Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý các dự án đầu tư tại Chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.97 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề án
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kế hoạch tập trung sang cơ
chế thị trường ở nước ta hiện nay, khái niệm “Dự án” đó và đang được sử dụng
ngày càng rộng rãi. Khái niệm “Dự án” không chỉ bao gồm các dự án đầu tư
trong sản xuất kinh doanh, mà cũng gồm các dự án không nhằm mục tiêu lợi
nhuận và liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội khác.
Một cách đơn giản có thể hiểu “Dự án “là một tập hợp các hoạt động cần
thiết để tác động vào các nguồn lực hữu hạn, nhằm đạt được một mục tiêu xác
định. Để quản lý các hoạt động này nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, từ lâu trên
thế giới đó nghiên cứu một mụn khoa học đó là khoa học “Quản lý dự án”. Bản
chất của Quản lý dự án nằm trong việc áp dụng các thành tựu trong nghiên cứu và
kinh nghiệm trong thực tiễn để tổ chức, điều phối các nguồn lực hữu hạn một cách
có hiệu quả nhất, trong một giới hạn nhất định về không gian và thời gian nhằm
đạt được các mục tiêu của dự án đó được xác định. Trong các dự án thuộc các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, Dự án đầu tư là loại hình dự án được xã hội
quan tâm nhiều nhất, đặc biệt là trong xã hội theo cơ chế thị trường là mụ hình xã
hội phổ biến trên thế giới hiện nay. Thuật ngữ “Dự án đầu tư” là một thuật ngữ đó
được sử dụng từ lâu, ngoài ra có thêm thuật ngữ “Dự án đầu tư xây dựng công
trình” mới được sử dụng trong các văn bản pháp quy của Việt Nam trong mấy
năm gần đây, là để chỉ các dự án đầu tư có xây dựng công trình. Bản chất của dự án
đầu tư là việc tập hợp các hoạt động có liên quan đến đầu tư các nguồn lực hữu
hạn của doanh nghiệp /doanh nhân vào một đối tượng xác định để đạt được mục
tiêu lợi nhuận. Với chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ hiện nay, các
doanh nghiệp cả trong và ngoài nước đang rất tích cực trong phát triển các dự án
đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
hơn với thế giới, thông qua việc gia nhập nhiều tổ chức kinh tế lớn, trong đó có Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó Chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin Quyền,
Lào Cai Vimico cũng không nằm ngoài thực tế này.
Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam là một trong những Tổng công ty lớn
của nhà nước Việt Nam có chức năng nhiệm vụ chính là thăm dò, khai, chế biến


và kinh doanh các loại khoáng sản. Tổng công ty có Chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin
Quyền, Lào Cai Vimico. Trong những năm qua, sự tăng trưởng trong hoạt động
đầu tư của công ty đạt được là dựa trên nhiều yếu tố thuận lợi như nguồn vốn, tài
nguyên khoáng sản, áp dụng công nghệ mới v.v... Tuy nhiên một đặc thù của các


dự án đầu tư trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản là việc khai thác, sử dụng
nguồn tài nguyên khoáng sản – một loại tài nguyên thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước thống nhất quản lý, mà trong đó phần lớn là tài nguyên không tái tạo.
Đồng thời với nhiệm vụ được Nhà nước giao là quản lý và tổ chức thăm dò,
khai thác, chế biến khoáng sản, công ty có một trách nhiệm trước Nhà nước, trước
nhân dân về việc sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất về mặt kinh tế xã hội của đất nước nói chung và về lợi ích của doanh
nghiệp nói riêng. Ngoài ra việc đầu tư trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng
sản cũng tác động lớn đến môi trường, tạo ra nhiều việc làm cho nhân dân, góp
phần vào đảm bảo an ninh năng lượng và dự trữ nguyên liệu chiến lược cho quốc
gia, cung cấp nguyên liệu và tạo điều kiện cho phát triển các ngành công nghiệp
khác. Chính vì vậy việc quản lý các dự án đầu tư trong lĩnh vực khoáng sản có
ý nghĩa rất lớn, không chỉ đối với doanh nghiệp mà cũng tác động đến nhiều
mặt của đời sống xã hội. ý nghĩa của công tác quản lý dự án và sự cần thiết hoàn
thiện công tác quản lý các dự án đầu tư nói chung và các dự án đầu tư tại Chi
nhánh mỏ tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico nói riêng chính là lý do để từ
chọn đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý các dự án đầu tư tại Chi nhánh mỏ
tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico” làm đề án tốt nghiệp
2. Mục tiêu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề án là từ cơ sở lý thuyết về quản lý dự án đầu tư
và từ phân tích thực trạng tình hình quản lý các dự án đầu tư tại công ty, đưa ra các
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện những điểm yếu, cũng tồn tại trong công tác quản
lý dự án đầu tư tại Chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico.
3. Nhiệm vụ của đề án

Từ thực trạng để đưa ra các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý dự án
được đề án nghiên cứu, đề xuất không chỉ ở công tác quản lý tại cơ quan công ty,
mà cũng tại các Ban quản lý dự án, đồng thời đề xuất phương hướng phát triển của
các Ban quản lý dự án sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đây cũng là một vấn đề cần
giải quyết đối với hầu hết các Ban quản lý dự án hiện nay, sau khi kết thúc dự án
bàn giao đưa vào sản xuất
4. Giới hạn của đề án
Đề án nghiên cứu các hoạt động của dự án đầu tư tại Chi nhánh mỏ tuyển
đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico từ năm 2013 - 2016


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ
DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Khi đánh giá một dự án đầu tư của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như tổ
chức quản lý thực hiện dự án, trước hết chúng ta cần hiểu ra những khái niệm cơ
bản về dự án đầu tư cũng như phương pháp quản lý dự án. Trên cơ sở những khái
niệm đầu tiên này, mỗi dự án lại có những tính chất, đặc điểm riêng mà để phân
tích hiệu quả của mỗi dự án đó chúng ta phải dùng những khái niệm cơ bản làm
thước đo để đánh giá bản chất của vấn đề. Trước hết ta hãy xem bản chất của đầu
tư, dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư.
1.1. khái niện cơ bản về đầu tư
Luật đầu tư 2017 số 67/2014/QH13 được Quốc hội ban hành ngày
26/11/2014 sửa đổi một số điều của Luật đầu tư số 59/2005-QH11 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hoạt động đầu tư (gọi tất là đầu tư) là
quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và
các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung. Xuất phát
từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, có thể có những cách hiểu
khác nhau về đầu tư.

Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có
thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt
được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và
nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất
kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích
kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau đây:


- Trước hết phải có vốn. Vốn có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản khác
như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền sở hữu
công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, giá trị
quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài nguyên khác. Vốn có thể là
nguồn vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ phần, vốn vay dài hạn, trung
hạn, ngắn hạn.
- Một đặc điểm khác của đầu tư là thời gian tương đối dài, thường từ 2 năm
trở lên, có thể đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những hoạt
động ngắn hạn trong vòng một năm tài chính không được gọi là đầu tư. Thời hạn
đầu tư được ghi rõ trong quyết định đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư và còn được coi
là đời sống của dự án.
- Lợi ích do đầu tư mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính
(biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua chỉ tiêu kinh tế
xã hội). Lợi ích kinh tế xã hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích tài

chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ đầu tư, còn gọi lợi ích kinh tế ảnh
hưởng đến quyền lợi của xã hội, của cộng đồng
1.2. Khái niệm về dự án và dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm về dự án
Ở trên chúng ta đó nhắc đến khái niệm “dự án”, vậy “dự án” là gì và các
khía cạnh đa dạng và phong phú của công tác điều hành dự án như thế nào? Để trả
lời cho câu hỏi này, chúng ta sẽ đưa ra khái niệm về dự án và xem xét cách triển
khai dự án.
Theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu dự án là một lĩnh vực hoạt
động đặt thù, một nhiệm vụ cần phải được thực hiện với phương pháp riêng,
nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới. Dự án
không chỉ là một ý định phác thảo mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định, dự án
không phải là một nghiên cứu trau tượng mà tạo nên một thực thể mới, là một nỗ
lực có thời hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ duy nhất. Trên phương
diện quản lý, có thể định nghĩa Dự án là những nỗ lực có thời hạn nhằm tạo ra
những sản phẩm/ dịch vụ duy nhất. Nỗ lực có thời hạn có nghĩa là mọi dự án đầu
tư đều có điểm bắt đầu và kết thúc xác định. Một số đặc cơ bản của dự án như sau:
- Dự án có mục đích, kết quả xác định, có chu kỳ phát triển riêng và có thời
gian tồn tại hữu hạn
- Sản phẩm của dự án mang tính chất đơn chiếc, độc đáo (mới lạ), môi
trường hoạt động “va chạm”, tính bất định và độ rủi ro cao.


- Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp giữa các bộ
phận quản lý chức năng với quản lý dự án. Để thực hiện thành công mục tiêu của
dự án, các nhà quản lý dự án cần phải duy trì thường xuyên mối quan hệ với các
bộ phận quản lý khác.
Để hiểu một cách đúng đắn ý nghĩa của từ “dự án”, phải lấy của cả hai mặt:
ý tưởng và hành động. Do đó chúng ta có thể định nghĩa: thực hiện một dự án là
xác định và dẫn dắt đến thành công một tổ hợp các hành động, quyết định và hàng

loạt các công việc phụ thuộc lẫn nhau trong một chuỗi liên kết nhằm:
Đáp ứng một nhu cầu đó đề ra;
Chịu sự ràng buộc bởi kỳ hạn và nguồn lực;
Thực hiện trong một bối cảnh không chắc chắn.
Chúng ta nói dự án nhằm đáp ứng một nhu cầu đó đề ra bởi vì dự án được
xuất phát từ một ý tưởng, ý tưởng bắt nguồn từ một cơ hội. Cơ hội này cóthể trở
thành một hiện thực hay không thì quá trình thực hiện dự án phải được tiến hành. Nếu
không có một nhu cầu cụ thể sẽ không có dự án.
Bất kỳ dự án nào cũng chịu sự ràng buộc bởi kỳ hạn vì mỗi mục tiêu mỗi
nhu cầu đều chỉ xuất hiện theo từng thời điểm. Có thể trong giai đoạn trước mắt
tồn tại mục tiêu đó song nếu dự án chỉ được hoàn thành sau thời điểm dự kiến thì
có thể mục tiêu đó không cũng hoặc giảm hiệu quả lợi ích. Bất kỳ sự trễ hạn nào
cũng kéo theo một chuỗi nhiều biến cố bất lợi như bội chi, khó tổ chức lại nguồn
lực, tiến độ cung cấp thiết bị vật tư…không đáp ứng được nhu cầu sản phẩm vào
đúng thời điểm mà cơ hội xuất hiện như dự án ban đầu.
Dự án thường bị ràng buộc về nguồn lực vì khi nhắc đến dự án, người ta
nhìn thấy ngay các khoản chi phí: tiền bạc, phương tiện, dụng cụ, thời gian, trớ
tuệ… Các nguồn lực này ràng buộc chặt chẽ với nhau và tạo nên khuân khổ của
dự án. Vì khối lượng chi phí nguồn lực cho dự án là một thông số then chốt phản
ánh mức độ thành công của dự án đối với những dự án có quy mô lớn. Hầu hết các
dự án có quy mô lớn đều phải trải qua những thời kỳ khó khăn vì bất kỳ một quyết
định nào cũng bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ: chủ đầu tư, nhà tư vấn và các
nhà thầu bên cạnh các đối tác cung cấp vốn, nhân lực, vật tư và các tổ hợp công
nghệ, kỹ thuật…
Vấn đề ràng buộc cuối cùng của dự án là dự án luôn tồn tại trong một môi
trường không chắc chắn. Tất cả các loại dự án quy mô nhỏ hay quy mô lớn đều
được triển khai trong một môi trường luôn biến đổi. Công tác điều hành dự án do
vậy phải tính đến hiện tượng này để phân tích và ước lượng các rủi ro, chọn lựa



giải pháp cho một tương lai bất định, đảm nhận và dự kiến những bất lợi có thể
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến dự án, theo dừi và có phản ứng kịp thời
đảm bảo cho việc hoàn thành dự án đúng yêu cầu.
1.2.2. Khái niệm dự án đầu tư
Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng
hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng,
cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ nào đó trong một khoảng thời
gian nhất định. Cùng khái niệm này, Luật đầu tư năm 2014 ghi ”Dự án đầu tư là
tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư
trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định”.
Hay Luật xây dựng ghi ” Dự án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các
đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo
những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng
công trình hoặc sản phẩm/ dịch vụ trong một thời gian nhất định”. Cụ thể là, phát
hiện ra một cơ hội đầu tư và muốn bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, trước
hết nhà đầu tư phải tiến hành thu thập, xử lý thông tin, xác định điều kiện và khả
năng, xác định phương án tối ưu để xây dựng bản dự án đầu tư mang tính khả thi
được gọi tắt là Dự án đầu tư (Luận chứng kinh tế kỹ thuật).
Theo nghĩa khác, Ngân hàng thế giới cho rằng ”Dự án đầu tư là tổng thể
các chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm
đạt những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định”.
Nói một cách tổng quát “dự án đầu tư” là một tập hợp những đề xuất có liên
quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Tính chung của định nghĩa này vẫn nằm trong khuôn khổ các yếu tố: mục
đích, nguồn lực và thời gian. Bất cứ một dự án nào có thể khác nhau về mục tiêu
hay phương tiện cách thức tiến hành nhưng vẫn đảm bảo tính nguyên vẹn của bản
chất dự án.
1.3. Nội dung quản lý dự án đầu tư

Thực tế nội dung chính của quản lý dự án đầu tư bao gồm các công việc
hình thành và thực hiện sau khi đó có dự án đầu tư được phê duyệt. Tuy nhiên,để
có cái nhìn tổng quát về quản lý dự án đầu tư, chỳng ta sẽ nghiên cứu từ quá trình
lập dự án, thẩm định dự án và tổ chức thực hiện quản lý dự án.
1.3.1. Lập dự án đầu tư


Giai đoạn lập dự án chính là giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng cơ
bản hay cũng gọi là giai đoạn chuẩn bị đầu tư, gồm hai công việc chính, đó là:
Thứ nhất: Xây dựng ý tưởng dự án: là việc xác định bức tranh toàn cảnh về
mục tiêu, kết quả cuối cùng và phương pháp thực hiện kết quả đó. Xây dựng ý
tưởng dự án được bắt đầu ngay khi dự án bắt đầu hình thành, trên cơ sở các nguồn
lực của nhà đầu tư và mục tiêu đạt được cuối cùng của dự án.
Thứ hai: Phát triển dự án: phát triển dự án là giai đoạn chi tiết xem dự án
cần được thực hiện như thế nào mà nội dung của nó tập trung vào công tác thiết kế
và lập kế hoạch. Đây là giai đoạn chứa đựng những công việc phức tạp nhất của
một dự án. Nội dung của giai đoạn này bao gồm những công việc sau:
- Thành lập nhóm dự án, xác định cấu trúc tổ chức dự án.
- Lập kế hoạch tổng quan.
- Phân tích công việc của dự án.
- Lập kế hoạch ngân sách.
- Thiết kế sản phẩm và quy trình sản xuất.
- Lập kế hoạch nguồn lực cần thiết.
- Lập kế hoạch chi phí và dự báo dũng tiền thu.
- Xin phê chuẩn thực hiện.
Đối với một dự án lớn, để thực hiện giai đoạn này một cách đầy đủ, đồng
thời để tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hình thành dự án và tiết
kiệm nguồn lực, cần phải thực hiện các bước sau:
- Nghiên cứu và phát hiện cơ hội đầu tư (Lập Báo cáo nghiên cứu cơ hội
đầu tư);

- Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án (Lập Báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi);
- Nghiên cứu tính khả thi của dự án (Lập Báo cáo nghiên cứu khả thi).
Trong tất cả các giai đoạn từ khi chuẩn bị đầu tư đến khi kết thúc xây dựng
đưa dự án vào khai thác vận hành thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư là quan trọng nhất,
nó tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở các giai đoạn sau, đặc
biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư (tiền đầu tư) là giai đoạn quyết định hành động
hay không hành động, triển khai hay không triển khai dự án. Giai đoạn này mang
tính chất nghiên cứu về mọi vấn đề kinh tế, kỹ thuật liên quan đến hình thành dự
án, thực hiện đầu tư xây dựng, vận hành dự án sau khi đưa vào hoạt động. Chính
vì vậy giai đoạn này cũng được gọi là giai đoạn lập Luận chứng kinh tế kỹ thuật.


Từ ý tưởng xuất hiện do một nhu cầu nào đó đến việc luận chứng về mọi khía cạnh
để biến ý tưởng thành thực tế, hay nói cách khác, giai đoạn chuẩn bị đầu tư bắt đầu
từ khi có ý đồ đầu tư cho đến khi được cấp giấy phép đầu tư. Đối với những dự án
đầu tư lớn, giai đoạn này giữ vị trí then chốt. Nó đòi hỏi một đội ngũ chuyên gia
giỏi, làm việc có trách nhiệm.
Kết thúc giai đoạn này là đến giai đoạn thẩm định dự án đầu tư. Thành công
của dự án phụ thuộc khá lớn vào chất lượng và sự chuẩn bị kỹ lượng của các kế
hoạch trong giai đoạn này.
1.3.2. Thẩm định dự án đầu tư
Trong giai đoạn thẩm định dự án đầu tư, Chủ đầu tư cần thẩm tra, đánh giá
lại toàn bộ nội dung dự án đầu tư đó được lập, về cả kinh tế và kỹ thuật, trong đó
bao gồm cả việc thẩm định tổng mức đầu tư và thông qua quyết định đầu tư. Quá
trình này đòi hỏi sự phân tích tổng thể để nhận định các phương án đầu tư khả thi,
đánh giá các khoản chi phí ban đầu, xác định những đặc điểm riêng biệt của dự án
và kết hợp với trực giác nhạy cảm nghề nghiệp, chủ đầu tư ra quyết định đầu tư.
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư được kết thúc bằng quyết định cuối cùng về đầu tư bởi

các nhà đầu tư hoặc các định chế tài chính.
Thông thường công tác thẩm định dự án đầu tư do các cơ quan chuyên môn
của chủ đầu tư thực hiện hoặc có thể hợp đồng với một đơn vị tư vấn để thẩm định
dự án. Ngoài ra, theo quy định của Luật Đầu tư 2015, đối với các dự án vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải được tổ chức cho vay thẩm định và
chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trước khi quyết định
đầu tư.
Theo điều 51 của Luật Xây dựng năm 2014 , dự án đầu tư xây dựng công
trình trước khi quyết định đầu tư phải được thẩm định theo quy định của Chính phủ.
Tổ chức, cá nhân thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định của mình. Người quyết định đầu tư xây
dựng công trình phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình.
1.3.2.1. Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Những yếu tố khác nhau làm nên tổng thể một dự án bao gồm các mặt kỹ
thuật, thị trường, tài chính, luật pháp đều phải được xem xét đánh giá kỹ lưỡng qua
quá trình thẩm định dự án đầu tư.
Thứ nhất, thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án. Thẩm
định tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của


pháp luật, có hợp lệ hay không? Thẩm định mục tiêu của dự án để xem xét tính
phù hợp của dự án đối với các chương trình kinh tế của địa phương, vùng, ngành.
Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành cho phép hoạt động hay ưu
tiên không?
Thứ hai, thẩm định về thị trường của dự án. Cho phép xem xét sản phẩm của
dự án sản xuất ra phục vụ cho đối tượng nào, được kinh doanh trên thị trường địa
phương, trong nước hay xuất khẩu.
Sức mạnh của các đối thủ cạnh tranh và ưu thế của dự án… Xem xét thị
trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô dự án, thiết bị, công nghệ và dự kiến khả
năng tiêu thụ. Độ chính xác của công đoạn này thường không lớn nhưng có vai trò

rất quan trọng, quyết định mức độ thành công của dự án.
Thứ ba, thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án. Thông tin về đời sống của
dự án và tính phù hợp của công nghệ đối với dự án là tiêu thức quan trong trong
công đoạn này. Nắm được thông tin này sẽ tránh cho dự án không bị hao mòn vô
hình quá nhanh.
Khía cạnh này thường được quan tâm ngay từ khi lập dự án, vì các chủ đầu
tư phải ra quyết định lựa chọn trang thiết bị máy móc cũng như dây chuyền công
nghệ. Khâu thẩm định này đòi hỏi sự chính xác trong khâu tính toán thông số kỹ
thuật của dự án, kiểm tra sự phù hợp với điều kiện môi trường của các dây chuyền
sản xuất.
Thứ tư, thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lý. Các dự án đầu tư
muốn hoạt động hiệu quả không thể không tính đến khía cạnh nhân lực và tổ chức
quản lý. Rất nhiều dự án dù tính toán chi phí và hiệu quả kinh tế chính xác vẫn thất
bại khi thực hiện trong điều kiện quản lý yếu kém, thiếu nhân lực có trình độ.
Hiệu quả về kinh tế và tài chính có đạt được như dự tính hay không phụ
thuộc nhiều vào năng lực quản lý của cơ quan có trách nhiệm triển khai dự án.
Thứ năm, thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. Đánh giá hiệu quả
của việc thực thi dự án đối với toàn bộ nền kinh tế là yêu cầu của công đoạn này.
Có những dự án dù hiệu quả về mặt tài chính song cũng có thể bị loại nếu vi phạm
lợi ích kinh tế quốc dân.
Mặt khác, hiện nay các quốc gia đã chú trọng vào việc phát triển đi đôi với
bảo vệ môi trường. Vì vậy, một tác động xấu đến môi trường cũng có thể làm cho
một dự án có hiệu quả cao về mặt tài chính bị loại bỏ.


Thứ sáu, thẩm định khía cạnh tài chính của dự án. Phân tích tài chính là
khâu tối quan trọng của thẩm định dự án, đòi hỏi sự tính toán cùng khả năng tổng
hợp và dự đoán chính xác những dòng tiền của dự án.
Là khâu cung cấp dữ liệu cho việc đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án. Đặc
trưng của hoạt động đầu tư dài hạn là đòi hỏi nguồn lực tài chính to lớn, thời gian

thi công và vận hành dự án kéo dài, gắn liền với nhiều rủi ro, bao gồm cả rủi ro vĩ
mô và rủi ro nội tại của doanh nghiệp.
Cho nên, trước khi thực hiện đầu tư, doanh nghiệp cần thực hiện tốt hoạt
động thẩm định, nhất là công tác thẩm định tài chính, nhằm thực sự lựa chọn được
những dự án đầu tư hiệu quả, góp phần gia tăng giá trị doanh nghiệp
2.3.2.2. Thẩn quyền thẩm định dự án đầu tư
Nghị định số 42/2017/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành ngày 5/4, sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính
phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng. Trong đó, Nghị định 42 đã quy định cụ thể
về thẩm định dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách.
Nghị định đã quy định rõ về cơ quan thẩm định đối với dự án đầu tư xây dựng sử
dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách, cụ thể như sau:
Một là, cơ quan chuyên môn về xây dựng thuộc Bộ quản lý xây dựng
chuyên ngành chủ trì thẩm định thiết kế cơ sở về các nội dung quy định tại khoản
2 Điều 58 của Luật xây dựng năm 2014 (trừ phần thiết kế công nghệ) đối với dự
án do Thủ tướng Chính phủ giao, dự án nhóm A;
Dự án nhóm B, dự án nhóm C (trừ các dự án có yêu cầu lập báo cáo kinh tế
kỹ thuật) do các cơ quan ở trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước do
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (sau đây gọi chung là tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước) hoặc tổng công ty trực thuộc bộ quyết định đầu tư; dự án
được đầu tư xây dựng trên địa bàn hành chính từ 02 tỉnh trở lên, trừ các dự án quy
định tại điểm c, đ khoản này;
Hai là, Sở quản lý công trình xây dựng chuyên ngành chủ trì thẩm định thiết
kế cơ sở về các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 58 của Luật Xây dựng năm
2014 (trừ phần thiết kế công nghệ) đối với các dự án nhóm B, dự án nhóm C được
đầu tư xây dựng trên địa bàn hành chính của tỉnh, trừ các dự án quy định tại các
điểm a, d và đ khoản này;
Ba là, Sở quản lý xây dựng chuyên ngành trực thuộc TP. Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh chủ trì tổ chức thẩm định thiết kế cơ sở của dự án do Ủy ban nhân dân
thành phố quyết định đầu tư;



Bốn là, cơ quan chuyên môn trực thuộc người quyết định đầu tư chủ trì tổ
chức thẩm định thiết kế công nghệ (nếu có) và các nội dung khác của Báo cáo
nghiên cứu khả thi theo quy định tại Điều 58 của Luật xây dựng năm 2014, tổng
hợp kết quả thẩm định, trình phê duyệt dự án; chủ trì thẩm định dự án có nội dung
chủ yếu về mua sắm hàng hóa, cung cấp dịch vụ nhưng có cấu phần xây dựng gồm
các hạng mục công trình, công việc không quyết định đến mục tiêu đầu tư, an toàn
trong vận hành, sử dụng và có giá trị chi phí phần xây dựng dưới 05 tỷ đồng;
Năm là, trường hợp tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có đủ điều kiện
năng lực và có đề nghị được tự tổ chức thẩm định, Bộ trưởng Bộ quản lý xây dựng
chuyên ngành quyết định việc phân cấp, ủy quyền cho tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước chủ trì tổ chức thẩm định dự án đầu tư xây dựng đối với dự án nhóm
B, dự án nhóm C có công trình xây dựng từ cấp II trở xuống do tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước quyết định đầu tư thuộc chuyên ngành do Bộ quản lý xây
dựng chuyên ngành quản lý.
Việc phân cấp, ủy quyền phải đảm bảo các nguyên tắc, điều kiện theo quy
định của pháp luật. Người được phân cấp, ủy quyền thẩm định chịu trách nhiệm về
kết quả thẩm định do mình thực hiện. Kết quả thẩm định phải được gửi đến cơ
quan chuyên môn về xây dựng thuộc Bộ quản lý xây dựng chuyên ngành để theo
dõi, quản lý theo quy định
1.3.3. Thực hiện đầu tư
Tổ chức thực hiện quản lý dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư là nội dung
chính của công tác quản lý dự án đầu tư, được thực hiện sau khi dự án đầu tư đó
được hình thành và phê duyệt. Cũng ở các giai đoạn lập và thẩm định dự án đầu tư
thực chất là công tác chuẩn bị đầu tư, giai đoạn này dự án chưa được hình thành
trên thực tế (chưa quyết định đầu tư) . Do vậy, để ngắn gọn, sau đây chúng ta gọi
tắt công tác quản lý dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư là quản lý dự án đầu tư.
Quản lý dự án đầu tư là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn
lực và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành

đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt được các yêu cầu đó
định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng những phương pháp và
điều kiện tốt nhất cho phép. Mục tiêu của quản lý dự án được mô tả về mặt toán
học theo công thức C = f(P, T, S). Trong đó, C là chi phí, P là mức độ hoàn thành
công việc, T là thời gian thực hiện, S là phạm vi dự án.
Công thức trên cho thấy, chi phí của dự án tăng lên khi chất lượng hoàn
thiện công việc tốt hơn, thời gian kéo dài thêm và phạm vi dự án được mở rộng.


Nếu thời gian thực hiện dự án bị kéo dài, gặp trường hợp giá nguyên vật liệu tăng
cao sẽ phát sinh tăng chi phí, dẫn đến tỡnh trạng làm việc kém hiệu quả do công
nhân mệt mỏi vì chờ đợi, thời gian máy chết tăng theo, chi phí lãi vay ngắn hạn
tăng, chi phí cho bộ phận gián tiếp tăng. Ba mục tiêu quản lý dự án đầu tư có quan
hệ chặt chẽ với nhau.
Quản lý dự án là một dạng đặt biệt trong hoạt động quản lý. Giữa các hoạt
động sản xuất liên tục trong các doanh nghiệp và quản lý dự án có nhiều điểm
giống nhau vì đều dựa trên những nguyên tắc quan trọng và các phương pháp của
khoa học quản lý (như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp quản lý
theo mục tiêu, phương pháp quản lý tối thiểu hoỏ chi phớ, phương pháp phân bố
đều nguồn lực). Tuy nhiên, có nhiều điểm khác nhau:
- Phương pháp quản lý dự án: theo mục tiêu cần đạt, thường ứng dụng trong
việc lập kế hoạch và giám sát dự án; Tối thiểu hóa chi phí được sử dụng để rút
ngắn thời gian thực hiện dự án; Phân bố đều nguồn lực trong một thời kỳ sao cho
chi phí là tiết kiệm nhất mà vẫn đảm bảo thời gian hoàn thành.
- Đặc điểm của quản lý dự án: tổ chức quản lý dự án là một tổ chức tạm
thời, được hình thành để phục vụ dự án trong một thời gian hữu hạn, quản lý rủi ro
một cách thường xuyờn, quản lý nhiều sự thay đổi, quản lý nhân sự giữ vị trí quan
trọng trong quản lý dự án, Lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp sẽ có tác dụng phân
ra trách nhiệm và quyền lực trong quản lý dự án, đảm bảo thực hiện thành công dự
án.

Bảng 1.1 trình bày những điểm khác nhau chủ yếu giữa quá trình sản xuất
liên tục với hoạt động phát triển và quản lý dự án.
Bảng 1.2 trình bày tóm t ắ t những l ĩ n h vực quản lý chính của công tác
quản lý dự án đầu tư.
Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa quản lý sản xuất và quản lý dự án đầu tư
Quá trình quản lý sản xuất

Quản lý dự án

Nhiệm vụ có tính lặp lại liên tục

Nhiệm vụ luôn có tính chất mới mẻ

Tỷ lệ sử dụng nguồn lực thấp

Tỷ lệ sử dụng nguồn lực cao

Một khối lượng lớn hàng hóa dịch Tâp trung vào một loại nhất định
vụ được sản xuất trong một thời kỳ hàng hóa hoặc dịch vụ (đơn chiếc)


Thời gian tồn tại của các doanh Thời gian tồn tại của dự án, Ban
nghiệp là lâu dài
quản lý dự án là có giới hạn
Các số liệu thống kê sẵn có và hữu Các số liệu thống kê ít có nên không
ích đối với việc ra quyết định
được sử dụng nhiều trong các quyết
định về dự án
Tổ chức theo tổ nhóm là phổ biến


Nhân sự mới cho mỗi dự án

Không quá tốn kém khi chuộc lại
sai lầm

Phải trả giá đắt cho các quyết định
sai lầm

Trỏch nhiệm ra ràng và được điều Phân chia trách nhiệm thay đổi tuỳ
chỉnh qua thời gian
thuộc vào tính chất của từng dự án
Môi trường làm việc tương đối ổn
định, lâu dài

Môi trường làm việc thường xuyên
thay đổi theo dụ án


Bảng 1.2: Các lĩnh vực quản lý, theo dừi của quản lý dự án đầu tư

Các lĩnh vực quản lý dự án

Lập kế hoạch
tổng quan
Lập kế hoạch
Thực hiện kế hoạch
Quản lý những thay
đổi

Quản lý

phạm vi
Xác định phạm vi
Lập kế hoạch phạm vi
Quản lý thay đổi

Quản lý
thời gian
Xác định công việc
Dự tính thời gian
Quản lý tiến độ

Quản lý chi phí

Quản lý chất lượng

Quản lý nhân lực

Lập kế
hoạch nguồn
lực
Tính toán chi phí
Lập dự toán
Quản lý chi phí

Lập kế hoạch
chất lượng
Đảm bảo chất
lượng
Quản lý chất lượng


Lập kế hoạch nhân
lực
Tuyển dụng
Quản lý
lương, thưởng

Quản lý rủi ro dự án

Quản lý cung ứng

Quản lý thông tin
Lập kế hoạch
quản lý thông tin
Phân phối thông tin
Báo cáo tiến độ

Xác định rủi ro
Chương trình quản
lý rủi ro
Phản ứng đối
với rủi ro

Kế hoạch cung ứng
Chọn nhà cung ứng
Quản lý hợp đồng
Quản lý tiến độ
cung ứng

Chu kỳ dự án: thời gian thực hiện dự án dài và có độ bất định nên các tổ chức
thường chia dự án thành một số giai đoạn để quản lý thực hiện. Mỗi giai



đoạn được đánh dấu bởi việc thực hiện một hoặc nhiều công việc. Tổng hợp các
giai đoạn này được gọi là chu kỳ của dự án. Chu kỳ dự án xác định thời điểm
bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn thực hiện dự án, xác định những công
việc nào sẽ được thực hiện trong từng giai đoạn và ai sẽ tham gia thực hiện. Chu
Nguồn lực

Thời gian
kỳ của một dự án công nghiệp thường được chia thành 4 giai đoạn như trình bày
trên hình 1.1 .
Xây dựng
ý tưởng

Giai đoạn
phát triển

Giai đoạn
triển khai

Giai đoạn
kết thúc

Hình 1.1: Các giai đoạn của chu kỳ dự án
Quản lý dự án bao gồm ba nội dung chủ yếu thể hiện trên hình 1.2:
Lập kế hoạch
Thiết lập mục tiêu
- Dự tính nguồn lực
- Xây dựng kế hoạch


Kiểm soát
- Đo lườngkết quả
- So sánh với mục tiêu
- Báo cáo
Giải quyết các vấn đề

Điều phối thực hiện
- Bố trí tiến độ thời gian
- Phân phối nguồn lực
- Phối hợp các hoạt động
Khuyến khích động viên


Chương 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI
NHÁNH MỎ ĐỒNG SIN QUYỀN, LÀO CAI VIMICO
2.1. Giới thiệu về chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin quyền, Lào
Cai Vimico
2.1.1. Đặc điểm tình hình chung
Mỏ đồng Sin Quyền nằm trên địa bàn 2 xã Bản Vược và Cốc Mỳ thuộc
Huyện Bát Xát, Tỉnh Lào Cai. Mỏ đồng được phát hiện vào năm 1961, từ năm
1961 đến năm 1973 đã tiến hành công tác tìm kiếm và hoàn tất công tác khai thác
thăm dò vào năm 1974 do đoàn địa chất 5 thực hiện và đã được tổng cục địa chất
Việt nam phê chuẩn. Sau đó mỏ đồng Sin Quyền tiếp tục được thăm dò ,tìm kiếm
mở rộng từ năm 1976 đến năm 1982 với kết quả la mỏ đồng Sin Quyền có 17
thân quặng đạt trữ lượng B+C1+C2 = 53.505.028 tấn quặng,hàm lượng trung
bình Cu = 1,03% tương đương với 551.254 tấn đồng kim loại,334.000 tấn oxyt
đất hiếm(R203), 35 tấn Au, 25 tấn Ag.
Công ty Mỏ tuyển đồng Sin quyền tiền thân là xí nghiệp mỏ tuyển đồng Sin
Quyền Lào Cai.Từ năm 1992, xí nghiệp liên doanh đồng Lào Cai được thành lập

là đơn vị liên doanh khai thác, chế biến quặng đồng giữa công ty Kim loại màu
Thái Nguyên thuộc tổng công ty khoáng sản việt Nam và công ty Khoáng sản
Lào cai thuộc Sở công nghiệp tỉnh lào cai. Đến hết năm 2003, Liên doanh đã
khai thác được khoảng 500.000 tấn quặng nguyên khai và chế biến được 33.768
tấn tinh quặng 18%Cu. Ngày 17/09/2003 dự án đồng Sin quyền đã được khởi
công xây dựng bao gồm các khu khai thác và nhà máy tuyển quặng, đến hết năm
2005 khu mỏ được xây dựng xong đến tháng 2 năm 2006 tiến hành chạy thử và
sau đó đi vào sản xuất.
Xí nghiệp mỏ tuyển đồng Sin quyền Lào Cai được đổi tên thành Công ty
Mỏ tuyển đồng sin quyền từ ngày 01/08/2006 theo quyết định số 1960/QĐTCCB của tập đoàn Công nghiệp than –khoáng sản Việt Nam.
Công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền là 1 trong những công ty con của tổng
công ty khoáng sản TKV thuộc tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam. Công ty
thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước hạng 2. Là 1 doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân đầy đủ, có con dấu, hạch toán kinh tế phụ thuộc trực thuộc tổng công
ty khoáng sản TKV, được mở tài khoản chuyển chi tại ngân hàng theo phân cấp


và ủy quyền của Tổng công ty khoáng sản TKV.
Công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền là 1 trong những doanh nghiệp có quy
mô sản xuất lớn trên địa bàn tỉnh Lào Cai.Ngay sau khi thành lập công ty đã
không ngừng lớn mạnh và phát triển, công ty luôn đi đầu trong việc chấp hành
nghiêm chỉnh các chính sách và pháp luật của nhà nước, tạo nguồn thu lớn cho
ngân sách nhà nước.
-Công ty có tên giao dịch: Công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền.
-Tên giao dịch quốc tế: Vimico- Sin Quyen Cooper Mining and
Prepration Company.
-Địa chỉ: xã Bản Vược – Huyện Bát Xát – Tỉnh Lào Cai.
-Điện thoại: 020.3898 760
Fax: 020.38987 711
* Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty:

- Thăm dò, khai thác, vận chuyển, tuyển quặng đồng và các khoáng sản
khác để cung cấp cho công ty luyện đồng của tổng công ty hoặc tiêu thụ ra thị
trường trong và ngoài nước theo hợp đồng của tổng công ty giao.
- Thiết kế, gia công, chế tạo, sửa chữa thiết bị, dụng cụ khai thác, tuyển
khoáng, vận tải, và các thiết bị phục vụ kinh doanh của công ty.
2.1.2. Bộ máy tổ chức công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền
Cơ cấu tổ chức công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền
Hiện nay Công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền có 566 cán bộ công nhân
viên, bao gồm 9 phòng ban chức năng và 3 phân xưởng.
* 9 phòng ban chức năng bao gồm:
-Phòng kĩ thuật
-Phòng kế hoạch vật tư
-Phòng tài chính kế toán
-Phòng KCS
-Phòng cơ điện vận tải
-Phòng tổ chức hành chính
-Phòng bảo vệ
-Phòng đầu tư xây dựng cơ bản
-Phòng an toàn môi trường
*3 phân xưởng:
-Phân xưởng khai thác
-Phân xưởng tuyển khoáng
-Phân xưởng Cơ điện – Vận tải.
Trong dó:
+ Phân xưởng khai thác: Có nhiệm vụ quản lý và sử dụng toàn bộ thiết bị,
lao động nhà xưởng, công cụ, dụng cụ …của phân xưởng theo các nội quy, quy


chế, quy định do công ty và tổng công ty ban hành để thực hiện công tác khoan,
xúc bốc, vận chuyển đất đá thải, quặng đồng trong khu vực mỏ tuyển đồng sin

quyền. Có trách nhiệm xây dựng các nội dung, các quy chế chấm công chấm
điểm, quy chế làm việc các cấp trong phân xưởng.
+ Phân xưởng tuyển khoáng: Quản lý và sử dụng toàn bộ thiết bị, lao
động, nhà xưởng, công cụ … của phân xưởng theo các nội quy, quy chế, quy
định, do công ty và tổng công ty ban hành để thực hiện công tác tuyển tinh quặng
đồng, tinh quặng sắt và các sản phẩm khác trong khu vực mỏ tuyển đồng sin
Quyền cũng như các công việc cụ thể khác khi công ty yêu cầu.
+ Phân xưởng vận tải cơ điện: có chức năng quản lý và sử dụng toàn bộ thiết
bị, lao động, nhà xưởng…của phân xưởng theo các nội quy, quy chế của công ty để
thực hiện công tác bảo dưỡng,sửa chữa thiết bị khai thác từ cấp 1000h trở lên, thực
hiện công tác gia công chế tạo vật tư thiết bị cho phân xưởng tuyển khoáng và phân
xưởng khai thác, công tác vận tải các loại sản phẩm tiêu thụ theo phân cấp của công
ty.
* Sơ đồ cơ cấu tổ chức:
Sơ đồ tổ chức của công ty được bố trí theo kiểu trực tuyến - chức năng, giám
đốc là người điều hành chung và mối liên hệ giữa cấp dưới và giám đốc là 1
đường thẳng, cách bố trí cơ cấu tổ chức như thế này giúp giám đốc có thể quản lý
công ty 1 cách hiệu quả hơn. Cơ cấu tổ chức của Công ty Mỏ tuyển đồng Sin
Quyền có cơ cấu tổ chức hợp lý,có sự phân cấp rõ ràng về chức năng nhiệm vụ
của các phòng ban và các phân xưởng đã tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất của
công ty ngày càng phát triển dời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty
ngày càng được cải thiện thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty luôn
ổn định và đạt mức cao.


Giám đốc

Phó giám đôc 1

Phòng

an
toàn
môi
trường

Phòng
đầu tư
xây
dựng
cơ bản

Phó giám đốc 2

Phòng
kỹ
thuật
sản
xuất

Phân xưởng khai
thác

Phòng
kế
toán
tài
chính

Phòng
tổ

chức
hành
chính

Phân xưởng tuyển
khoáng

Phòng
kiểm tra
chất
lượng
sản
phẩm

Phòng
kế
hoạch
vật tư

Phòng
bảo vệ

Phân xưởng cơ
điện vận tải

Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền

Phân
xưởng


điện


2.1.3. Kết quả kinh doanh của công ty
Bảng 1: Bảng tổng hợp kết quả kinh doanh công ty Mỏ tuyển đồng Sin quyền
năm 2007 – 2008.
Các chỉ tiêu
Quặng nguyên khai khai
thác
Tuyển khoáng tinh quặng
đồng 25% Cu
Tuyển khoáng tinh quặng
sắt 65% Fe
Bốc đất đá
Sản phẩm tiêu thụ tinh
quặng đồng
Sản phẩm tiêu thụ tinh
quặng sắt
Giá trị tổng doanh thu
Lợi nhuận
Thu nhập bình quân

Đơn vị
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Tỉ đồng
Tỉ đồng
Tỉ đồng

Tỉ đồng
đồng

Năm 2007

Năm 2008

1.166.830

1.276.600

38.250

40.000

41.292

42.050

3.145.843

3.586.370

165,92

164,54

58,71

58,92


282,265
296,05
2,23
2,97
3.000.000
3.200.000
( Nguồn: Phòng kế toán tài chính)
Công ty mỏ tuyển đồng sin quyền là công ty trực thuộc tổng công ty khoáng sản
TKV, hoạt động theo hình thức hạch toán phụ thuộc vào tổng công ty. Các sản lượng
công ty khai thác theo định mức dưới tổng công ty yêu cầu. Nhìn vaò bảng tổng hợp
kết quả kinh doanh của công ty ta thấy 2 năm 2007, 2008 đều là 2 năm kinh doanh có
lãi của công ty. Mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn vào những tháng cuối năm 2008 do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với hầu hết các công ty khoáng sản,
giá bán các tinh quặng khoáng sản trên thị trường thế giới giảm có khi giảm mạnh,
dẫn đến nhiều công ty khoáng sản trên cả nước phải nghỉ việc, hoặc cho công nhân
nghỉ sớm,tiến hành giãn thợ…vì sản phẩm làm ra không bán được.Trong tình hình
đó công ty Mỏ tuyển đồng Sin quyền là 1 trong những công ty vẫn tiếp tục duy trì sản
xuất, đảm bảo mức sống cho công nhân. Do vậy mà giá trị sản phẩm tinh quặng đồng
năm 2008 thấp hơn năm 2007, giá trị sản phẩm tinh quặng sắt có tăng chút ít nhưng
không đáng kể mặc dù sản lượng khai thác nhiều hơn. Đầu năm 2009 tình hình có vẻ
được cải thiện hơn, giá bán các sản phẩm tinh quặng khoáng sản trên thị trường thế
giới bắt đầu tăng trở lại, công ty lại tiếp tục sản xuất theo đúng tiến độ mà tổng công


ty yêu cầu.
2.1.4. Thị trương hàng hóa, dịch vụ
Sản lượng đồng khai thác của công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền dự kiến là 1,0
đến 1,2 triệu tấn quặng nguyên khai.
Trong đó sản lượng hàng năm nhà máy tuyển được là:

+Tinh quặng đồng 25,6% Cu :40.000 tấn
+Tinh quặng pyrit 40% S : 17.600 tấn
+Tinh quặng manhetit 65% Fe : 89.300 tấn
+Tinh quặng đất hiếm 60% ReO : 2740 tấn.
Các sản phẩm mà nhà máy tuyển đồng Sin quyền làm ra được tiêu thụ chủ yếu
theo kế hoạch tiêu thụ, phân bổ của Tổng công ty Than – Khoáng sản Việt Nam TKV.
Trong đó phần lớn các tinh quặng đồng được vận chuyển tới nhà máy luyện thuộc tổ
hợp đồng Sin Quyền tại xã Tằng Loong – Huyện Bảo Thắng –Tỉnh Lào Cai.Tại nhà
máy luyện các sản phẩm từ tinh quặng đồng được sản xuất ra là: đồng điện phân
99,95% ,vàng thỏi 99,95% Au, bạc thỏi 99,95% Ag, axit sunfuric 98%. Các sản phẩm
tinh quặng đồng và các tinh quặng khác công ty còn giành cho việc xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.Ngoài ra từ
quặng thải đồng Sin Quyền công ty còn sản xuất ra hàng trăm tấn quặng manhetit
siêu mịn chủ yếu cung cấp cho 2 nhà máy tuyển than Hòn Gai và Cửa Ông, chất
lượng tương đương manhemit nhập từ CHLB Nga,nhưng giá thành thấp hơn. Mặt
khác manhemit do công ty Mỏ tuyển đồng Sin quyền sản xuất ra có ưu điển hơn
manhemit nhập từ Nga vì hàm lượng quặng có từ tính hơn 400 Gaus đạt trên 93%, do
đó giảm đáng kể tổn thất manhemit khi sử dụng là chất tạo huyền phù tuyển than.
2.1.5. Cơ sơ vật chất của công ty
Tổ hợp đồng Sin Quyền được xây dựng với sự giúp đỡ kĩ thuật của Trung Quốc,
đó là 1 hệ thống máy móc nhà xưởng hiện đại được xây dựng,lắp đặt dưới sự giám
sát của các chuyên gia Trung Quốc và các công ty xây dựng hàng đầu của Việt Nam.
Các công nghệ sử dụng trong sản xuất của công ty:
- Công nghệ khai thác: lộ thiên kết hợp với hầm lò.Nếu mỏ khai thác với sản
lượng 1,0 – 1,5 triệu tấn quặng/năm thì thời gian khai thác là 40 năm, trong đó 16
năm khai thác lộ thiên và 24 năm khai thác hầm lò.
- Công nghệ tuyển khoáng: bao gồm các bước là: đập nghiền – tuyển nổi lấy


tinh quặng thô – nghiền lại tinh quặng thô – tuyển nổi chọn riêng tinh quặng

đồng,tinh quặng pyrit, tinh quặng đất hiếm. Quặng đuôi cho qua tuyển từ để thu hồi
tinh quặng sắt. Công nghệ khử nước được thực hiện theo 2 giai đoạn cô đặc và lọc.
Tinh quặng đồng được làm khô bằng máy lọc sứ.
- Công nghệ luyện kim: áp dụng phương pháp Thủy Khẩu Sơn ( luyện bể) của
Trung quốc, thổi luyện Sten đồng trong lò để chuyển ra đồng thô rồi tinh luyện bằng
điện phân, xử lý bùn dương cực để thu hồi vàng bạc. Thu hồi khí lò luyện kim có
chứa khí SO2 để sản xuất axit sunfuri
2.2. Thực trạng công tác quản lý các dự án tại công ty mỏ đồng Sin Quyền
2.2.1. Phân tích công tác Lập dự án đầu tư
Tuỳ theo mức độ phức tạp của dự án đầu tư Báo cáo nghiên cứu khả thi thường
được chủ đầu tư lập hoặc thuê các đơn vị tư vấn trong hoặc ngoài Công ty thực hiện. Hầu
hết các báo cáo đầu tư đều do chủ đầu tư lập, có trường hợp thuê tư vấn lập. Các dự
án được lập theo các quy định hiện hành (theo Nghị định 52,12, 07 và các Nghị định
thay thế như Nghị định 16, 112). Các bản Thiết kế kỹ thuật đều do tư vấn lập. Các dự
án thiết kế kỹ thuật do các đơn vị tư vấn lập đầy đủ hơn so với các dự án chủ đầu tư
lập do tư vấn có tính chuyên nghiệp cao hơn. Các dự án khai thác, tuyển quặng hầu
hết đều do Viện Nghiên cứu Mỏ và Luyện kim lập; Các dự án mở rộng mỏ, bến cảng,
đường vận tải… chủ yếu đều do Công ty tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp lập. Các dự
án về bảo vệ môi trường do Công ty Phát triển Tin học, Công nghệ và Môi trường lập.
Các đơn vị tư vấn của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và
Bộ Công nghiệp trong các năm qua đã có nhiều cố gắng, sắp xếp lại tổ chức, tăng
cường lực lượng, đầu tư cơ sở vật chất, trang bị thêm các máy móc thiết bị trợ giúp
công nghệ cao… để thực hiện các nhiệm vụ tư vấn cho các dự án của Công ty, triển
khai lập và duyệt 5 dự án các loại năm 2015 và trên 10 dự án năm 2016.
Các dự án do tư vấn thực hiện đã phần lớn đáp ứng được yêu cầu đầu tư trong
các năm 2014 - 2015 và các năm sau, đặc biệt là các dự án trọng điểm. Tuy nhiên, vẫn
cũng nhiều tồn tại như chất lượng dự án chưa cao, có một số dự án phải sửa đổi, bổ
sung nhiều lần làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, thời gian thực hiện công tác tư
vấn cũng chậm… Một số đơn vị (chủ đầu tư) chưa thật sự chú trọng nghiên cứu
phương hướng phát triển dài hạn về đầu tư xây dựng do đơn vị quản lý để có yêu cầu

chính xác cho cơ quan tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi và thẩm định để trình


duyệt dự án nhất là một số dự án khai thác mở. Tư vấn cũng thiếu tính độc lập khách
quan, nhiều trường hợp lập dự án theo ý chí chủ quan của chủ đầu tư, bị gũ ép thiếu
tính khoa học. Nhiều dự án lập theo ý chí chủ quan của các chủ đầu tư do đó mục
tiêu chỉ là hiệu quả khai thác mà không xem xét đến các ảnh hưởng khác của dự
án. Một số dự án, tư vấn đã cố tìm cách cho dự án có hiệu quả mà không có những
giải pháp tư vấn hữu ích để chứng minh hiệu quả thực của dự án. Chưa tập trung
lập các dự án dài hạn mà vẫn lập nhiều dự án nhỏ, vì vậy khối lượng dự án nhiều
nhưng chất lượng cũng hạn chế, tốn nhiều thời gian.
Cần phải chấm dứt các thiếu sót trên, khắc phục nhanh nhất việc chia nhỏ dự
án. Công tác tư vấn cần được đổi mới về chất lượng và dần rút ngắn thời gian lập dự
án để đáp ứng được tốc độ đầu tư tăng mạnh của các năm tới. Với tốc độ và khối
lượng đầu tư như hiện nay và những năm tới, nếu không có những giải pháp quyết liệt
để nâng công tác chuẩn bị đầu tư ngang tầm với yêu cầu tốc độ đầu tư thì chính nó sẽ
là cản trở việc thực hiện các Quy hoạch phát triển ngành khai khoáng mỏ đồng Sin
Quyền
Vì tầm quan trọng của công tác chuẩn bị đầu tư là một trong những khâu đầu
tiên của quá trình đầu tư mà tư vấn là người tham gia chủ yếu. Các đơn vị tư vấn cần
phải thực hiện những giải pháp cấp bách như đầu tư thêm trang thiết bị tin học, công
công nghệ thông tin, phần mềm chuyên dụng hữu ích đủ mạnh để phục vụ thiết kế;
đào tạo nhân lực, chuyên gia, hợp tác tư vấn giữa các đơn vị tư vấn trong, ngoài ngành
2.2.2. Phân tích công tác thẩm định dự án
Các dự án do đơn vị tư vấn lập đều được chủ đầu tư thẩm định sơ bộ trước khi
trình cấp thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, việc thẩm định của một số chủ đầu tư đối
với một số dự án cũng quá hời hợt, thiếu trách nhiệm nên chất lượng của một số dự án
khi trình duyệt rất thấp, phải bổ sung giải trình nhiều lần, đặc biệt là các dự án về khai
thác quặng và các dự án chế biến sâu, dẫn đến thời gian hoàn tất phê duyệt dự án kéo
dài. Vấn đề này một phần đã được khắc phục so với trước năm 2011 nhưng vẫn là một

tồn tại lớn, cần phải nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có các biện pháp khắc phục
nhanh nhất.
Trong khoảng 6 năm trở lại đây, Công ty đã tổ chức thẩm định khoảng hơn 30
dự án lớn nhỏ và đã được ban Giám đốc Công ty và Hội đồng quản trị tổng Công ty
phê duyệt, đáp ứng phần lớn tiến độ công tác thực hiện đầu tư của các đơn vị thành


viên và có sự chuẩn bị đáng kể cho các năm tiếp theo. Công tác thẩm định dự án
cũng từ đó được tổ chức chặt chẽ hơn, vì vậy thời gian thẩm định các dự án đã được
rút ngắn hơn các năm trước, nhất là các dự án trọng điểm đã được tập trung thẩm định
nhanh nhất. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như chất lượng một số dự án
thấp, phải bổ sung giải trình nhiều lần, số lượng dự án quá nhiều, việc tổ chức thẩm
định chưa hợp lý dẫn đến thời gian của quá trình thẩm định không đảm bảo theo quy
định, bị kéo dài, đặc biệt là các dự án về mỏ như nêu ở trên. Các dự án được giao cho
chủ đầu tư quyết định phê duyệt theo uỷ quyền được thẩm định và phê duyệt nhanh,
đáp ứng kịp thời cho việc triển khai thực hiện. Tuy nhiên, việc thẩm định thường
không được chi tiết theo quy định, ở một số đơn vị vẫn cũng áp dụng hội nghị thẩm
định và lập biên bản, một số ít quyết định cũng sai sót. Chất lượng dự án thấp do lực
lượng quản lý đầu tư của nhiều chủ đầu tư cũng thiếu năng lực về chuyên môn và
nghiệp vụ. Có nhiều dự án cũng sử dụng sai nguồn vốn. Một số công trình kiến trúc,
chủ đầu tư thực hiện cải tạo nâng cấp song lại sử dụng vốn sửa chữa chi vào giá
thành, khi bị xuất toán lại phải làm thủ tục đầu tư theo quy định. Có chủ đầu tư cũng
quyết định tràn lan, vay vốn nhưng không xác định được nguồn trả nợ. Đặc biệt việc
phân cấp quản lý, quyết định đầu tư, xét duyệt thiết kế khả thi, đấu thầu các công trình
xây dựng kiến trúc có nhiều vấn đề. Một vài đơn vị tự quyết định đầu tư dự án theo uỷ
quyền nhưng không thực hiện chủ trương đấu thầu chung để mua sắm thiết bị của
Công ty. Một số chủ đầu tư đã thi công trước công trình khi chưa được phê duyệt thiết
kế bản vẽ thi công mà công trình chưa thực sự đến mức cấp bách. Triển khai đấu thầu,
xây lắp, mua sắm thiết bị ở một số đơn vị cũng lúng túng, thiếu chặt chẽ do nghiệp vụ
cũng thấp…

Từ năm 2006, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam nói chung
và Chi nhánh mỏ tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai Vimico nói riêng đã hoạt động theo
tổ chức mới, mô hình Công ty Mẹ - công ty Con, phân cấp quản lý và xây dựng đã
thay đổi rất lớn: quyền hạn và trách nhiệm của các công ty con với quản lý đầu tư xây
dựng đã được xác lập rõ ràng và lớn hơn rất nhiều so với trước năm 2006. Ví dụ hiện
nay Công ty con của Công ty cũng đã được phân cấp quyết định đầu tư đến dự án
Nhóm A. Vì vậy, công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư và thực hiện các bước
tiếp theo của quá trình đầu tư phải được chú trọng, kiện toàn bộ máy quản lý ở các
công ty con để triển khai công tác này đạt hiệu quả và đúng pháp luật.


Để khắc phục những tồn tại trên, trước mắt cần tuyển chọn những cán bộ có đủ
chuyên mô kỹ thuật, nghiệp vụ và được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ đầu tư và các bộ
phận quản lý đầu tư của các công ty con, đơn vị trực thuộc.
2.2.3. Phân tích công tác thực hiện đầu tư
- Giải quyết các công tác về kế hoạch đầu tư trong các năm 2016, 2017. Tiến
hành điều chỉnh kịp thời đối với các đơn vị có sự biến động lớn trong sản xuất quặng,
đảm bảo được công tác giải ngân theo kế hoạch. Từ đó ban hành các quy định nội bộ
trong công tác quản lý đấu thầu và xử lý các mối quan hệ nội bộ trong quá trình thực
hiện các dự án đầu tư trong Công ty.
- Hoàn thành và trình tổng Công ty, làm việc với các Bộ ngành liên quan để
thẩm tra việc điều chỉnh nhân công, máy thi công và các chế độ khác đối với công tác
xây dựng cơ bản theo chế độ mới.
- Lập, trình tổng Công ty, tập đoàn phương án bổ sung tiền lượng cho công tác
đào lũ xây dựng cơ bản trong kế hoạch 2016-2020 đó giải quyết được sự mất cân đối
trong thu nhập đối với người lao động, cải thiện điều kiện làm việc và thu nhập của
công nhân, thu hút lao động vào làm việc tại các mỏ bằng cách tăng thêm tiền lượng
cho công nhân của toàn ngành và thu hút thêm nguồn nhân lực bổ sung cho các mỏ
trong thời gian tới.
- Tổ chức hướng dẫn việc thực hiện những thay đổi trong cơ chế quản lý đầu tư

xây dựng của Nhà nước tới các đơn vị.
- Xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện các dự án
trọng điểm của Công ty, những khiếu kiện trong quá trình đấu thầu, đảm bảo sự công
bằng minh bạch và đảm bảo cho các dự án được thực hiện đúng quy định, tiến độ đáp
ứng yêu cầu sản xuất của các đơn vị.
Trong các năm 2016, 2017 tập trung giải quyết những thủ tục cho các dự án đã
triển khai thi công. Giải quyết về cơ bản các dự án đầu tư các thiết bị phục vụ công
tác bóc đất đá các mỏ lộ thiên của công ty Mỏ tuyển đồng Sin Quyền
2.2.3.1. Công tác giám sát đầu tư, lập, duyệt, theo dõi và báo cáo kế hoạch
đầu tư
Công tác giám sát đầu tư chưa đi vào thực chất và không phát huy được tầm
quan trọng của nó. Nguyên nhân công tác này chưa làm tốt là do cán bộ quá thiếu,
phải thực hiện nhiều việc khác nhau. Thực tế, trong Công ty, công tác tự kiểm tra,


×