Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giải quyết việc làm cho thanh niên huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.81 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN VĂN BỬU

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Đà Nẵng - Năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN VĂN BỬU

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển
Mã số: 60.31.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI QUANG BÌNH

Đà Nẵng - Năm 2013



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Văn Bửu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .............................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 3
5. Bố cục đề tài........................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu .................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO THANH NIÊN............................................................................. 7
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC ....................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm ..................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của giải quyết việc làm cho thanh niên ....... 20
1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN ................................................................................................ 28
1.2.1. Tạo việc làm mới cho thanh niên................................................... 28
1.2.2. Kết nối thanh niên với các cơ sở sử dụng lao động ....................... 31
1.2.3. Đào tạo nghề cho thanh niên ......................................................... 33
1.2.4.Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động ........................ 34
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN ....................................................................................... 35

1.3.1. Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ ........ 35
1.3.2. Nhân tố sức lao động và sử dụng lao động.................................... 36
1.3.3. Nhân tố thuộc về cơ chế, chính sách tạo việc làm ảnh hưởng dến
giải quyết việc làm cho thanh niên.................................................................. 37


CHƯƠNG

2:

THỰC

TRẠNG

GIẢI

QUYẾT

VIỆC

LÀM

CỦATHANH NIÊN HUYỆN HÒA VANG ................................................ 39
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI CỦA HUYỆN HOÀ VANG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN ................................. 39
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội tác
động đến việc làm ........................................................................................... 39
2.1.2. Các yếu tố thuộc về thanh niên huyện Hòa Vang ảnh hưởng đến
giải quyết việc làm .......................................................................................... 47

2.2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN
HUYỆN HÒA VANG..................................................................................... 48
2.2.1 Thực trạng giải quyết việc làm từ tạo việc làm mới cho thanh
niên .................................................................................................................. 48
2.2.2. Thực trạng kết nối thanh niên vói các cơ sở sử dụng lao động ..... 49
2.2.3. Thực trạng tạo việc làm thông qua đào tạo, dạy nghề cho thanh
niên .................................................................................................................. 52
2.2.4.Tình hình xuất khẩu lao động cho thanh niên ................................ 54
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH
NIÊN HUYỆN HÒA VANG .......................................................................... 55
2.3.1. Một số kết quản đạt được về giải quyết việc làm cho thanh niên
huyện Hòa Vang .............................................................................................. 55
2.3.2. Những hạn chế, trở ngại trong giải quyết việc làm ....................... 56
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀMCHO THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÒA VANG ...... 57
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN HUYỆN HÒA VANG ................................................. 57
3.1.1. Một số quan điểm chung................................................................ 57


3.1.2. Định hướng và mục tiêu giải quyết việc làm của huyện Hoà
Vang đến năm 2020 ........................................................................................ 58
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀ VANG .............................. 63
3.2.1. Giải pháp tạo việc làm mới cho thanh niên ................................... 63
3.2.2. Tăng cường kết nối thanh niên với các cơ sở sử dụng lao động ... 64
3.2.3. Hoàn thiện và đẩy mạnh việc đào tạo, dạy nghề cho thanh niên
huyện Hoà Vang .............................................................................................. 65
3.2.4.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu ....................................................... 68
3.2.5. Các giải pháp khác ......................................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNHGIAO ĐỀTÀILUẬNVĂN (Bảnsao)


DANHMỤCCÁCCHỮVIẾTTẮT



: Cao đẳng

CN

: Công nghiệp

CNH - HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNKT

: Công nhân kỹ thuật

ĐTN

: Đào tạo nghề

GQVL

: Giải quyết việc làm


KT

: Kinh tế

KH - CN

: Khoa học - Công nghệ

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

LD-TB&XH

: Lao động Thương binh và Xã hội



: Lao động

LĐNT

: Lao động nông thôn

LLLĐ

: Lực lượng lao động

NT


: Nông thôn

NN

: Nông nghiệp

TC

: Trung cấp

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TN

: Thanh niên

UBND

: Uỷ ban nhân dân

VL

: Việc làm


XKLĐ

: Xuất khẩu lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

Trang

Giá trị sản xuất các ngành kinh tế qua các năm theo giá
thực tế

44

2.2

Tình hình thu-chi ngân sách huyện qua các năm

45

2.3

Cơ cấu kinh tế huyện qua các năm


45

2.4

Chuyển dịch cơ cấu lao động 2008-2012

46

2.5

Lực lượng lao động

47

2.6

Tình hình tạo việc làm mới cho thanh niên

48

2.7

Cơ cấu việc làm mới cho thanh niên theo ngành

49

2.8

Việc làm cho TN nhờ kết nối


50

2.9

Hoạt động tư vấn việc làm cho thanh niên

51

2.10

Việc làm nhờ đào tạo nghề

53

2.11

Số việc làm nhờ xuất khẩu lao động

54


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát
triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị
trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiếp kịp khu vực và thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ chương, đường lối, chính sách thiết thực, hiệu
quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu
nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Qua thời gian đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn về tăng trưởng
kinh tế, Việt Nam cũng đạt được những kết quả quan trọng trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động, đời sống người lao động trong đó có tầng
lớp thanh niên được cải thiện rõ rệt. Thanh niên là lực lượng tiên phong trong
phát triển chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời cũng là lực lượng mang lại sự
thay đổi và đổi mới. Thế giới việc làm tạo môi trường cho thanh niên để họ
tham gia một cách chủ động vào xã hội, cống hiến tài năng và tầm nhìn cho
tương lao, phát triển cam kết và các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính trung
bình, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao hơn từ hai đến ba lần so với nhóm dân
số lớn tuổi hơn, nhất là thanh niên ở nông thôn, những vùng khó khăn.
Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, ở khu vực huyện Hòa


2

Vang, quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhộn nhịp.Đó là một quy luật phát
triển tất yếu, đem lại một cuộc sống văn minh, hiện đại hơn và một nền kinh tế
phát triển hơn.Song, đằng sau những biến đổi tích cực đó còn những vấn đề xã
hội khác đang cần quan tâm giải quyết.Điển hình hơn cả là vấn đề việc làm
của thanh niên vùng nông thôn. Điều này được phát huy hiệu quả hay không

phụ thuộc một phần vào chính sách và sự quan tâm của chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng.
Điều đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên ở huyện Hòa Vang, thành phố
Đà Nẵng, đảm bảo kinh tế có thể tăng trưởng cao, ổn định trong điều kiện
Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Để góp phần
vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn vấn đề “Giải quyết việc làm cho
thanh niên huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc
sĩ, chuyên ngành Kinh tế Phát triển.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận
và thực tiễn của vấn đề lao động, việc làm, giải quyết việc làm cho thanh
niên trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp
giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố
Đà Nẵng.
Đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lao động, việc
làm, giải quyết việc làm cho thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường.
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên trên
địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho


3

thanh niên trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 20132020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
cơ bản về giải quyết việc làm cho thanh niên, trong đó tập trung vào những

biện pháp hỗ trợ từ phía chính quyền huyện Hòa Vang và thành phố Đà Nẵng.
Quản lý và giải quyết việc làm cho người lao động có phạm vi rất rộng
và phức tạp. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên (từ 15 - 29 tuổi) thuộc huyện Hòa Vang, thành phố
Đà Nẵng dưới góc độ quản lý nhà nước.
Về thời gian luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá vấn đề giải quyết
việc làm cho thanh niên đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích thực chứng, phân tích chuẩn tắc;
+ Hệ thống hoá, phân tích các tài liệu tham khảo và các kết quả nghiên
cứu của các đề tài đã được công bố;
+ Nghiên cứu khảo sát tại cơ sở.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm cho thanh niên
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm của thanh niên huyện Hòa
Vang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên
trên địa bàn huyện Hòa Vang.
6. Tổng quan tài liệu
Vấn đề giải quyết việc làm được nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau, từ nhiều tác giả và cơ quan nghiên cứu. Giá trị lớn nhất của những công


4

trình nghiên cứu có liên quan là nêu thực trạng và đề xuất những giải pháp
mang tính thực tiễn, nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho người lao động. Có thể nêu một số công trình
nghiên cứu có liên quan như:

Nghiên cứu của PGS.TS. Đỗ Minh Cương có tựa đề: “Phát triển lao
động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” Nghiên cứu này đã đi
sâu vào phân tích lực lượng lao động kỹ thuật nói chung trong đó có đề cập
sâu đến hệ thống đào tạo nghề hiện nay và kết quả của quá trình đào tạo.
Nghiên cứu này tập trung vào khía cạnh cung lao động kỹ thuật trong nền
kinh tế và các giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo nghề thúc đẩy cung lao
động kỹ thuật cho nền kinh tế, trong đó đã đề cập đến việc làm cho người lao
động nhưng không tập trung vào tất cả các đối tượng lao động qua đào tạo
nghề mà chủ yếu ở nhóm lao động kỹ thuật.
Một công trình trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm đó là: "Về chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" của tác giả TS.Nguyễn Hữu Dũng.
Nghiên cứu này đi sâu và phân tích toàn diện các chính sách giải quyết việc
làm trong nền kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20. Tác giả đã trình bày
phủ rộng hầu hết các vấn đề liên quan đến các chính sách giải quyết việc làm
và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm ở nước ta. Tuy nhiên công trình
này không đề cập riêng cho việc làm của lực lượng lao động thanh niên và các
vấn đề liên quan đến đối tượng này.
Hầu hết, công trình nghiên cứu đã được công bố, chủ yếu tập trung
nghiên cứu vấn đề đào tạo nghề, việc làm, giải quyết việc làm cho người lao
động do tác động, ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hội
nhập ở nhiều góc độ và ở những địa phương khác nhau. Các nghiên cứu hoặc
chủ yếu tập trung cho đào tạo nghề, hoặc riêng cho việc làm, chưa có nghiên
cứu sâu về mối quan hệ giữa đào tạo nghề và giải quyết việc làm, đặc biệt


5

trong thanh niên, do vậy, cần có nghiên cứu toàn diện hơn.
Trong nghiên cứu của Bùi Quang Bình (2007), đánh giá tình hình thất
nghiệp và thiếu việc làm ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào đối tượng lao

động trẻ từ 15-35 tuổi và tập trung ơ khu vực nông thôn. Lý do cơ bản nhất
của thiếu việc làm do không có nghề nghiệp chuyên môn hay không được đào
tạo nghề. Trong nghiên cứu này cũng đề cập tới cơ chế phân bổ chi phí đào
tạo giữa doanh nghiệp và người lao động cho đào tạo nghề. Tiếp đó trong
nghiên cứu năm 2011 và 2012, tác giả cũng khẳng định quá trình công nghiệp
hoá đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là phải chú
trọng đào tạo nghề cho lao động khu vực nông thôn. Trong nghiên cứu 2010
tác giả Bùi Quang Bình đã chỉ ra những vấn đề tồn tại của hệ thống đào tạo
nghề khu vực nông thôn và kiến nghị các giải pháp cụ thể: (1) Các địa phương
nên lập dự án đào tạo nghề cho lao động nông thôn với những ngành nghề
phù hợp ; (2) Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề gắn với chương trình giải
quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo ; (3)Có chính sách ưu đãi đối với đào
tạo nghề cho lao động nông thôn ; (4) Tuyên truyền vận động và phân luồng
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông nông thôn. Đây có thể coi là những gợi
ý cho nghiên cứu về đề tài này.
Tác giả Tạ Đức Khánh (2009) thông qua giải thích cơ chế vận hành của
thị trường lao động đã chỉ ra rằng việc làm của lao động chỉ có được nếu kết
hợp được các nhân tố sản xuất như máy móc, công nghệ và lao động. Nhưng
lao động phải có trình độ chuyên môn và tay nghề và do đó phải đào tạo. Đào
tạo coi như một thị trường có cung và cầu, mối quan hệ mâu thuẫn lợi ích
giữa cung và cầu này chỉ được giải quyết thông qua thị trường.
Ở Đà Nẵng, đã có những tham luận, bài viết về đào tạo nghề, về việc
làm và tạo việc làm cho người lao động như: Quy hoạch phát triển đào tạo
nghề thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 (Sở Lao động – Thương binh và xã


6

hội thành phố Đà Nẵng, năm 2010); Lê Minh Hùng: Đà Nẵng dự báo nhu cầu
lao động qua dạy nghề đến năm 2020 (đăng trên Tạp chí Lao động và xã hội

số 356 năm 2009)...


7

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN
1.1. VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
1.1.1. Khái niệm và phân loại việc làm
Khái niệm việc làm
Ngày nay, việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những
vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi
nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm,
giảm tỉ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp quan trọng để từng bước
ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc
biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khitốc
độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư
liệu sản xuất còn thấp.
Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể
việc làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt
ra. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp
cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và
“thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc
làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng là tính chất của nó, còn thị
trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và

khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn
giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà là những quan hệ xã hội giữa
con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người


8

lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt
động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ
thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trừ ra) từ quá trình đó. Về
giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao
động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy
định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị
pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu
nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã
đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình
thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể
đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định rõ đặc tính dân số
hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa
con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng
là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩ là tất cả những gì quan hệ
đến cách kiếm sốngcủa một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu
chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” [4, tr.315]. Theo
quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập mà không cần phân
biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm.
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên xô lại cho rằng, “việc làm

là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có
ích trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội
trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên” [4, tr.315]. Theo khái niệm
này thì những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực


9

lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là người có việc làm. Ngày nay,
ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định rõ trong Bộ Luật Việc làm của
dân cư Liên bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm
thoả mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và
không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm” [4, tr.315].
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân
thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc...) và không được
trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia
đình...). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó
có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính
chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” [4, tr.314]. Theo khái niệm này,
người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được
thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang
tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được
nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội
nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động (ILO.1993) và đã được áp
dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao trùm
mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan
niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt
động mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là
những hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi

phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán
heroin, mại dâm,... ở các nước như Hà Lan, Colômbia thì không cấm, nhưng
những hoạt động này bị cấm ở các nước khác, đặc biệt là các nước Châu Á
như: Việt Nam, Trung Quốc... Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái
quát, là cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.


10

Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải
quyết việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ
đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp
lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư
thừa, việc làm không đầy đủ... hầu như không được biết đến. Còn khái niệm
“thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào,
trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hoá được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào
khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà
nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân
trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực
Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được
hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo
ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này
cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định
trong Điều 13 của Bộ luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” [27,
tr.13].
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hoá,

có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhân cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù
lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.


11

Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn
hai tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỏ rõ
tính pháp lý của việc làm, quan niệm đã rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ
chức ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Ngườilao động hợp pháp ngày
nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tư do liên kết kinh
doanh, tự do tìm kiếm việc là, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của
pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà
nước. Điều này khẳng định tính chấp pháp lý trong hoạt động của người lao
động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ
để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động
tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý, mại
dâm... thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp
pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là

việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản.
Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo
việc làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan
niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của
chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà
nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tao ra nguồn


12

thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò
quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát
triển thị trường lao động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên
vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động
lao động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia
và mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được
thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và
xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình
thay vì thuê người làmcông.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Khoa Kinh tế Lao động và Dân
số- Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu
“là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện
cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó”
[48].
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỉ lệ giữa chi phí
ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...và chi phí về

sức lao động (V). Quan hệ tỉ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với
trình độ công nghệ sản xuất. Khi công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng
thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng
nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị
chi phí ban đầu về tư liệu sản cuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức
lao động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại
thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động
với tỉ lệ thấp. Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù


13

hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành
tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỉ
lệ giữa C và V thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi
người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ
xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động có nghĩa là việc làm
đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng
triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm
việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến
thiếu nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Trong luận văn này, từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái
niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và
những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức
lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình thành các dạng việc làm cũng như phân
tích các nhân tố ảnh hướng đến hỗ trợ giải quyết việc làm.
Phân loại việc làm

Trong lý thuyết và cả trong thực tế việc làm được chia làm nhiều hình
thức khác nhau. Những hình thức việc làm là các phương pháp tổ chức pháp
lý và những điều kiện sử dụng lao động. Trong khuôn khổ của thị trường lao
động quốc gia hoạt động lao động của con người được tổ chức với sự trợ giúp
của những hình thức tổ chức pháp lý khác nhau,được phân biệt bởi định mức
điều tiết pháp lý thời gian và chế độ ngày làm việc, sự đều đặn của hoạt động
lao động, vị trí thực hiện công việc...
- Việc làm đầy đủ: khái niệm việc làm đầy đủ không thể chỉ giải thích
theo một nghĩa, nó phụ thuộc vào tiêu chí và tính chất của vấn đề. Đầy đủ ở


14

đây không có nghĩa là việc làm chung cho tất cả mọi người, đảm bảo chỗ làm
việc cho tất cả dân số có khả năng lao động. Xã hội luôn có khuyng hướng
đạt được cân đối nguồn lao động trong mức tối đa, dự đoán dòng chuyển
động nguồn lao động được dựa trên cơ sở dự báo và lên kế hoạch tạo chỗ làm
việc.Trong tư duy và thực tế ở phương Tây, việc làm đầy đủ là tình hình nền
kinh tế, mà ở đó tất cả những người mong muốn làm việc có việc làm với
mức lương thực tế khống chế.Trong ngữ cảnh này nó được sử dụng đồng
nhất như khái niệm “toàn dụng nhân lực”.
Trong lý thuyết kinh tế và thực tế người ta còn chia việc làm đầy đủ ra
thành nhiều dạng như việc làm năng suất, hiệu quả và hợp lý.
- Việc làm năng suất có nghĩa là việc làm tạo ra những phúc lợi và
dịch vụ hữu ích cả cho xã hội và cả cho từng người lao động.
- Việc làm hợp lý dự đoán sự phân chia một cách tối ưu người đang
làm việc theo các ngành sản xuất và các khu vực lãnh thổ của đất nước với
mục đích sản xuất ra những sản phẩm và sử dụng những dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu.
- Việc làm hiệu quả là việc làm trong sản xuất sinh lợi nhuận được

trang bị kỹ thuật với tổ chức lao động tiên tiến, năng suất lao động cao và
đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nó dự đoán sự hiện có những cán bộ và đội
ngũ những nhà quản lý có trình độ chuyên nghiệp cao và hướng tới công việc
có hiệu quả. Khái niệm việc làm hiệu quả này thường hướng vào sự phát
triển toàn diện con người và hoàn toàn chấp nhận được, nhưng nó khá rộng
và không có khả năng đo được bằng một chỉ tiêu. Tuy nhiên có thể đưa ra
tính chất định lượng để đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu như:
+ Mức độ việc làm của cư dân bằng lao động chuyên nghiệp trên tổng
dân số, thể hiện dưới dạng phần trăm (gọi là hệ số việc làm). Hệ số này cho
thấy sự phụ thuộc mức độ việc làm vào yếu tố nhân khẩu, có nghĩa là hệ số


15

sinh, chết và tốc độ tăng trưởng dân số, được tính toán trên các con số thống
kê, hệ số đó là một trong những con số biểu hiện sự phồn vinh của xã hội.
+ Mức độ việc làm của dân số có khả năng lao động trong nền kinh tế xã hội. Về quan điểm kinh tế học, mức độ việc làm của dân số có khả năng
lao động thể hiện, một mặt là đòi hỏi của kinh tế-xã hội đối với người lao
động, mặt khác là đòi hỏi của người lao động về chỗ làm việc. Nó được tính
theo hệ số phần trăm giữa tổng số dân cư đang hoạt động chuyên nghiệp với
số lượng toàn bộ dân số có khả năng lao động (nguồn nhân lực).
+ Tỉ lệ phân chia nguồn lao động xã hội theo lĩnh vực công ích xã hội.
Khi tính được hệ số việc làm bằng lao động chuyên nghiệp ta có thể xác định
được hệ số việc làm bởi việc học hành cũng như các dạng hoạt động công ích
xã hội khác. Điều đó cho phép làm rõ những tỉ lệ cần thiết.
+ Cấu trúc phân bố người lao động hợp lý theo ngành và theo khu vực
kinh tế. Chỉ tiêu này, thường được gọi là chỉ tiêu hợp lý, tỉ lệ phân chia tiềm
năng lao động theo dạng việc làm, ngành, khu vực kinh tế...
+ Chỉ tiêu gắn với việc tối ưu hoá cấu trúc chuyên môn nghề nghiệp củ
người lao động, cho phép làm rõ ràng sự phù hợp cấu trúc chuyên môn

nghiệp vụ của dân số lao động với cấu trúc chỗ làm việc, đồng thời cũng xác
định hệ thống đào tạo cán bộ là phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.
Về hiệu quả việc làm có thể theo chỉ tiêu định mức thất nghiệp. Hiện
nay, ở phương Tây, việc làm đầy đủ và có hiệu quả đạt được khi có sẵn
định mức thất nghiệp tự nhiên. Định mức thất nghiệp tự nhiên là mức độ
của nó mà kiềm chế mức lương thực tế và giá cả không thay đổi với mức
tăng trưởng năng suất lao động bằng không. Trong thực tế định mức thất
nghiệp được tính bằng cách tính tổng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp
cấu trúc. Phương pháp đơn giản nhất để tính định mức thất nghiệp tự nhiên
là tính theo mức độ của nó trong điều kiện lạm phát ở mức vừa phải. Vì


16

vậy, không nên đánh giá việc làm đầy đủ và có hiệu quả chỉ theo một
phương pháp, mà để nhận được thông tin chính xác thì nên sử dụng hệ
thống các chỉ tiêu đã nêu trên.
- Việc làm hợp lý: là sự thoả mãn nhu cầu làm việc cho bất cứ ai có
khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân và phù hợp với trình độ,
nguyện vọng của họ.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người
lao động. Việc làm hợp lý, do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tếxã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Trong quá trình thực hiện việc làm
đầy đủ, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việclàm hợp lý. Việc làm hợp
lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con
người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá
nhân người lao động với lợi ích của xã hội.
Khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa
tương đối.Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và
việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp.Mục tiêu phấn

đấu của chúng ta là việc làm, tiến tới việc làm đầy đủ, việc làm hợp lý và tự
do lựa chọn việc làm.
- Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với các công việc khác. Như vậy, những
hoạt động lao động của con người mang lại nguồn thu nhập chính cho bản
thân và gia đình họ thì đó là việc làm chính. Hiện nay, các hoạt động lao
động được coi là việc làm chính, ví dụ những người lao động làm việc trong
các doanh nghiệp, các cơ quan đơn vị bởi vì thời gian và nguồn thu nhập của
họ lại chiếm cao hơn so với các công việc làm thêm ngoài giờ của họ. Mặc
dù hiện nay, vấn đề làm thêm giờ hoặc làm ở nhà do có cửa hàng của gia


17

đình nhưng số thời gian mà họ việc trong một ngày vẫn chiếm tỉ lệ cao tại
các doanh nghiệp, cơ quan.
Mặt khác, những hộ gia đình có cơ sở sản xuất kinh doanh dựa vào
nguồn sẵn có của mình để mở một cửa hiệu mà nguồn thu nhập lại phụ thuộc
rất lớn vào cửa hiệu thì khi đó, công việc mà họ làm tại cửa hàng đó cũng
được coi là việc làm chính.
- Việc làm phụ là việc làm thêm theo nhu cầu hoặc mong muốn của
người lao động để kiếm thêm thu nhập ở một công sở khác hoặc là ngay tại
chính nơi mình đang làm việc. Việc làm phụ được xếp vào nhóm những công
việc kiêm nhiệm cả ở những công sở khác và cả ở nơi đang làm việc; những
công việc dịch vụ vào những lúc nhàn rỗi; buôn bán lặt vặt... Trong số nhiều
hình thức việc làm khác nhau thì việc làm phụ chiếm một vị trí đặc biệt. Nó
gắn với đặc thù bản chất việc làm và cả với tác động mà nó ảnh hưởng tới
hoạt động của thị trường lao động. Việc làm phụ là hình thức sử dụng lực
lượng lao động bổ sung vào hoạt động lao động, hay nói cụ thể là việc làm có
thu nhập thêm ở doanh nghiệp (công sở) khác hoặc là ngay tại nơi đang làm

việc, mà đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Việc làm thêm là nhu cầu chính đáng của người lao động để tăng thu
nhập trong điều kiện mức sống còn thấp như ở Việt Nam, đồng thời còn là
mong muốn thể hiện khả năng cạnh tranh của chính bản thân người lao động
trên thị trường lao động và cũng là một “cầunối đặc biệt” đảm bảo thay thế
chỗ làm việc mới trong tương lai mà không phải trải qua thời kỳ thất nghiệp.
Hiện nay, việc làm thêm tuỳ tiện ở một số ngành (như giáo dục, y tế), sự
khác biệt quá lớn giữa tiền lương và thu nhập của một bộ phận công chức
dưới danh nghĩa việc làm thêm của khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay lại ảnh hưởng rất tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội nói
chung và sự phát triển đồng bộ thị trường lao động nói riêng.


×