Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đảng nhân dân cách mạng miền nam việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.88 KB, 12 trang )

Đề cương chi tiết bài làm:
I.
Hoàn cảnh miền Nam Việt Nam giai đoạn từ năm 1954-1975.
II.
Hoạt động của các Đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn
1954-1975.
1. Các Đảng phái chính trị thành lập dựa trên âm mưu của Mỹ - ngụy.
2. Các Đảng phái thành lập trong sự phát triển của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc miền Nam Việt Nam.
III.
Sự ảnh hưởng của các Đảng phái chính trị ở miền Nam Viêt Nam trong giai
đoạn 1954-1975.
1. Đối với cách mạng miền Nam Việt Nam.
2. Đối với Mỹ - Ngụy.
I. Hoàn cảnh miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954- 1975.
II. Hoạt động của các Đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn

1954-1975.
1. Các Đảng phái chính trị thành lập dựa trên âm mưu của Mỹ-Ngụy.
1.1. Đảng Cần Lao Nhân Vị.
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời:
Chính quyền Bảo Đại-Ngô Đình Diệm được dựng lên trong khu vực tập kết
ở miền nam là sản phẩm của sự cố gắng giữa liên minh của mỹ và pháp, chính phủ
đó sẽ không tồn tại được trước bất kì một cuộc tự do hợp lý nào. Chế độ diệm
“một nhà nước sát ở miền nam việt nam không cho phép hoạt động chính trị độc
lập trong suốt 10 năm thống trị của nó theo lời nói của Alexis Johnson cựu phó đại
sứ mỹ ở miền nam”. Khi lập ra chính quyền này mục đích của Mỹ Diệm là biến bộ
máy hành chính dân sự này thành công cụ hữu hiệu để thực hiện các chính sách về
đường lối của chúng. Để đối phó với các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền nam
chính quyền diệm phải dựa vào kỹ luật quân đội dựa vào hệ thống chỉ huy quân
sự để thực hiện được mục tiêu bảo vệ hệ thống chính quyền vừa được mỹ thết lập


ở miền nam việt nam.
Sau khi những mục tiêu đó đã được thực hiện Diệm về nước bước lên vũ đài
chính trị đứng ở một vị trí lãnh đạo cái gọi là quốc gia việt nam cộng hòa dưới sức
chống đỡ của hoa kì trong một thời kỳ đầy mâu thuẩn sâu sắc, mâu thuẩn giữa
toàn thể nhân dân mn với mỹ Diệm, mâu thuẩn giữa lực lượng thân pháp với diệm
mâu thuẫn giữa các đảng phái đối lập với diệm, mâu thuẩn nhóm thân mỹ khác:
phan quang đáng, nguyễn bảo toàn, nguyễn tôn hoàn… với diệm. Để xây dựng
một “quốc gia” mạnh, chiến lược ban đầu là nêu cao khẩu hiệu “bài phong đả
thực” và đặt biệt nhắm đến mục tiêu “chống cộng diệt cộng” , đó không phải là
mục tiêu riêng của chính quyền ngô đình nhiệm mà còn là chiến lược của hoa kỳ ở
đông nam á ns chung và ở vn nói riêng. bên cạnh việc xóa bỏ các đảng phái chống
đối, tổng thông NDN cũng nhanh chóng thành lập các đảng phái rồi từ chức mới
nhằm hậu thuẩn đắt lực cho hoạt động của chính phủ và mục tiêu của chính quyền


trong đó đặt biệt phải kể đến là ĐCLNV do NDN em trai của tổng thống NDD
lãnh đạo.
1.1.2. quá trình thành lập.

* Sự thành lập của đảng cần lao nhân vị
Ngày 20/12/1949, lê hữu từ tiếp tục cho thành lập đội “lưu động tự lục quân” của
vùng bùi chu, phát diện do ngô cao tùng chỉ huy, chuyên thực hiện càn quét, khủng
bố. tới 1951, khu tự trị bùi chu giải tán để trao quyền cho thủ hiến bắc việt, lực
lượng tự vệ, khu tự trị buộc phải xác nhập vào bảo chính đoàn, còn lực lượng lưu
động tự lực quân trở thành tiểu đoàn 18 của quân đội quốc gia vn, sau 1954, lực
lượng này chạy vào nam trở thành lực lượng vũ trang cho đảng cần lao nhận vị rồi
xác lập vào quân đội vn cộng hòa. Trong suốt những năm tháng hoạt động chính
trị của mình, anh em Diệm-Nhu đã vận động thành lập nhiều ptrao, tổ chức, tập
hợp được nhiều phần tử cốt cán để chuẩn bị cho sự ra đời của thể chế chính trị ở
miền nam, dưới sự hỗ trợ đắc lực của mỹ, trong quá trình hoạt động đó, họ thấy

rằng cần phải có một tổ chức đảng để tập hợp, để quy tụ nhân lực và hướng lòng
dân về 1 mối nên cũng cho ra đời đảng “cần lao nhân vị cm,”.vào ngày 2/9/1954,
đảng cần lao chính thức ra đời theo “chiếu đơn của ban trị sự lâm thời của cần lao
nhân vị cm đảng”, bộ trưởng bộ nội vụ QGVN, ng ngọc thơ kí nghị định số
116/BNV/CT chính thức cho phép đảng cần lao nhân vị ra hoạt động. trong những
năm 1954-1955, vận động thành lập và tập hợp lực lượng cho ra đời chính quyền
NDD đảng CLNV đã có những đóng góp khá lớn công sức, điều này k có gì là lạ
bởi vì đứng đầu đảng cũng là ng đang cố gắng làm cho đảng này trở thành một
công cụ đắc lực cho chính quyền đnag được vận động thành lập, nó k đơn giản là
một điều tất yếu của LS mà 1 chủ đích của người sáng lập. từ năm 1954, NĐN xây
dựng thuyết nhân vị thành hệ tư tưởng của chế độ Diệm với khát vọng chủ nghĩa
nhân vị sẽ đẩy lùi được chủ nghĩa Mác xít “trong một xã hội hậu tiến như VN,
nhiều cơ cấu nội bộ k thích hợp vs một chế độ kinh tế lấy nhân vị làm căn bản.
người ta sẽ phí công nếu chỉ bằng lòng tô sửa lại những đường nứt nẻ ở một tòa
nhà lung lay sắp đổ nát. Nếu là cần, chúng ta phải mạnh dạng đập tan những cơ
cấu lỗi thời ấy đi để đặt nền tảng cho những công cuộc xây dựng đổi mới, lấy sự
giải phóng nhân vị làm tiêu chuẩn.Làm như thế chúng ta sẽ tránh khỏi sự cám dổ
của chủ nghĩa phát xít”
Cuối năm 1954 NDN chính thức đưa đảng cần lao nhân vị ra hoạt động. các cơ sở
của đảng trở thành các công cụ để trực tiếp lãnh đạo đảng cần lao nhân vị D-N chi
thành lập các văn phòng phụ trách mỗi miền như văn phòng đảng vụ tại SG có
nhiệm vụ tham mưu cho đảng cần lao nhân vị.
1.1.3. Tổ chức của Đảng Cần Lao Nhân Vị.


Tôn chỉ mục đích.
Lúc đầu tên đảng là” Nông Công nhân vị cách mạng đảng” sau đổi thành cần
lao nhân vị cách mạng đảng với mục đích là:” tranh đấu để thực hiện lý tưởng
cách mạng nhân vị, chương trình hoạt động của đảng hướng vào việc đoàn kết các



tầng lớp dân chúng kiến thiết quốc gia trên 4 lĩnh vực: tinh thần –xã hội-chính trịkinh tế” và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ tập trung
Đảng cần lao nhân vị được tổ chức có quy củ, từ cấp nhỏ nhất đến cấp trung
ương phải có quy định về hội họp. ban chấp hành trung ương gồm có NDN làm
tổng bí thư các ủy viên là trần trung dung-phụ trách kỳ bộ bắc việt: nguyễn
tăng,lý trung dung,hà đức minh,trần quốc bửu, võ như nguyệt, lê văn đông.
Đảng cần lao nhân vị được tổ chức theo mô hình tập trung đứng đầu là tổng
bí thư dưới là ban chấp hành trung ương, dưới là các khu bộ
Thành phần của đảng CLNV là “tất cả những người việt nam từ 18 tuổi trở lên
không phân biệt tôn giáo nghèo giàu, trình độ văn hóa tinh theo mục đích tôn chỉ
và thừa nhận kỉ lục của đảng được hai đảng viên giới thiệu”
Cơ cấu được xây dựng trên phương thức tổ chức của những người cộng
sản.như vậy đảng cần lao nhân vị là một tổ chức chặc chẽ về mặt nguyên tắc và
phương pháp tổ chức thì mô phỏng theo môt hình tổ chức của đảng cộng sản việt
nam
• Nguyên tắc hoạt động
Chủ trương hoạt động bí mật mặc dù danh nghĩa vẫn tồn tại trên thực tế: “quy
luật của đảng dựa trên nguyên tắc bí mật, bộ phận tối cao vẫn hoàn toàn bí mật những
cơ cấu: cấp bộ kỳ, cấp bộ liên tinh, không nhất thiết phải lập trụ sở công khai và cũng
không ra mắt quần chúng.
Với chủ trương hành động bí mật và lòng ghép vào hệ thống chính quyền, các
đảng viên đảng cần lao nhân vị hoạt động như một quan chức hay viên chức chính
phủ. Các hoạt động cụ thể của đảng cần lao nhân vị rất ít ngoài những cuộc họp chính
với bí thư đảng NDN
1.1.4. ảnh hưởng
Từ năm 1957 trở đi, nhân vị trở thành cái mốt ở miền nam đâu đâu cũng nghe bàn
tới nhân vị và cần lao.
Vì chủ trương “cần lao hóa” bộ máy chính quyền mà chế độ diệm bước vào một
loạt mâu thuẫn giữa chế độ diệm với chủ trương lập đảng của mỹ chủ trương đa đảng
thể hiện tính “dân chủ” ở miền nam việt nam,

+ mâu thuẫn ngay trong chính quyền diệm khi giữa lời nói dân chủ lên án “ độc
tài, độc đảng” của “cộng sản bắc việt” với chủ trương “cần lao” hóa bộ máy chính
quyền,
+ mâu thuẩn giữa nhân dân miền nam với khao khát dân chủ như lời hứa của
chính quyền diệm khi mới nắm quyền với những hành động độc tài của diệm.
Đảng cần lao nhân đúng nghĩa chỉ là một tổ chức phục tùng anh e diệm. điều
này đã được hội đồng quân chính cách mạng sau khi lật đổ diệm 11/1963 đã tuyên bố
làm bằng chứng giải tán đảng cần lao nhân vị. Mỹ thực chất không ưa gì đảng cần lao
nhân vị bằng chứng là sau khi diệm bị lật đổ mỹ đã ủng hộ quân cách mạng phái đại
việt làm đảng lãnh đạo cho cách mạng việt ở miền nam việt nam năm 1964.


1.2.

Các Đảng tách ra từ Đại Việt Quốc dân Đảng

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ bởi cuộc đảo chính năm 1963, trong đó
có Đại Việt quốc dân Đảng hoạt động trở lại, lãnh đạo có sự phân hóa trầm trọng và
không nhóm họp nữa vì có sự chia rẽ nội bộ sâu xét. Đại Việt Quốc dân Đảng, là
một đảng chính trị Việt Nam, thành lập từ ngày 10/12/1939. Đại Việt quốc dân
Đảng là một trong những đảng chính trị có vai trò quan trọng trong lịch sử Việt
Nam suốt từ khi thành lập đến năm 1975.Trong quá trình hoạt động, các đảng viên
Đại Việt nhiều lần phân hóa, sáp nhập, dẫn đến sự hình thành nhiều hệ phái khác
nhau.Sau năm 1975, hầu như các hoạt động chính trị của đảng viên Đại Việt đều ở
hải ngoại.
Lãnh tụ: Trương Tử Anh. Chủ tich: Trần Văn Dương. Hệ tư tưởng: chủ nghĩa dân tộc
sinh tồn. Khẩu hiệu: dân tộc sinh tồn.




Ngày 14 tháng 11 năm 1964, một nhóm các đảng tân Đại Việt, chủ yếu là các đảng
viên trẻ ở vùng Lục tỉnh, tập hợp và lập ra một chính đảng mới lấy tên là Đảng Tân
Đại Việt.
Lãnh tụ: Nguyễn Ngọc Huy. Chủ tịch: Mã Xía. Hệ tư tưởng: Chủ nghĩa dân tộc
sinh tồn. Khẩu hiệu: dân tộc sinh tồn. Thuộc quốc gia: Việt Nam dân chủ cộng
hòa.Tân Đại Việt còn lập ra tổ chức ngoại viPhong trào Quốc gia Cấp tiến để thu
hút các thành phần không phải đảng viên nhưng hợp tác được với nhau.




Bên cạnh Tân Đại Việt, một nhóm các đảng viên Đại Việt khác, thành phần nòng
cốt khu vực Quảng Trị và Thừa Thiên cũng tập hợp lại, đến ngày 25 tháng
12 năm 1965 ra tuyên cáo thành lập chính đảng với tên mới Đại Việt Cách mạng
Đảng.
Lãnh tụ: Hà Thúc Ký. Chủ Tịch: Trần Dũng Minh Dân. Hệ tư tưởng: chủ nghĩa
dân tộc dân sinh. Khẩu hiệu: Nhân bản, dân chủ, thịnh vượng.

(Cờ hiệu của Đại Việt Cách mạng cũng thay đổi, giữ sao trắng trong vòng tròn xanh
nhưng nửa trên của cờ màu đỏ, nửa dưới màu vàng. Ông Hà Thúc Ký là Chủ tịch
kiêm Tổng Bí thư của đảng, Trần Việt Sơn làm Phó tổng bí thư.)

Tuy vậy, xét về tổng quan, Đại Việt (bao gồm cả Tân Đại Việt, Đại Việt Cách mạng và
Đại Việt Quốc dân đảng) là một đảng phái chính trị lớn ở miền Nam bấy giờ. Một số
đảng viên tên tuổi tham chính trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa như:
Trong cuộc tuyển cử Thượng viện Quốc hội Việt Nam Cộng hòa năm 1967, liên danh của
Đại Việt là một trong 6 liên danh chấp chính. Số đảng viên vào cuối thập niên 1960 là
khoảng 20.000 người.
1.3.


Mặt trận Quốc gia Dân chủ Xã hội.


là một tổ chức chính trị tồn tại và hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa từ năm 1969
đến tháng 4 năm 1975, do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thành lập ngày 25 tháng
5 năm 1969 nhằm tạo uy thế trên chính trường. Tổ chức này là sự mở rộng
của Đảng Dân chủ. Hệ tư tưởng: chủ nghĩa xã hội dân chủ. Vị thế chính trị chủ
nghĩa dân tộc.
Đảng Công Nông Việt Nam

1.4.

là một chính đảng hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1969 1975. Cuối năm 1967, sau khi nền Đệ nhị Cộng hòa thành lập,
ông Nguyễn Bá Cẩn, liên kết với nghị sĩ Đặng Văn Sung thuộc Liên
danh Nông Công Binh tại Thượng viện để thành lập Liên khối Dân chủ
Xã hội Lưỡng viện. Đến năm 1969, khối này liên kết với ông Trần Quốc
Bửu - Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao công Việt Nam - để thành lập Đảng
Công Nông Việt Nam. Ông Trần Quốc Bửu được bầu làm Chủ tịch
Đảng, ông Nguyễn Bá Cẩn giữ chức Tổng Bí thư.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với nhiều tổ chức chính trị khác
tại Sài Gòn, Đảng Công Nông Việt Nam bị Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam cưỡng bức giải thể.
1.5.

Đảng Dân chủ Nam Việt Nam

Đảng Dân chủ Nam Viêt Nam (tên gọi ban đầu là Liên minh
Dân tộc Cách mạng Dân chủ Xã hội, Liên minh Tự do Dân chủ) là một
chính đảng và tồn tại ở Việt Nam Cộng Hòa từ 1967 đến 1969 do cựu



Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu thành lập năm 1967 tại Sài Gòn với mục
đích tham gia cuộc tiển cử 1967 một cách hợp hiến.
Đảng theo hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa dân tộc
với khẩu hiệu Tự do - Dân chủ - Tiến bộ - Phú cường.
Đến năm 1969 Đảng này chính thức giải tán và được thay thế bởi Mặt
trận Quốc gia Dân chủ Xã hội.
1.6.
Đảng Phục Hưng.
Thành lập vào năm 1953 tại Sài Gòn (khi đó thuộc chính thể Quốc
gia Việt Nam). Đảng Phục hưng là tập hợp một số nhân sĩ -trí thức hoạt
động chính trị trên tinh thần tự do - dân chủ - công khai do Nguyễn Văn
Hương làm chủ tịch.
Đảng ra đời và hoạt động trong 10 năm, đến năm 1963 đảng tuyên
bố giải thể.

2. Các Đảng phái thành lập trên sự phát triển của phong trào cách

mạng miền Nam Việt Nam.
2.1.

Đảng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam

Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam - sau đổi tên là Đảng Nhân dân Cách mạng
Miền Nam Việt Nam - là một tổ chức chính trị hình thức do Trung ương Cục miền
Nam thành lập tại chiến khu Tây Ninh vào ngày 1 tháng 1 năm 1962 dựa trên chủ
trương của Trung ương Đảng Lao động.
Vì sao đổi tên: Căn cứ vào thực tiễn của cách mạng Miền Nam và đề nghị của
Đảng bộ miền Nam "đảng bộ Miền Nam phải có tên riêng vì nếu giữ tên cũ công khai
thì kẻ thù trong và ngoài dễ tin vào đó mà xuyên tạc, vu cáo Miền Bắc can thiệp lật đổ

Miền Nam. Điều đó làm cho Miền Bắc gặp khó khăn trong cuộc vận động đấu tranh
cho Miền Nam trên phương diện pháp lý quốc tế. Mặt khác đổi tên Đảng cũng tạo
điều kiện cho Đảng bộ Miền Nam công khai hiệu triệu nhân dân Miền Nam dùng mọi
hình thức để đánh đuổi kẻ thù. Ban đầu Đảng hoạt động bí mật với những người lãnh
đạo: Võ Chí Công: chủ tịch Đảng, Nguyễn Văn Linh: Tổng bí thư với tên Nguyễn
Văn Cúc. Phan Văn Đáng: Ủy viên trung ương với tên Hai Văn or Phạm Xuân Thái.
Sau tháng 12/1969 thì hoạt động công khai và là đại diện của Đảng lao động Việt
Nam ở miền Nam Việt Nam (là Trung ương cục miền Nam của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao dộng Việt Nam). Nguyễn Văn Linh công khai là Tổng bí thư Trung
ương cục miền Nam đại diện Đảng tham dự trong hội nghị thành lập chính phủ lâm
thời.


Cương lĩnh của Đảng là:
1. Lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm và thành lập một chính phủ liên minh dân tộc

dân chủ.
2. Thực hiện một chương trình mở rộng các quyền tự do dân chủ, tổng ân xá cho tù

nhân chính trị, bãi bỏ các ấp chiến lược và các trung tâm tái định cư, bãi bỏ các
luật tòa án quân sự đặc biệt và luật pháp phi dân chủ khác.
3. Xóa bỏ sự độc quyền kinh tế của Mỹ và bọn tay sai, bảo vệ các sản phẩm sản xuất

trong nước, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, và cho phép người bắt buộc
phải sơ tán từ miền Bắc Việt Nam trở về nơi sinh của họ.
4. Giảm tiền thuê đất và chuẩn bị cho cải cách ruộng đất.
5. Loại bỏ văn hóa nô lệ và đồi bại Mỹ và xây dựng một nền văn hóa và giáo dục dân

tộc tiến bộ.
6. Xóa bỏ hệ thống của các cố vấn quân sự Mỹ và đóng tất cả các căn cứ quân sự


nước ngoài tại Việt Nam.
7. Thiết lập sự bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các dân tộc khác nhau và công

nhận các quyền tự trị của các dân tộc thiểu số trong cả nước.
8. Theo đuổi một chính sách đối ngoại hòa bình và sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao

với tất cả các nước tôn trọng độc lập và chủ quyền của Việt Nam.
9. Thiết lập lại quan hệ bình thường giữa Bắc và Nam như là một bước đầu tiên

hướng tới thống nhất trong hòa bình của đất nước.
10. Phản đối chiến tranh xâm lược và tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.

Đến 30/4/1975 sát nhập lại với Đảng Lao động .Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chủ tịch Võ
Chí Công. Báo chính thức giải phóng. Tổ chức thanh niên là đoàn thanh niên nhân
dân cách mạng Hồ Chí Minh. Hệ tư tưởng chính trị: chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa
dân tộc.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, đảng bộ Miền Nam công khai là một bộ phận của Đảng
Lao động Việt Nam. Cái tên Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam không tồn tại nữa.


Lúc này Cơ cấu tổ chức cũng trực thuộc trực tiếp Trung ương Đảng Lao động lãnh
đạo, sinh hoạt đảng của nội bộ như các đảng bộ ngoài Bắc, dùng tên Đảng Nhân dân
cách mạng, hay Đảng Lao động, tôn Hồ Chí Minh làm lãnh tụ. Điều lệ Đảng Nhân
dân Cách mạng Việt Nam cũng do Trung ương Đảng Lao động Việt Nam soạn thảo.
Về công khai là lực lượng nòng cốt Mặt trận và chỉ đạo Quân giải phóng.


Từ những điều trên đưa ra những nhận định của nhóm về Đảng
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam được điều khiển bởi Đảng ở Miền

Nam, Đảng nhân dân cách mạng miền NamVN được thành lập tháng 1 năm 1962.Ở
miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và ở miền nam là đấu tranh giải phóng,
trong điều kiện đó khi Đảng thành lập đủ đảm bảo độc lập của đảng ở miền nam từ
Đảng Lao động của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nó có lẽ cũng cần thiết để phong
trào cách mạng ở nam Việt Nam có một sự thống trị riêng biệt với Hà Nội trong mắt
cộng đồng quốc tế. Dẫu Đảng là đảng phía nam và các thành viên của nó là người bản
địa miền nam, nhưng liên kết chặt chẽ với Đảng ở Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm
1960, tổ chức vùng của Đảng Lao động ở nam Việt Nam đã được nâng cấp thành
Trung ương Cục Miền Nam. Đây là một sự khôi phục quan trọng bộ máy cấp vùng để
có được vị thế trong kháng chiến của ta.
Là bộ máy của Đảng Lao động ở miền Nam Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng
là nhánh phía nam của Đảng cộng sản Lao động ở bắc Việt Nam. Cấu trúc điều khiển
cuộc nổi dậy ở nam Việt Nam là một sự hợp nhất phức tạp của các thực thể chính trị
và quân sự. Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao động ở Hà Nội điều khiển hoạt
động ở miền Nam thông qua Trung ương Cục Miền Nam. Trung ương cục miền Nam
có chức năng là Ban Chấp hành Trung ương của Đảng nhân dân cách mạng miền
Nam.
Đảng kỳ:

2.2.

Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt
Nam.


Đảng kỳ:

Là một tổ chức được thành lập sau sự kiện Tết Mậu Thân vào ngày 20 tháng
4 năm1968. Chủ tịch là Trịnh Đình Thảo. Hệ tư tưởng chủ nghĩa dân tộc, vị trí
chính trị thiên tả. Mục đích là đòi độc lập cho dân tộc, đòi dân chủ và hòa bình cho

Việt Nam
Lực lượng: tổ chức này tập hợp đại diện các nhân sĩ, bác sĩ, nhà giáo, nhà văn,
nhà báo, người tu hành, sinh viên, tư sản dân tộc, sĩ quan và công chức tiến bộ
trong quân đội và chính quyền miền Nam.
Vai trò: Đây là một chủ trương của Đảng Cộng sản tạo ra một tổ chức
đệm giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và các thế lực khác
(lực lượng thứ ba), nhưng không phải là "lực lượng thứ ba", nhằm tranh thủ tất cả
những ai tán thành độc lập dân tộc, dân chủ, trung lập và hòa bình, nhằm "làm cho
kẻ thù bị cô lập cao độ”.
Hoạt động:
+ Ngày 8 tháng 6 năm 1969 Liên minh kết hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam thành lập chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
+ Tháng 12 năm 1972 tổ chức này và Mặt trận giải phóng tổ chức hội nghị kết nối
Sau khi Việt Nam thống nhất, đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức Mặt trận. Nhằm
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, Đại hội các Mặt trận tại Việt Nam họp từ
31/1/1977 đến 4/2/1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức
Mặt trận ở hai miền Nam Bắc Việt Nam (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng
Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam) thành một tổ chức Mặt trận duy
nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2.3.
Đảng Xã hội Việt Nam.
Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 7 năm 1946,
tên ban đầu là Việt Nam Xã hội đảng, dưới vận động của Mặt
trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm mục đích "tập
hợp, đoàn kết mọi trí thức yêu nước và dân chủ".


Lãnh đạo ban đầu của đảng là Phan Tư Nghĩa và Nguyễn Xiển, bảo trợ chính trị Võ
Nguyên Giáp. Đảng có 24 ghế trong Quốc hội khóa I Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa, tập hợp trong khối cánh tả. Một số thành viên như Hoàng Minh
Giám, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên,Đặng Phúc Thông, tham gia chính phủ Việt Nam.
Ngay sau thành lập Đảng Xã hội đã gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam.
Trong Đảng Xã hội có một số đảng viên đồng thời là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
(thời gian 1946 đã "giải tán" - hoạt động công khai trong Việt Minh).
Cùng với Đảng Cộng sản (Việt Minh) và Đảng Dân chủ (và trong một thời gian
ngắn các đảng khác), Đảng Xã hội đã liên minh tham gia Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc với khẩu hiệu tự do
- bình đẳng - bác ái.
Ngày 22/7/1988 khi trào lưu đa nguyên đa đảng bắt đầu nảy nở ở một số nước cộng
sản Đông Âu, với lí do kết thúc sứ mạng lịch sử Đảng Xã hội chính thức giải thể.





×