Thừa phát lại hoạt
động có hiệu quả. Qua tổng kết hàng năm của thanh tra Sở Tư pháp
cho thấy, vẫn còn nhiều hạn chế trong các hoạt động về tống đạt, lập
vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án. Nhằm
chỉ ra thực trạng các ưu điểm, hạn chế và đề xuất những giải pháp
mang tính đòn bẩy tạo động lực cho các văn phòng Thừa phát lại
phát triển và hoạt đồng nền nếp, tuân thủ pháp luật đem lại lợi ích
cho nhân dân, giảm tải cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, giúp
tăng cường công tác quản lý Nhà nước theo đúng chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về chiến lược cải cách tư pháp trong tình hình
mới. Tiếp cận tình hình nêu trên, đã đặt ra nhu cầu bức thiết cả về lý
luận và thực tiễn cần được nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống vấn đề Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động của Thừa
phát lại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài thạc sĩ.
Chương 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI

1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển của tổ chức Thừa
phát lại ở Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi Vua Tự Đức ký Hòa
ước ngày 05 tháng 6 năm 1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ
2


đó người Pháp đã tổ chức bộ máy cai trị thực dân và áp dụng quy chế
về thuộc địa đặt 6 tỉnh Nam kỳ là một hạt, còn mỗi tỉnh là một quận
của nước Pháp. Tuy nhiên, ở giai đoạn này Bắc kỳ và Trung kỳ chưa
có chế định Thừa phát lại. Những công việc như trát đòi hầu tòa,
truyền phiếu,… vẫn do các môn lại, môn vệ (các sứ giả của Vua)
thực hiện.
Thuật ngữ “Thừa phát lại” có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”,
mô hình Thừa phát lại được quy định ở các bộ luật nêu trên hầu hết
đều theo khuôn mẫu mô hình của Pháp, thể hiện trong Bộ dân luật
Pháp năm 1804 và Bộ tố tụng dân sự Pháp năm 1807, khi dịch sang
tiếng Việt có nghĩa là “Chưởng tòa”
1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm
1975
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, bằng việc ban hành sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945
về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ với điều kiện
những điều khoản trong các luật này “không trái với nền độc lập của
nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”, Quyền Chủ tịch
nước Huỳnh Thúc Kháng đã ký sắc lệnh số 130/SL ngày 19 tháng 7
năm 1946, tại điều 3 quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố,
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và thư ký điều chịu trách nhiệm thi hành
những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án. Ban án ấy sẽ tùy

từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi hành lệnh,
mệnh lệnh hoặc án. Ở những nơi nào đã có Thừa phát lại riêng, thì
đương sự có quyền nhờ Thừa phát lại riêng thi hành án hoặc mệnh
lệnh”[5]. Như vậy, những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ
chức thi hành án dân sự ở Việt Nam tiếp tục được giao cho tổ chức
Thừa phát lại đảm nhiệm.
3


Từ năm 1950 đến năm 1975 và từ sau Hiệp định Giơnevơ năm
1954. Bằng Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 22
tháng 5 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã bãi
bỏ nhiệm vụ Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã làm nhiệm vụ thi hành
án mà thay thế vào đó là Thẩm phán huyện làm nhiệm vụ thi hành án
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Còn ở miền địch tạm chiếm
với hai văn bản pháp lý đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thi hành án
là Nghị định số 111 ngày 04 tháng 02 năm 1950 về ấn định pháp quy
Thừa phát lại do chính quyền Bảo Đại ban hành và Bộ luật dân sự,
thương sự tố tụng ngày 20 tháng 12 năm 1972 do chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu ban hành đã lấy lại quyền hạn của Thừa phát lại.
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam được hoàn toàn thống
nhất non sông thu về một mối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên toàn quốc. Về kinh tế, Việt Nam duy trì chế độ tập trung bao cấp
với thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể.
Việc phân chia sản phẩm theo bình quân đầu người và do Nhà nước
thực hiện, yếu tố “cạnh tranh” theo đúng nghĩa của nó gần như bị
triệt tiêu trong hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Các tranh chấp
dân sự, kinh tế, thương mại,.. ít có cơ hội phát sinh hoặc phát sinh
không đáng kể và ít phức tạp. Nếu có phát sinh tranh chấp thì phần

lớn những trường hợp đó các cơ quan nhà nước đều can thiệp để nó
được giải quyết giống như là các quan hệ hành chính. Do vậy, có thể
nói sau năm 1975 đến thời điểm năm 1995 khi nước ta xây dựng dự
thảo Bộ luật Dân sự thì chế định Thừa phát lại không còn tồn tại.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành Thừa phát
lại
1.2.1. Vấn đề công pháp và tư pháp
4


Theo quan điểm truyền thống, trước đây phân định hệ thống pháp
luật thành hai lĩnh vực: công pháp và tư pháp. Ngành luật nào bảo vệ
lợi ích “công” được tạo dựng và định đoạt bởi ý chí của nhà nước thì
xếp vào công pháp, còn ngành luật nào bảo vệ lợi ích “tư”, các bên
đương sự có quyền bày tỏ ý chí, sự thỏa thuận hoặc sự định đoạt của
mình thì xếp vào tư pháp.
Ở nước ta hiện nay, điều dễ nhận thấy là trong hệ thống các công
việc tố tụng dân sự thì hầu như gánh nặng điều tra, thu thập chứng cứ,
xác minh hiện trạng, lấy lời khai, tiến hành dàn xếp hòa giải,… đều
do cơ quan nhà nước bao cấp. Chính gánh nặng này và với một bộ
máy chưa đầy đủ về nhân sự, phương tiện làm việc còn thiếu thốn,
năng lực chuyên môn hạn chế nên tình trạng tồn đọng, quá hạn, sự
bất cập của các cơ quan nhà nước so với thực trạng xã hội hiện nay là
rất nan giải. Để có thể đưa ra một giải pháp hữu hiệu trong công tác
bổ trợ tư pháp thì Thừa phát lại là một nhân tố không thể bỏ qua.
1.2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và chế định Thừa phát lại:
Sự trở lại của chế định Thừa phát lại là một nhu cầu tất yếu của
nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội
trong giai đoạn hiện nay đã tăng lên gấp bội và rất sôi động, do đó

cũng làm nảy sinh nhiều hơn các nhu cầu pháp lý cần phải đáp ứng.
Các nhu cầu pháp lý này đòi hỏi cần có một hệ thống pháp luật
đầy đủ điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo mặt bằng an
toàn pháp lý ổn định cho sinh hoạt xã hội. Mặt khác, khi người dân
có nhu cầu tự bảo vệ và ngăn chặn các hành vi xâm hại đến lợi ích
hợp pháp của bản thân mình, thì có thể triệu dụng một tổ chức hoặc
cá nhân bảo vệ cho mình.

5


1.2.3. Thừa phát lại và sự hội nhập cộng đồng thế giới và khu
vực:
Trong tiến trình hội nhập của Nhà nước ta, một lĩnh vực hợp tác
không thể thiếu được đó là lĩnh vực tư pháp. Sự tương đồng về kinh
tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tư
pháp và cơ quan bổ trợ tư pháp thích ứng và hoàn chỉnh đi kèm. Hệ
thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tư pháp đó chính là môi
trường và phương tiện bảo đảm không những chỉ lợi ích của các nhà
kinh doanh mà còn cả lợi ích của tất cả cá nhân, tổ chức khác trong
nền kinh tế thị trường. Trong trào lưu đó, buộc chúng ta phải hoàn
thiện các cơ quan tư pháp để phục vụ cho công cuộc đổi mới của đất
nước. Cho nên sự ra đời của chế định Thừa phát lại là một mắt xích,
một minh chứng cho sự hoàn thiện đó.
1.2.4. Tiến trình tái lập tổ chức Thừa phát lại:
Nằm trong tiến trình cải cách tư pháp do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án dân sự nói riêng
và một số hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung là một yêu cầu cấp
thiết, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Chủ trương này đã được đặt ra tại Nghị

quyết 08 của Bộ chính trị, và chủ trương này tiếp tục được khẳng
định trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
Để thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong
lĩnh vực thi hành án dân sự, ngày 14 tháng 11 năm 2008. Trên cơ sở
quy định tại Nghị quyết 24 của Quốc hội về thi hành Luật thi hành án
dân sự năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 224/TTg
về việc phê duyệt đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại
tại Thành phố Hồ Chí Minh” và đến ngày 24 tháng 7 năm 2009
Chính phủ đã ban hành Nghị định 61 quy định về tổ chức và hoạt
6


động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09 tháng 9 năm
2009 và sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 135 ngày 18
tháng 10 năm 2013.
1.3. Khái niệm về Thừa phát lại
Theo đánh giá của các nhà khoa học cũng như qua các tài liệu lịch
sử thì Thừa phát lại đã có ở nước ta từ thời phong kiến, còn gọi là
“Mỏ”. Việc xét xử do các quan lại ở địa phương tiến hành, những
công việc của những “người giúp việc”, các khâu chuẩn bị cho việc
xử án, xét ở góc độ nào đó gần giống với một số công việc mà Thừa
phát lại hiện nay đang làm, như vậy nếu dựa vào tính chất, đặc thù
công việc thì có thể nói Thừa phát lại đã xuất hiện ở nước ta ngay từ
thời kỳ đầu của Nhà nước Phong kiến.
Hiện nay có khoảng 72 nước là thành viên của tổ chức Liên minh
Thừa phát lại quốc tế. Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, miền Bắc
gọi là “Chưởng tòa”, miền Trung gọi là “Mõ tòa” còn miền Nam
gọi là “Thừa phát lại”. Có thể hiểu nghĩa Hán Việt của Thừa phát lại

là: thừa của thừa hành; phát là chuyển phát, báo phát; lại là làm việc
của thư lại.
Theo Nghị định 135 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 61 thì: “Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà
nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy định của
Nghị định này và pháp luật có liên quan”.
1.4. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức
Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp hiện nay
1.4.1. Về vai trò của tổ chức Thừa phát lại
1.4.1.1. Trợ giúp các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng
- Trợ giúp cho cơ quan Tòa án trong việc tống đạt văn bản và thu
thập chứng cứ
7


Trong hoạt động tố tụng hiện nay của cơ quan Tòa án thì việc
tống đạt văn bản được xem là một trong những công việc đầu tiên mà
cơ quan Tòa án phải làm trong quá trình xét xử vụ án.
Thừa phát lại ra đời và hoạt động không những đáp ứng được
những yêu cầu chặt chẽ về hình thức của thủ tục tố tụng, mà còn
đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cơ quan Tòa án thu thập, bổ
sung chứng cứ để phục vụ cho quá trình xét xử. Việc thu thập, bổ
sung chứng cứ để buộc tội đương sự thuộc về trách nhiệm của các cơ
quan tư pháp điều này không những làm mất đi rất nhiều thời gian,
công sức của các cơ quan chức năng mà còn làm ảnh hưởng nhiều
đến công tác chuyên môn.
Để thuận tiện trong việc thu thập chứng cứ, đặc biệt trong việc thu
thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án thì tổ chức Thừa phát lại là thích
hợp nhất.
- Trợ giúp cho cơ quan Thi hành án dân sự trong việc tống đạt

văn bản và các công việc liên quan đến thi hành án dân sự
Với chức năng chính là việc tống đạt thì Thừa phát lại sẽ giúp cơ
quan Thi hành án dân sự thực hiện tốt việc tống đạt các loại văn bản
có liên quan đến thi hành án.
Việc áp dụng thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Thừa
phát lại không những góp phần ngăn chặn, xử lý thích đáng việc tẩu
tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm thi hành án của người phải thi
hành án mà còn giúp cho việc bảo quản được đối tượng tranh chấp và
bảo vệ tốt các chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án của
cơ quan Tòa án được dễ dàng hơn.
1.4.1.2. Trợ giúp công dân trong việc lập vi bằng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình
Bộ Luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, có yêu cầu cá nhân,
pháp nhân phải chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
8


của mình, phòng ngừa vi phạm hoặc thiệt hại có thể xảy ra cho bản
thân hoặc cộng đồng.
Như vậy, với sự giúp đỡ của Thừa phát lại trong việc lập vi bằng
để tạo lập chứng cứ không những giúp đương sự có được những
chứng cứ quan trọng, có giá trị pháp lý cung cấp cho Tòa án nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn giúp cho cơ quan
Tòa án có được những chứng cứ quan trọng để giải quyết vụ án được
chính xác, khách quan và hiệu quả.
1.4.2. Nhiệm vụ của tổ chức Thừa phát lại
Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan Thi
hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự;
Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu

cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành các bản án,
quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự chủ
động ra quyết định thi hành án.
1.4.3. Quyền hạn của tổ chức Thừa phát lại
Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân cung cấp thông tin,
tài liệu để xác định những sự kiện pháp lý có liên quan. Nếu bị từ
chối, Thừa phát lại có thể lập biên bản để ghi nhận sự từ chối đó.
Quyền được pháp luật bảo vệ về danh dự, nhân phẩm, tính mạng
và tài sản khi thực hiện nhiệm vụ; quyền được bồi dưỡng về nghiệp
vụ; được thuê người giúp việc (thợ chụp hình, thông dịch viên), tìm
nhân chứng, yêu cầu giám định để xác định sự kiện pháp lý; được từ
chối không làm một công việc gì đó nếu trái với pháp luật hoặc điều
lệ hoạt động của văn phòng
Được thu lệ phí khi thực hiện nhiệm vụ theo giá quy định quy
định. Mặc khác, bên cạnh những quyền hạn nêu trên thì trong lĩnh
9


vực thi hành án dân sự, Thừa phát lại còn có quyền như Chấp hành
viên.
1.4.4. Trách nhiệm của tổ chức Thừa phát lại
Thừa phát lại không được từ chối các yêu cầu của đương sự, trừ
trường hợp người được yêu cầu là bà con, thân thuộc. Khi thi hành
nhiệm vụ, Thừa phát lại có nghĩa vụ tuân theo trình tự thủ tục do
pháp luật quy định.
Thừa phát lại phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để đảm
bảo bồi thường thiệt hại cho đương sự, nếu Thừa phát lại có lỗi do
mình gây ra; có nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ báo cáo với cơ quan
quản lý theo quy định.
1.5. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại của một số nước trên

thế giới
1.5.1. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Vương quốc Anh
Ở Anh, Thừa phát lại vốn đã tồn tại hơn 1.000 năm và khái niệm
“Tịch biên tài sản” (là một thủ tục thu tài sản của người phải thi hành
án do Thừa phát lại thực hiện) rất phổ biến trong khoảng thế kỷ thứ
XIII, thời điểm mà các điều lệ của Magna Carta 1215 trao cho các
Nam tước người Anh quyền tịch biên tài sản ngay cả đối với nhà vua.
Ở Anh, Thừa phát lại được tổ chức theo các loại hình là Thừa
phát lại tư nhân và Thừa phát lại của Tòa án quận hạt. Đối với Thừa
phát lại tư nhân, chứng chỉ Thừa phát lại được cấp bởi một Thẩm
phán của Tòa án quận hạt, chứng chỉ này cho phép họ thực hiện việc
tịch thu tài sản. Chứng chỉ Thừa phát lại ở Anh có hiệu lực trong thời
hạn 2 năm.
1.5.2. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa Pháp
Thừa phát lại tại Pháp đã có từ nhiều thế kỷ. Luật pháp cá thể hóa
phụ thuộc vào tầng lớp hoàng gia, quý tộc, giáo hội hay bình dân.
10


Ngày nay, chức vụ Thừa phát lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Pháp
bổ nhiệm, định rõ trụ sở của Thừa phát lại và Thừa phát lại chỉ được
thi hành chức vụ trong phạm vi quản hạt của Tòa sơ thẩm dân sự mà
trụ sở của họ phụ thuộc. Tổ chức Thừa phát lại ở Pháp có một Hội
đồng Thừa phát lại.
Nói chung là tất cả các biện pháp do Tòa án quyết định đối với
một chủ thể nào trong quá trình điều tra xét xử đều do Thừa phát lại
thực hiện. Hiện nay, luật pháp của Pháp đã sửa đổi các điều luật cũ
trước đây, đã quy định Thừa phát lại tại Pháp được làm các thủ tục về
hình sự, chứng thư ở các Tòa tiểu hình, đại hình và trước dự thẩm.
1.5.3. Hoạt động của tổ chức Thừa phát lại ở Cộng hòa liên

bang Đức
Ở Đức được gọi là Chấp hành viên, là một Công chức tư pháp
hạng trung, giữ vai trò chấp hành của Tòa án, chịu sự giám sát nghiệp
vụ của Thẩm phán được phân công. Chấp hành viên được tổ chức
theo quản hạt của các Tòa án quận, nhưng không nằm trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án. Chấp hành viên là một mắc xích được tổ chức độc
lập trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, chịu trách nhiệm chi
phí cho hoạt động của trụ sở, chấp hành viên có con dấu riêng, giao
dịch bằng tên gọi và chức danh của mình. Những công việc cụ thể
của chấp hành viên do Phòng lục sự của Tòa án phân công.
Chấp hành viên có các nhiệm vụ: giao văn kiện, giấy tờ cho các
bên đương tụng trong vụ án dân sự theo yêu cầu của một bên; lập
chứng thư phản đối các hối phiếu; giao chứng thư thể hiện yêu cầu, ý
chí của người triệu dụng cho một người khác; tổ chức thi hành các
bản án đối với loại án mà luật định. Khi thực hiện công việc thi hành
án, chấp hành viên có thể kê biên, bán đấu giá động sản, các giấy tờ
có giá trị, yêu cầu trả lại đồ vật và bắt giữ người phải thi hành án để
buộc cam kết thực hiện,…
11


Chấp hành viên được có các quyền như: khám nhà, khám nơi để
tài sản của người phải thi hành án, được dùng vũ lực khi gặp phải sự
chống đối bằng cách yêu cầu lực lượng cảnh sát hỗ trợ.
Kết luận chương 1
Tóm lại, các phần trình bày nêu trên đã sơ lược sự hình thành và
phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam, giới thiệu về khái niệm, vai
trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thừa phát lại. Đây được
xem là phần khái quát và khung pháp lý của sự hình thành và tái lập
tổ chức Thừa phát lại, thể hiện tính đổi mới, tính cấp thiết trong công

cuộc cải cách tư pháp sao cho phù hợp với sự phát triển của Việt
Nam hiện nay. Đồng thời, tác giả luận văn cũng đã tóm lược mô hình
Thừa phát lại của một số nước trên thế giới như Anh, Pháp, Đức. Đây
là cơ sở mang tính chất tham khảo có giá trị cao để chúng ta có thể
vận dụng vào tình hình thực tiễn của đất nước để xây dựng tổ chức
Thừa phát lại phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.
Chẳng hạn Thừa phát lại ở Vương quốc Anh có 3 loại và chức năng
của họ có thể thực thi một số quyết định bao gồm Quyết định tịch
biên, Quyết định bắt giữ, Quyết định xử phạt, ngoài ra họ cũng có thể
thực thi Quyết định bắt giữ vì vi phạm bản án cấp quận hạt; Thừa
phát lại ở Cộng hòa Pháp thì có thêm chức năng hòa giải và được
tham gia nhiều hơn vào các hoạt động pháp lý và hỗ trợ pháp lý trên
nhiều mặt của đời sống từ dân sự, hình sự, thi hành án đến hôn nhân
gia đình; còn ở Cộng hòa Liên bang Đức thì những công việc của
Thừa phát lại được gọi là Chấp hành viên và những công việc tương
tự như của Thừa phát lại đều do Chấp hành viên của Tòa án thực hiện.
Các vấn đề trên nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận cho vấn đề thực
tiễn về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại đang hình thành và phát
triển ở Việt Nam được tác giả luận văn nghiên cứu để làm cơ sở đánh
12


giá về thực trạng và phương hướng hoạt động của tổ chức Thừa phát
lại.
Chương 2
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI
VIỆT NAM
2.1. Tổ chức Thừa phát lại tại Việt Nam
2.1.1. Văn phòng Thừa phát lại
Văn phòng Thừa phát lại là nơi hành nghề, là nơi tổ chức điều

hành, quản lý các hoạt động chính, quan trọng trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Người đứng đầu văn phòng Thừa phát lại phải là Thừa phát lại và là
người đại diện theo pháp luật. Trưởng văn phòng phải là Thừa phát
lại có thẻ hành nghề Thừa phát lại đứng tên; không được chuyển
nhượng, cho thuê lại; không được thành lập chi nhánh của văn phòng.
Hồ sơ thành lập và đăng ký hoạt động của văn phòng được quy
định như các doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện. Văn phòng
Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại, có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
Như vậy, văn phòng Thừa phát lại hoạt động như là đơn vị kinh tế tư
nhân, do tư nhân thành lập, tự chủ về tất cả các hoạt động của mình.
2.1.2. Tổ chức bộ máy của Văn phòng Thừa phát lại
Trưởng văn phòng phải là Thừa phát lại, là người đại diện theo
pháp luật của văn phòng Thừa phát lại. Thừa phát lại là thành viên
sáng lập, trong trường hợp nhiều người cùng tham gia thành lập văn
phòng Thừa phát lại
Thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại là nhân viên văn phòng Thừa phát
lại giúp Thừa phát lại thực hiện các công việc nghiệp vụ pháp lý. Thư
ký nghiệp vụ Thừa phát lại phải có các tiêu chuẩn như: là công dân
13


Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt; không có tiền án,
có bằng cử nhân Luật, không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng,
Luật sư và những công việc khác theo quy định của pháp luật.
2.1.3. Đoàn Thừa phát lại
Đoàn Thừa phát lại là một tổ chức nghề nghiệp của Thừa phát lại,
và được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi
có từ hai Thừa phát lại trở lên đăng ký thành lập. Ủy ban Nhân dân

cấp tỉnh có thẩm quyền cho phép thành lập Đoàn thừa phát lại.
Đoàn Thừa phát lại có con dấu riêng, có thể có tài khoản riêng ở
ngân hàng, kinh phí hoạt động của Đoàn Thừa phát lại do sự thỏa
thuận đóng góp hàng tháng của các Thừa phát lại thành viên.
2.1.4. Tiêu chuẩn để trở thành Thừa phát lại
Thừa phát lại phải có các tiêu chuẩn sau: “Là công dân Việt Nam,
có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt; không có tiền án; có bằng cử
nhân Luật; đã công tác trong ngành pháp luật trên 05 năm hoặc đã
từng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Công
chứng viên, Điều tra viên từ Trung cấp trở lên; có chứng chỉ hoàn
thành lớp tập huấn về nghề Thừa phát lại do Bộ Tư pháp tổ chức;
không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những công
việc khác theo quy định của pháp luật”. Và việc bổ nhiệm hoặc miễn
nhiệm Thừa phát lại thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp.
2.2. Các công việc mà Thừa phát lại được làm hiện nay:
2.2.1. Thực hiện việc Tống đạt văn bản theo yêu cầu của cơ
quan Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự
Tống đạt là việc thông báo, giao nhận các văn bản của Tòa án, cơ
quan Thi hành án dân sự do Thừa phát lại thực hiện.
Về thẩm quyền và phạm vi tống đạt văn bản của tổ chức Thừa
phát lại, theo quy định của pháp luật thì văn phòng Thừa phát lại
14


được quyền thỏa thuận để tống đạt văn bản của cơ quan Thi hành án
dân sự thành phố, quận, huyện; Tòa án nhân dân dân thành phố, quận,
huyện.
Về thủ tục thì Trưởng Văn phòng Thừa phát lại có thể giao thư
ký nghiệp vụ thực hiện việc tống đạt, trừ trường hợp các bên có thỏa

thuận việc tống đạt phải do chính Thừa phát lại thực hiện
Việc tống đạt văn bản của cơ quan Tòa án và cơ quan Thi hành
án dân sự được coi là hoàn thành khi đã được thực hiện theo đúng
quy định.
Chi phí cho việc tống đạt được thực hiện theo sự thỏa thuận giữa
văn phòng Thừa phát lại với các cơ quan có yêu cầu.
2.2.2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành
vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp
luật khác. Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện,
hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp vi phạm quy
định về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các
trường hợp pháp luật cấm.
Vi bằng vừa có giá trị pháp lý làm chứng cứ để Tòa án xem xét
khi giải quyết vụ án, vừa là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp
pháp khác. Vi bằng phải được lập thành văn bản bằng tiếng Việt và
được đăng ký tại Sở Tư pháp thành phố theo quy định.
2.2.3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương
sự
Theo quy định của pháp luật thì người được thi hành án phải cung
cấp kết quả xác minh điều kiện thi hành án, tức là phải chứng minh
người phải thi hành án có tài sản để thi hành án khi yêu cầu thi hành
án.
15


Người được thi hành án ngoài việc tự mình phải xác minh điều
kiện của người phải thi hành án còn có thể yêu cầu Thừa phát lại thực
hiện công việc này.
Thừa phát lại có thẩm quyền như Chấp hành viên của cơ quan Thi

hành án dân sự.
2.2.4. Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án theo yêu cầu của đương sự
Thi hành án là một công việc vô cùng quan trọng trong hoạt động
tố tụng ở nước ta. Công tác thi hành án từ trước đến nay đều do hệ
thống các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện.
Việc trực tiếp tổ chức thi hành án của văn phòng Thừa phát lại
được thông qua việc thỏa thuận giữa văn phòng Thừa phát lại với
người yêu cầu và được thể hiện dưới hình thức hợp đồng.
Trong quá trình trực tiếp tổ chức thi hành án của văn phòng Thừa
phát lại nói chung và việc cưỡng chế thi hành án nói riêng, thì bên
cạnh thủ tục chung về việc tổ chức thi hành án thì chi phí hay thù lao
cho công việc này của Thừa phát lại cũng được quy định tại Thông tư
liên tịch số 12 của Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính – Tòa án nhân dân tối
cao.
Kết luận chương 2
Có thể thấy, Thừa phát lại là một tổ chức được ra đời và hoạt
động còn khá mới. Tuy nhiên, chế định này đã đóng vai trò tích cực
trong việc phát huy khả năng và tính chủ động tích cực của người dân
trong đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công
dân trong các quan hệ pháp luật dân sự, hành chính; xác định lại đúng
mức độ, phạm vi can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực hành chính
tư pháp, qua đó, giảm khối lượng công việc và gánh nặng chi phí của
Nhà nước cho hoạt động thi hành án dân sự, làm tinh gọn bộ máy và
tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước.
16


Chương 3
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN

CỦA TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
3.1. Thực trạng về hoạt động của Thừa phát lại tại thành phố
Hồ Chí Minh
Với số lượng 11 văn phòng Thừa phát lại trên 24 quận, huyện
(văn phòng Thừa phát lại Quận 1, Quận 5, Quận 8, Quận 10, Quận
Gò Vấp, Quận Bình Thạnh, Quận Tân Bình, Quận Bình Tân, Quận
Thủ Đức, Huyện Hóc Môn, Huyện Bình Chánh), trong đó có 7 văn
phòng hoạt động theo loại hình công ty hợp danh và 4 văn phòng
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Tại 11 văn phòng này,
hiện có 46 Thừa phát lại hành nghề, 76 Thư ký nghiệp vụ Thừa phát
lại, 75 nhân viên khác, so với tổng số trên 10 triệu dân của thành phố
thì có vẽ lực lượng này còn khá khiêm tốn.
3.1.1.Về thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án và cơ
quan thi hành án dân sư:
Giai đoạn 2011- 2016 đã thực hiện tống đạt 553.972 văn bản với
tổng chi phí tống đạt là 39.946.793.000 đồng; trong đó thực hiện tống
đạt văn bản của Tòa án là 378.525 văn bản, chi phí tống đạt thu được
là 27.463.043.000 đồng; thực hiện tống đạt văn bản của cơ quan Thi
hành án dân sự là 175.447 văn bản, chi phí tống đạt thu được là
12.483.750.000 đồng.
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố được thống nhất thỏa thuận giữa
các cơ quan và các văn phòng Thừa phát lại là phân chia theo địa hạt.
Chi phí cho việc tống đạt đối với trường hợp sử dụng ngân sách
Nhà nước để chi trả thì hiện nay là không hợp lý, không đảm bảo chi
phí cho việc tống đạt.
17


3.1.2. Về thực hiện lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ

quan, tổ chức:
Giai đoạn 2011 – 2016, các văn phòng Thừa phát lại đã lập vi
bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức và đăng ký tại Sở
Tư pháp thành phố tổng cộng 61.607 vi bằng với doanh thu là
61.829.814.704 đồng.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố, tính đến tháng 6
năm 2015, Tòa án 2 cấp tại Thành phố có 117 vụ việc sử dụng vi
bằng làm chứng cứ trong việc xét xử, tuy số lượng còn ít nhưng các
vi bằng được lập này đã góp phần giảm bớt các tranh chấp, khiếu
kiện phải đưa ra xét xử do các bên trong quan hệ giao dịch đã có căn
cứ pháp lý để chứng minh và bảo vệ quyền dân sự của mình.
Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại tại Thành phố hiện nay
rất phong phú và đa dạng
Hiện nay, phí lập vi bằng chưa có quy định chung của Nhà nước
nên mỗi văn phòng thu phí một kiểu khác nhau, có văn phòng thu
theo biểu phí công chứng, tức là thu 0,1% nếu vụ việc có giá trị dưới
1 tỷ đồng và thu 0,07% nếu vụ việc có giá trị trên 1 tỷ đồng, có nơi
lại thu theo khoản cách xa gần, trung bình từ 2 triệu đến 5 triệu đồng
một vụ việc.
3.1.3. Về thực hiện xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu
của đương sự
Các Văn phòng Thừa phát lại đã thực hiện được 418 vụ việc xác
minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự với doanh thu
là 2.139.847.000 đồng ở giai đọan 2011 – 2016. Nếu so sánh ta có
thể thấy doanh thu từ việc xác minh điều kiện thi hành án thấp hơn
nhiều so với doanh thu từ hoạt động tống đạt văn bản và lập vi bằng.
Xét về mặt tác động đối với xã hội ở khâu tổ chức xác minh điều
kiện thi hành án thì Thừa phát lại có khả năng làm tốt hơn nữa công
18



việc này, vì chỉ có 02 trong tổng số 418 vụ việc yêu cầu xác minh là
không xác minh được. Các vụ việc xác minh được của Thừa phát lại
đã hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho người yêu cầu trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích của họ khi thi hành án.
Trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án trên địa bàn
Thành phố, Thừa phát lại vẫn còn vướng trong trường hợp thực hiện
việc xác minh nhưng lại không có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn.
3.1.4. Về thực hiện trực tiếp tổ chức thi hành các bản án quyết
định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự
Trong giai đoạn 2011 – 2016, các văn phòng Thừa phát lại đã thụ
lý 213 vụ việc thi hành theo yêu cầu của đương sự, trong đó có 156
vụ việc đã chấm dứt thi hành; với giá trị thi hành án về tiền là
620.635.727.590 đồng và 18 lượng vàng; doanh thu (gồm: chi phí thi
hành án theo quy định và khoản thu khác theo thỏa thuận) là
3.537.768.426 đồng. Nếu so sánh với số lượng thi hành án của các cơ
quan Thi hành án tương ứng với các văn phòng Thừa phát lại ở các
quận, huyện thì có độ chênh lệch rất lớn (6.009 vụ việc với
1.812.831.909.099 đồng).
Lĩnh vực tổ chức thi hành án là lĩnh vực hết sức khó khăn. Muốn
thi hành án phải xây dựng kế hoạch và được duyệt của Cục Trưởng
Thi hành án dân sự, có huy động lực lượng,..
Đối với trường hợp tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động
lực lượng của Thừa phát lại, có quy định cụ thể về trách nhiệm của
người phê duyệt kế hoạch cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi
hành án khi toàn bộ thủ tục thi hành án lại do Thừa phát lại thực hiện,
điều này gây ảnh hưởng tâm lý không nhỏ đến người phê duyệt kế
hoạch cưỡng chế (Cục Trưởng thia hành án dân sự). Đồng thời, nếu
trong quá trình thực hiện cưỡng chế phát sinh các tình huống ảnh

19


hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội thì ai là người chỉ
đạo giải quyết.
3.2. Những tác động tích cực và hạn chế về hoạt động của tổ
chức Thừa phát lại
3.2.1. Những tác động tích cực về hoạt động của tổ chức Thừa
phát lại
3.2.1.1. Đối với người dân và xã hội
Thông qua việc lập vi bằng, Thừa phát lại đã giúp người dân
trong việc xác lập các chứng cứ có giá trị pháp lý cao, phục vụ đắc
lực cho quá trình xét xử của Tòa án, do đó đã giúp người dân bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các quan hệ dân sự
cũng như trong các quá trình tố tụng tư pháp. Chính vì lẽ đó, việc lập
vi bằng của Thừa phát lại được xem như một “cách làm mới” trong
chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta.
3.2.1.2. Đối với các hoạt động tư pháp và liên quan
Việc quá tải trong các công việc của các cơ quan tư pháp
không phải là nhỏ, phần nào làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Từ thực tiễn đó, Thừa phát lại đã giúp Tòa án thực hiện nhanh
chóng hơn việc tống đạt văn bản của Tòa án kịp thời cho các đương
sự có liên quan đến vụ án đang được giải quyết, giúp Tòa án có thể
tập trung tốt nhất vào công việc xét xử của mình. Ngoài ra, với việc
tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực
tiếp thi hành án, Thừa phát lại đã giúp cho cơ quan tư pháp giảm tải
gánh nặng của mình,...
3.2.1.3. Đối với kinh tế
Việc thực hiện chế định Thừa phát lại đã cho ra đời một nghề mới

trong thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý, huy động được nguồn lực
20


xã hội về nhân lực và tài chính, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, tận dụng được chất xám của đội ngũ trí thức, luật gia,..
Hoạt động của Thừa phát lại góp phần thúc đẩy ổn định, trật tự
trong giao lưu dân sự, kinh tế thông qua hoạt động lập vi bằng, tạo
lập chứng cứ giúp chủ động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và cho hoạt động xét xử của Tòa án.
3.2.2. Những hạn chế về hoạt động của tổ chức Thừa phát lại
3.2.2.1. Hạn chế về nhận thức của người dân, xã hội và các cơ
quan Nhà nước về tổ chức Thừa phát lại
Trên thực tế hiện nay nhận thức của các cơ quan, cán bộ, công
chức vẫn chưa đầy đủ về chế định Thừa phát lại. Do đó, việc phối
hợp, hỗ trợ giữa tổ chức Thừa phát lại và các cơ quan hữu quan hiện
nay chưa thật sự thống nhất.
Còn tình trạng lấy lý do “Luật chuyên ngành không có quy định”
đề từ chối thực hiện. Điều này đã dẫn đến những khó khăn nhất định
cho hoạt động của tổ chức Thừa phát lại hiện nay.
3.2.2.2. Hạn chế về công tác thông tin tuyên truyền
Vẫn còn tình trạng một số cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức
chưa thông suốt về tư tưởng đối với chế định Thừa phát lại; vẫn còn
một bộ phận người dân chưa biết nhiều, thậm chí chưa yên tâm sử
dụng dịch vụ do Thừa phát lại cung cấp.
3.2.2.3. Hạn chế về văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cho
hoạt động của Thừa phát lại
Việc các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn còn chậm, ít có
văn bản hướng dẫn, chưa có Luật về Thừa phát lại.
Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt

động của Thừa phát lại bước đầu đã được xây dựng nhưng vẫn còn
nhiều điểm chưa thật sự rõ ràng, có nhiều điểm cần sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với thực tiễn.
21


3.3. Đề xuất một số giải pháp
- Do Thừa phát lại là chế định mới nên cần triển khai mạnh mẽ
công tác này trong thời gian tới trong phạm vi cả nước với nội dung
và hình thức phù hợp với đặc điểm từng vùng, miền, từng khu vực.
Cần thiết phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, sâu rộng
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Cần có các chương trình cụ thể về nâng cao chương trình, đào
tạo, bồi dưỡng chức danh Thừa phát lại; bổ sung vào chương trình
đào tạo các chức danh tư pháp học phần có nội dung về chế định
Thừa phát lại với số tín chỉ thích hợp; tổ chức hội thảo trao đổi kinh
nghiệm về nghiệp vụ ở trong nước hoặc tổ chức Đoàn ra nước ngoài
học tập.
- Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp ở Trung ương cần làm việc với các
cơ quan ngành dọc cần ban hành các quy định, cơ chế hối hợp, hỗ trợ
Thừa phát lại; cần quan tâm đến việc động viên, khen thưởng và có
chế tài đủ nghiêm, đủ mạnh các hành vi vi phạm.
- Về tống đạt, mở rộng phạm vi tống đạt văn bản đến các cơ quan
khác có hình thức, tính chất tương tư; trong trường hợp đặc biệt cho
phép Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự được ký hợp đồng với
nhiều văn phòng Thừa phát lại; có quy định phù hợp về chi phí tống
đạt văn bản; Về lập vi bằng, có quy định về “thỏa thuận miệng” giữa
các bên trong tình huống “đột xuất, bất ngờ” của việc lập vi bằng; có
hướng dẫn chi tiết về phí lập vi bằng; Về xác minh điều kiện thi hành
án, hạn chế tối đa việc xác minh điều kiện thi hành án bằng văn bản;

cần cho phép việc ủy quyền hay phối hợp thực hiện xác minh điều
kiện thi hành án giữa các văn phòng Thừa phát lại; cho phép người
được thi hành án nếu không thống nhất với kết quả xác minh của
Chấp hành viên thì vẫn có quyền yêu cầu yêu cầu Thừa phát lại xác
minh lại, bổ sung; Về trực tiếp tổ chức thi hành án, cần có quy định
22


cụ thể về phương án xử lý và thủ tục chuyển giao giữa Thừa phát lại
và cơ quan Thi hành án dân sự trong việc phối hợp xử lý tài sản của
người phải thi hành án trong một vụ án có nhiều đương sự.
- Cần tập trung xây dựng quy hoạch về việc thành lập các Văn
phòng Thừa phát lại ở những địa phương chưa có Văn phòng.
- Cần thiết trong thời gian tới là nên ban hành Luật về tổ chức
Thừa phát lại, cũng như ban hành các Quy tắc đạo đức hành nghề để
đảm bảo hiệu lực pháp lý đối với hoạt động Thừa phát lại.
- Cần mở rộng, giao quyền nhiều hơn ở lĩnh vực kinh tế, dân sự và
hôn nhân gia đình. Từng bước bỏ hẳn tổ chức Thi hành án Dân sự
nhằm đáp ứng chủ trương tinh giảm biên chế trong hệ thống cơ quan
công quyền, giảm chi phí ngân sách Nhà nước.
Kết luận chương 3
Ở chương này tác giả nêu thực trạng về hoạt động của tổ chức
Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh có minh chứng bằng các số
liệu cụ thể để so sánh, đánh giá, phân tích nhằm khẳng định sự vai trò
cần thiết của Thừa phát lại. Qua đó, đánh giá những tác động tích cực
của tổ chức Thừa phát lại đối với kinh tế, xã hội, các cơ quan tư pháp
và đối với người dân; bên cạnh đó, cũng chỉ ra các mặt hạn chế, các
vấn đề còn tồn tại về thực tiễn và sự điều chỉnh của các văn bản quy
phạm pháp luật về Thừa phát lại.


23


×