Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ôn tập luật đầu tư tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.1 KB, 13 trang )

Câu 1: Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Phân
tích, vd thực tiễn?
 Tác động tích cực

Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực đầu tư trong nước
Tính đến tháng 8/2012, cả nước có 14.095 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn
đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đã giải ngân được 97,4 tỷ USD
(chiếm 47% vốn đăng ký). ĐTNN là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ
tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm 1995 GDP của khu vực ĐTNN
tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc độ này tương ứng là 11,44% và
6,79% (2000), 13,22% và 8,44% (2005), 8,12% và 6,78% (2010). Tỷ trọng đóng góp
của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần, từ 2% GDP (1992), lên 12,7% (2000),
16,98% (2006) và 18,97% (2011). Tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng kinh tế
thể hiện rõ hơn thông qua:
Góp phần quan trọng vào xuất khẩu
Chủ trương khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt Nam
trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng bước tham gia và
cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả
dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và
dần trở 10 thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim
ngạch xuất khẩu năm 2012.
Bên cạnh đó, ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo
(1).
ĐTNN tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là sang Hoa Kỳ,
EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Ngoài ra, ĐTNN còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu thông
qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do doanh


nghiệp (DN) trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên
14,2 tỷ USD (2001 – 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực ĐTNN (không kể
dầu thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách (18,7% tổng thu nội địa, trừ
dầu thô).
Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
- điện đại hóa
Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với trình
độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp xây dựng của khu vực ĐTNN đạt bình quân gần 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng


toàn ngành. Đến nay, khu vực ĐTNN đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp,
góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn
thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng...
ĐTNN đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa
sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ
tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo
ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là các dự án đầu tư vào phát triển
nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu
kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao như
khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật,
vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra phương thức
mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động thương mại nội địa và
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ
cấu lao động
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3- 4 triệu lao
động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công

nghiệp hóa - hiện đại hóa. DN ĐTNN được xem là tiên phong trong việc đào tạo tại
chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản
lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức
thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, ĐTNN đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng
cho bên cung ứng và bên mua hàng.
Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng cao
trình độ công nghệ của nền kinh tế
Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong
nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến nay, cả nước có 951 hợp
đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng
của DN ĐTNN, chiếm 63,6%.
Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong
nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo
đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành đã thực hiện
tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, ô
tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu
quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện thông qua mối liên
kết sản xuất giữa DN ĐTNN với DN trong nước, qua đó tạo điều kiện để DN trong
nước tiếp cận hoạt động chuyển giao công nghệ.


Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu vực DN sản xuất
trong nước cùng ngành và DN dịch vụ trong nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông
qua mối quan hệ với DN ĐTNN, DN trong nước ứng dụng công nghệ sản xuất tương
tự để sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh
tranh. Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong nước để hỗ
trợ cho hoạt động của các DN ĐTNN.

Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ quốc
gia, DN và sản phẩm
Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng vững chắc trên
các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ tiêu về vốn, công
nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào và tiêu thụ sản phẩm) và
năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy năng lực cạnh tranh của khu vực
ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước.
Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của khu vực
trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy năng suất, tăng
trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ công nghệ,
trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị DN, tạo
thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công tác quản lý kinh tế
và DN, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá trình hoàn thiện luật pháp,
chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế;
đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với xu thế hội nhập.
Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung
với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và
nhiều nước.
 Tác động tiêu cực

a) Chuyển giao công nghệ.
Nước tiếp nhận đầu tư có thể sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty
nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc
thiết bị cũ. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các
nước nhận đầu tư như là

- Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước
nhận đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp
liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
- Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải bảo
vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông


qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện
pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu
- Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận
đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
b) Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đước chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia, đã
làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế của
nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty
xuyên quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan
trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các
nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những bên
đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu
hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác.
Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền
kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn. Nhưng vấn đề này có xảy ra hay
không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước.
Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban 7đầu của
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chóng phát triển công nghệ nội đại, tạo nguồn
tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng
như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc
của các công ty đa quốc gia.
c) Chi phí cho thu hút FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp.
- Chi phí của việc thu hút FDI:

Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như là
giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư
nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số các
dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh
vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư
có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư còn tính giá
cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tưt hường tính giá cao
cho các nguyên vật liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực
hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng hạn như
trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn
chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thịtrường. Ngược lại, điều này
lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do
các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn. Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ
sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ
chuyên môn yếu, hoặc các chính sách của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các
nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
- Sản xuất hàng hóa không thích hợp:
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho các
nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại cho khỏe con


người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốc lá, thuốc trừ
sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng vv
d. Xuất hiện nguy cơ rửa tiền. Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức
rửa tiền quốc tế chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và
tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các
luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con
đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế
giới. Việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội
phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho

việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể tiến hành đầu tư vào
nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không
phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.
Câu 2: Đánh giá môi trường đầu tư nươc ngoài tại việt nam :
Nếu theo dõi quá trình thu hút vốn đầu tư của việt nam trong khoảng 3 năm trở lại
đây, thì vn đã khá thành công trong việc thu hút vốn fdi. Đặc biệt, là từ các nước châu
á như: hàn quốc, nhật bản, singapore,.. và nếu nhìn vào tăng trưởng GDP trong cả giai
đoạn thì vn cũng là một trong những điểm đến số một tại châu á. Do đó, nếu nhìn vào
các số liệu trong cả giai đoạn và so sánh với hiện tại có thể thấy hiện thu hút fdi vào
vn có giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái; năm 2013 thu hút FDI tăng khá mạnh so
với năm 2012 (Theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 15 tháng 12 năm 2013 cả
nước có 1275 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký là 14,272 tỷ USD,
tăng 70,5% so với cùng kỳ năm 2012 và 472 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,355 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm 2012) .
trước đó, năm 2011 vốn FDI thu hút khá cao và giảm mạnh vào năm 2012 (tính từ
1/1/2012 đến 31/12/2012, cả nước đã có 1.287 dự án ĐTNN mới được cấp
GCNĐT với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD, bằng 71,2% so với năm 2011. Trong
năm 2012 có 550 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng
thêm là 7,7 tỷ USD, tăng gấp 2,3 lần so với năm 2011) . và đến năm 2013 thì tăng
mạnh trở lại nhưng số liệu 6 tháng đầu năm 2014 lại cho thấy đầu tư FDI vào việt nam
có xu hướng giảm ( tính từ 01/01/2014 đến 20/06/2014 cả nước đã có 656 dự án
DTNN mới được cấp GCNDT với tổng số vốn đăng ký là 4,858.7 triệu USD bằng
93,2% so với cùng kỳ năm 2013. Số lượt dự án tăng vốn đạt 219 dự án với tổng số
vốn đăng ký tăng thêm 1,993.99 triệu USD bằng 66,6% so với cùng kỳ 2013,..) tuy
nhiên, những số liệu đó vẫn chưa phản ánh được hết mức độ đầu tư vào vn , trong bài
phát biểu của thủ tướng ở diễn đàn kinh tế vn, thấy rằng chính phủ đã có những cố
gắng và những nỗ lực để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. Do đó, Vn có thể còn
thu hút nhiều nhà đầu tư từ nước ngoài hơn nữa và nhất là các doanh nghiệp từ châu
âu.
Trong một bài báo cáo của ngân hàng thế giới cho thấy, các chỉ số về môi trường đầu

tư của vn đang ở mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của khu vực, vd như:
tổng số giờ phải nộp thuế của doanh nghiệp gấp 4 lần so với trung bình của khu vực


châu á thái bình dương , thời gian làm thủ tục xnk cũng gâp nhiều lần so với khu vực.
Vậy câu hỏi đặt ra là nó có làm cản trờ tăng trưởng kinh tế của vn hay không? Và tất
nhiên là có ảnh hưởng đến kinh tế vn. Thật ra, các nhà đầu tư thường nhắm đến những
nơi mà chính phủ có thể cải thiện môi trường đầu tư và e nghĩ rằng Việt Nam có thể
có những thay đổi những cải cánh hiệu quả. Nếu giải quyết được những vấn đề về thủ
tục pháp lý rườm rà, và cơ chế chồng chéo đối với một số nhóm thủ tục hành chính,
rút ngắn thời gian so với hiện tại thì e cho rằng điều này sẽ tạo một lực đẩy cho kinh tế
việt nam và nếu giải quyết nhanh những vấn đề này thì không những có lợi cho nhà
đầu tư nước ngoài khi đến việt nam mà còn cho cả hoạt động kinh tế tại việt nam nói
chung.
Câu 4: Bình luận quan điểm: “Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của VN còn
chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và đặc biệt tính hiệu lực còn thấp”. Theo anh
(chị), VN cần có giải pháp gì để khắc phục, cải thiên tình trạng trên.
Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu bước ngoặt
lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các dòng vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Năm 2007, lượng vốn FDI đăng ký đạt 21,348 tỷ USD, tăng gần 80% so với
năm 2006 (năm 2006 đạt 12,044 tỷ USD), và đạt mức kỷ lục gần 72 tỷ USD vào năm
2008. Tuy nhiên, sau đó lượng FDI lại liên tục giảm: năm 2009 đạt 23,107 tỷ USD;
2010 đạt 19,764 tỷ USD; 2011 đạt 14,696 tỷ USD; năm 2012 đạt 16,3 tỷ USD; năm
2013 đạt 21,6 tỷ USD.
ĐTNN đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Do vậy, việc
nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc hoàn thiện môi trường pháp lý cũng như đảm
bảo tính đồng bộ, nhất quán, rõ ràng trong các quy định về đầu tư kinh doanh nhằm
khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được đưa vào Nghị quyết của Chính phủ, nhằm

nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Theo các chuyên gia, chưa bao giờ yêu cầu giải quyết các vướng mắc, bất cập cũng
như hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, từ đó cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới
trong thu hút đầu tư nước ngoài đặt ra cấp thiết như hiện nay. Chính vì vậy, đây được
xác định là nhiệm vụ trọng tâm nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cũng
như nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý và thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay, ông Đỗ
Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài cho rằng, sự liên kết và tính lan tỏa
chưa cao mà cũng không thấp, công tác quy hoạch đầu tư nước ngoài của các ngành
và địa phương vẫn chưa tập trung, quy trình thủ tục cấp phép thiếu thông thoáng, tồn
tại nhiều điều kiện không hợp lý, đặc biệt hậu kiểm sau cấp phép còn yếu, hệ thống
văn bản pháp luật thực thi chồng chéo mâu thuẫn.


Đặc biệt, về mô hình quản lý đầu tư, theo ông Hoàng là vẫn chưa hợp lý. “Vừa qua,
chúng ta cấp phép đầu tư lúc vào xem xét rất kỹ nên bị đánh giá là thủ tục rườm rà,
nhưng sau khi cấp phép, khâu quản lý còn nhiều vấn đề, đặc biệt là sau khi phân cấp.
Năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thu hút đầu tư nhiều hơn, quy mô lớn
hơn, công cụ cũng như bộ máy kiểm soát sau cấp phép về nguyên tắc cũng phải tương
xứng, nhưng thực tế, bộ máy đã tương xứng chưa thì vẫn là vấn đề cần bàn”, ông
Hoàng băn khoăn.
Chính vì vậy, theo ông Hoàng, hiện nay mô hình đầu tư của Việt Nam cần được cải
tiến tiệm cận dần với mô hình của thế giới. Theo đó, khâu đầu vào cần nhanh thông
thoáng đạt tiêu chí là được cấp phép, nhưng sau đó sẽ phải quản lý chặt đảm bảo quản
lý nhà nước đối với hoạt động này.
Để thực hiện được mục tiêu đó, ông Hoàng cho rằng cần phải có công cụ quản lý và
hàng rào kỹ thuật để đảm bảo thực thi tốt khâu hậu kiểm. “Công tác hậu kiểm cần
được thực thi bằng hệ thống luật pháp liên quan và cả bộ máy tương ứng và xuất phát
từ ý thức của cả phía DN và cơ quan nhà nước”, ông Hoàng nhấn mạnh. Bên cạnh đó,

các giải pháp cần được thực hiện đồng bộ là cải cách thủ tục hành chính, cài thiện cơ
sở hạ tầng, phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao chất lượng lao động, đẩy mạnh
chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Ở khía cạnh môi trường pháp lý, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Biên tập Báo Đầu tư
cho rằng, việc đẩy nhanh rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp lý cũng là
điều kiện hết sức quan trọng để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao
hiệu thu hút và sử dụng dòng vốn FDI. Đây chính là mục tiêu then chốt trong công tác
hoàn thiện các văn bản luật trọng yếu là Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp sửa đổi
đang được tiến hành rất khẩn trương và nghiêm túc hiện nay.
 Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút nguồn ngoại lực

Một là, nâng cao chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài cần được coi là định hướng
quan trọng nhất, để hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Theo đó, các dự án
được ưu tiên là công nghệ điện tử, tin học, dịch vụ cao cấp, đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao, cơ sở y tế và chăm sóc sức khỏe hiện đại, xây dựng hạ tầng kỹ thuật.
Có định hướng rõ ràng đối với các nhà đầu tư nước ngoài và các DN trong nước nhằm
nâng cao chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài gắn với việc xử lý mối quan hệ giữa thị
trường trong nước với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, tạo ra những sản phẩm mới,
chất lượng cao, duy trì cạnh tranh trên thị trường; Chú trọng phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ để giảm bớt việc nhập khẩu nguyên liệu ở nước ngoài, tạo điều kiện cho
các ngành công nghệ chế tạo, chế biến phát triển, hạn chế đầu tư nước ngoài vào các
ngành gia công, các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, các ngành sử dụng nhiều năng
lượng và tài nguyên là vấn đề rất quan trọng trong thời gian tới; Cần tăng cường sự
liên kết, hợp tác giữa DN đầu tư nước ngoài và DN trong nước để hỗ trợ nhau cùng
phát triển.


Hai là, FDI với kinh tế vùng và địa phương cần được điều chỉnh về quan điểm, nhận
thức để có giải pháp đúng. Việc phân bố nguồn lực bao gồm FDI cần được điều chỉnh
theo hướng vừa tạo ra một số đầu tàu kinh tế ở những địa phương có sức lôi kéo kinh

tế vùng và cả nước như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nhưng lại phải điều phối hợp lý
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở những địa phương chậm phát triển, chưa có
môi trường thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Những địa phương này cần
được Chính phủ ưu tiên trong việc phân bố nguồn vốn từ NSNN, có chính sách
khuyến khích mạnh mẽ DN tại địa phương và DN trong nước. Các tập đoàn kinh tế
nhà nước có trách nhiệm phân bố nguồn lực cho các địa phương này để giải quyết một
số vấn đề kinh tế - xã hội bức thiết, nhất là xóa đói, giảm nghèo, không làm giãn thêm
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các địa phương có điều kiện thuận lợi
hơn.
Ba là, tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội
dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung nội dung còn thiếu; sửa đổi các quy
định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Sửa đổi
Luật Đầu tư, Luật DN, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Đất đai, Luật Môi trường và
các Luật khác liên quan theo hướng nhất quán, tránh chồng chéo, theo đó sửa các nghị
định, thông tư liên quan của các Luật trên. Rà soát các quy định pháp luật hiện hành
quy định về hoạt động mua lại và sát nhập có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, hoàn
thiện khung pháp lý về mua lại và sát nhập hiện đang được quy định tại nhiều văn bản
quy phạm pháp luật.
Bốn là, tích cực triển khai thực hiện Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán
(TTCK) và DN bảo hiểm đã được phê duyệt. Đẩy nhanh việc tái cấu trúc các Sở giao
dịch chứng khoán, đa dạng hóa các công cụ cho nhà đầu tư giao dịch, đặc biệt đối với
nhà đầu tư nước ngoài. Việc thành lập Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam với các
thị trường bộ phận được hình thành và chuyên biệt bao gồm thị trường cổ phiếu, thị
trường trái phiếu và thị trường phái sinh sẽ giúp cấu trúc TTCK Việt Nam được hoàn
chỉnh, trên cơ sở đó, các sản phẩm, hàng hóa mới dễ dàng được phát triển. Đặc biệt,
việc tập trung thị trường cổ phiếu về một mối cần được thực hiện nhanh để gia tăng
quy mô và hình ảnh về TTCK Việt Nam.
Năm là, song song với việc tái cấu trúc TTCK, cần xem xét rà soát bổ sung, sửa đổi
Luật Chứng khoán hiện hành theo hướng tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước
đối với các giao dịch diễn ra trên TTCK. Hoàn thiện cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt

động của các định chế trên thị trường như các quỹ đầu tư; các nhà đầu tư cá nhân và
các nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp cả trong nước và nước ngoài, nâng cao chất
lượng hàng hóa trên thị trường… Xây dựng thị trường tài chính hiện đại và hiệu quả
là hết sức cần thiết để giúp DN có tín hiệu đúng về thị trường và tìm kiếm nguồn vốn
cho hoạt động kinh doanh của mình
Sáu là, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, không cấp phép các dự án công
nghệ lạc hậu, có tác động xấu tới môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất,
giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả


đất khu công nghiệp. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên
địa bàn cả nước để có hướng xử lý đối với từng loại dự án, đặc biệt với các dự án quy
mô lớn, sử dụng nhiều đất đai bao gồm cả việc rút giấy phép nếu cần thiết.
Bảy là, xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết của
Việt Nam với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa
- y tế - giáo dục, bưu chính - viễn thông, hàng hải, hàng không.
Tám là, nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn
đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và đối tác trọng điểm
như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản… chú trọng và đẩy nhanh tiến độ
đàm phán các Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và các đối tác lớn. Thực
hiện chính sách ưu đãi đặc biệt dành cho đối tác chiến lược với sự cam kết cao nhất
của Nhà nước cũng như dỡ bỏ các ưu đãi dành cho các nhà đầu tư thông thường. Luật
Đầu tư cần thiết kế những ưu đãi cụ thể riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư chiến lược
từ các đối tác lớn, đặc biệt là từ các công ty đa quốc gia top 500 của thế giới.
Chín là, cần có chính sách ưu tiên, đặc thù cho một số địa phương phù hợp thực tế để
dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút FDI phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
Mười là, xây dựng danh mục đầu tư quốc gia và kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài cho
giai đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo, kèm theo xây dựng mạng thông tin chi
tiết về dự án. Xây dựng văn bản pháp quy về công tác xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành

lang pháp lý thống nhất trong công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức
thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Câu 5: TS Đỗ Thiên Anh Tuấn: - Việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp
FDI thời gian vừa qua không như mong muốn về cả số lượng lẫn chất lượng.
Thực trạng này không phải lỗi của các nhà đầu tư FDI mà cũng không phải lỗi của các
doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề rộng hơn nằm ở chính sách và môi trường thu hút
FDI của chúng ta không được thiết kế để khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động
chuyển giao công nghệ.
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã được triển khai từ khá sớm
ngay sau khi chúng ta thực hiện đường lối Đổi mới kinh tế. Luật Đầu tư nước ngoài
1987 được ban hành trong đó nêu rõ “Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam”.
Tuy nhiên trên thực tế, trong giai đoạn đầu chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của
chúng ta được thiết kế theo kiểu đại trà, có gì ăn đó. Trong quá trình quản lý cấp phép
đầu tư, chúng ta đặt ra một số điều kiện và tiêu chuẩn nhưng thực ra là đánh đồng nó
với quy trình và thủ tục.
Chính sách này ban đầu được áp dụng ở cấp trung ương, sau đó do quá trình phân cấp
đầu tư lại được chuyển giao cho cấp địa phương thực hiện. Các địa phương, cũng do
chạy theo thành tích mà việc thu hút đầu tư cũng trở nên gấp gáp, chỉ để lấp đầy các
khu công nghiệp hoặc có vốn để bổ sung vào chỉ tiêu vốn đầu tư.


Họ thậm chí tìm cách lách qua mọi ngõ ngách của quy định để thu hút đầu tư mà
không hề tính đến một lộ trình phát triển lâu dài cho địa phương, không căn cứ vào lợi
thế so sánh cũng như điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Để thu hút được dòng vốn nước ngoài, chúng ta đưa ra rất nhiều biệt đãi chẳng hạn
như ưu đãi thuế hay chính sách thuê đất nhưng không kèm theo những ràng buộc. Do
không có ràng buộc phù hợp nên nhiều doanh nghiệp FDI đến Việt Nam chỉ để tận
dụng các biệt đãi này mà hầu như không phải thực hiện cam kết nào, và một khi các
ưu đãi này không còn họ sẽ tìm kiếm các ưu đãi khác hoặc rút đi khi môi trường

không còn thuận lợi so với các nước khác.
Các mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài cho đến gần đây thường được dẫn ra hết sức
chung chung theo kiểu lý thuyết, chẳng hạn như bổ sung vốn đầu tư cho nền kinh tế,
giải quyết công ăn việc làm, cải thiện thu nhập người lao động, chuyển giao công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, tăng năng lực xuất khẩu… trong khi hầu như không thấy
một chiến lược thu hút đầu tư nhằm vào từng mục tiêu cụ thể phù hợp với từng thời kỳ
và đặc điểm địa phương. Chính vì điều này mà chúng ta không có được các phương án
và kế hoạch cụ thể để khuyến khích và thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển giao công nghệ xét cho cùng cũng xuất phát từ vấn đề lợi ích và chi phí.
Khi các doanh nghiệp FDI không nhìn thấy các lợi ích ròng có tính chất dài hạn rõ
ràng từ việc chuyển giao công nghệ thì họ không có động cơ gì để phải chia sẻ hiểu
biết và chuyển giao công nghệ. Trong trường hợp này, các quy định có tính chất gây
áp lực buộc chuyển giao công nghệ mang tính hành chính sẽ không thể giải quyết
được vấn đề.
Ngoài ra, nếu nhìn ở nguồn FDI, rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến từ các nước
trong khu vực, ở đó trình độ công nghệ không quá cao và không thể cạnh tranh so với
các nước tiên tiến. Do đó, ngay cả khi các công nghệ này được chuyển giao thì trình
độ công nghệ mà doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp nhận và học hỏi được cũng
không phải là thứ chúng ta đặt kỳ vọng.
Một số doanh nghiệp FDI quy mô lớn, tầm cỡ quốc tế, có trình độ công nghệ thuộc
dạng hàng đầu thế giới cũng đã bắt đầu có mặt ở Việt Nam. Trong khi đó, các doanh
nghiệp trong nước của chúng ta đa phần là quy mô nhỏ, có tiềm lực tài chính yếu kém,
không đủ khả năng tiếp cận công nghiệp hiện đại của thế giới, lại khó với tới các
chuẩn mực cao để hợp tác được với các doanh nghiệp FDI có nền tảng công nghệ tiên
tiến.
Thêm nữa, một nguồn lực rất lớn lại được dồn cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng
các doanh nghiệp này lại hiệu động kém hiệu quả, hoạt động chủ yếu trong các lĩnh
vực được nhà nước bảo hộ hoặc trao đặc quyền, trong khi không mấy doanh nghiệp có
chiến lược vươn ra cạnh tranh toàn cầu, học hỏi, tiếp thu và chiếm lĩnh công nghệ thế
giới. Một số tập đoàn tư nhân có đủ nguồn lực để làm điều này thì cũng tự biến mình

thành các doanh nghiệp thân hữu, tìm kiếm đặc quyền đặc lợi thay vì hướng đến mục
tiêu sáng tạo và phát triển.


Câu 6 : Những trở ngại lớn nhất khi đầu tư vào thị trường Việt Nam?
Một báo cáo về tình hình đầu tư cá nhân tại Việt Nam của Công ty kiểm toán quốc tế
Grant Thorton nói rằng tham nhũng, tệ quan liêu và hệ thống pháp lý là trở ngại
lớn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi xem xét đầu tư vào Việt Nam. Báo cáo
này- được công bố hôm 17.6.2013- cho biết, có 82% số nhà đầu tư nước ngoài khi
được hỏi đã trả lời tham nhũng và tệ quan liêu là “trở ngại chính” hoặc là “một khó
khăn” khi đầu tư vào Việt Nam. Đáng nói, báo cáo này cũng nói rằng tỉ lệ các nhà đầu
tư phàn nàn về tệ quan liêu và thủ tục hành chính của bộ máy công quyền đã tăng lên
10% so với lần khảo sát trước. Hệ thống pháp lý cũng là một mối quan tâm khác khi
có đến 78% số nhà đầu tư được hỏi tỏ ra lo ngại, tăng 5% so với lần khảo sát trước.
Tuy vậy, bản báo cáo này cho biết tình hình vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn
khả quan, bất chấp tình hình kinh tế trong nước đang gặp nhiều khó khăn
1.Thủ tục hành chính, quy định luật pháp
a. Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính ở Việt Nam còn rườm rà, Nhà đầu tư kêu rất nhiều chuyện phải bỏ
quá nhiều thời gian để xin một giấy phép dự án. Khi đã có giấy phép rồi thì việc giải
phóng mặt bằng còn lâu la hơn nữa. Nhiều văn bản có quy định thủ tục hành chính
nhưng không xác định rõ các bộ phận tạo thành thủ tục, dẫn đến khó công bố, công
khai và áp dụng trên thực tế. Một số quy định về thủ tục hành chính vẫn còn mang dấu
ấn của cơ chế quản lý cũ, rườm rà, phức tạp, không phù hợp với điều kiện thực tế.
Việc rà soát, đánh giá thủ tục hành chính vẫn còn mang nặng tính hình thức, chưa
khoa học, thiếu khách quan… Nhiều cơ quan Nhà nước chưa chấp hành đúng các quy
định về tiếp nhận và giải quyết công việc, vẫn còn tình trạng gây khó khăn, phiền hà
cho DN, chưa bố trí cán bộ có phẩm chất, đủ trình độ làm công tác tiếp nhận và giải
quyết công việc.
b. Quy định luật pháp

Có nhiều văn bản pháp luật chồng chéo lại thiếu tính hệ thống. Ngay cả những người
làm luật đôi khi còn không nhớ những văn bản mà mình đã đề ra, cái sau chồng lấn
cái trước, Nghị định, thông tư đôi khi lại trái với Luật. Các nhà đầu tư còn lo ngại về
các chính sách liên quan đến đầu tư, việc ban hành văn bản luật trước sau đó một thời
gian mới có thông tư hướng dẫn làm không ít các nhà đầu tư lúng túng trong thay đổi
kế hoạch; Việc chính phủ ban hành chính sách, đặc biệt là chính sách về thuế là đồng
bộ, tuy nhiên việc triển khai áp dụng thực hiện ở các địa phương lại không giống
nhau, vì thế vô tình nhà đầu tư rơi vào rủi ro do chính sách, đó là điều mà các nhà đầu
tư không mong muốn. Nếu chúng ta quyết tâm thực hiện nhất quán và quyết liệt
những chủ trương, chính sách chung thì sẽ đem lại nhiều tiềm năng đầu tư lớn hơn
nữa.
2.Tình độ chuyên môn lao động
Theo kết quả của cuộc nghiên cứu của Viện khoa học và Lao động ở nước ta cho thấy
quy mô lao động chuyên môn kỹ thuật trình độ cao mới chiếm 8,2% trong lực lượng
lao động, phân bố trong các ngành, các lĩnh vực, các nhóm ngành kinh tế và các nghề


chủ yếu còn nhiều bất hợp lý. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tổng hợp của lao động
chuyên môn kỹ thuật trình độ cao của nước ta còn rất thấp so với các nước trong khu
vực, lực lượng KH&CN đang đóng góp mờ nhạt trong quá trình tạo ra tăng trưởng,
phát triển cũng như tạo ra những thay đổi về trình độ sản xuất của nền kinh tế… dẫn
đến năng suất lao động của chúng ta còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu
trong quá trình hội nhập quốc tế.
3. Cơ sở hạ tầng, giao thông
Mặc dù số lượng dự án tăng lên rất lớn song về chất lượng các dự án lại không mấy
khả quan vì số vốn giảm rất nhiều so vơí những năm trước Chúng ta phải chấp nhận
điều này bởi vì chúng ta chưa có khả năng để có thể thu hút được các tập đoàn các
công ty lớn trên thế giới tới đầu tư. Cơ sở hạ tầng chúng ta chưa đủ để có thể đấp ứng
nhu cầu của các nhà đầu tư đưa ra như về hệ thống giao thông công cộng, kho tàng
bến bãi, cầu cống cảng biển… tóm lại về kết cấu hạ tầng còn rất hạn chế so với các

nước trong khu vực cũng như thế giới, cần phải tân dụng nguồn vốn hỗ trợ và huy
động trong dân cư để có thể đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở . Hiện nay điện năng chưa
đủ đáp ứng nhu cầu trong các trung tâm công nghiệp chủ chốt. Chi phí cho điện năng
và viễn thông rất đắt đỏ, chất lượng đường xá không đồng đều tại các nơi khác nhau
của VN hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến đường ảnh hưởng lớn tới việc vận
chuyển hàng hóa... Trong bình chọn của các công ty Nhật về địa điểm đầu tư có triển
vọng về trung hạn, VN đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Tuy nhiên,
hiện không ít nhà đầu tư Nhật rất lo lắng về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng của VN, đặc
biệt là vấn đề điện năng. "Đối mặt với tình trạng thiếu điện mới xảy ra mùa hè năm
nay ở Hà Nội, nhiều công ty e ngại rằng từ năm sau tình trạng này sẽ tiếp tục xảy ra",
đại diện của Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản cho biết.
4. Lạm phát
Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, đã có hàng ngàn doanh nghiệp
nước ngoài tới đây làm ăn. Nhưng môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong mấy
năm gầy đây đã trở nên khó khăn hơn, một phần vì tốc độ lạm phát cao. Từ năm 2008
tới nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam đã vượt mức 20% trong nhiều tháng
do nhập khẩu vượt xuất khẩu và sự mất giá liên tục của VND. Thực tế này khiến các
công ty sản xuất hàng để bán tại chỗ gặp khó, đồng thời việc tiếp cận với ngoại tệ
cũng trở nên khó khăn hơn. Đồng thời chi phí nhân công ngày càng cao dẫn đến khó
khăn cho những nhà đầu tư nước ngoài
5. Tham nhũng tệ quan liêu
Tham nhũng làm tăng chi phí đầu tư mà không có bất kỳ đảm bảo cung cấp cho sản
xuất các kết quả cần thiết. Tham nhũng do đó làm tăng sự không chắc chắn và rủi ro
gắn với đầu tư cũng như giảm ưu đãi cho các doanh nghiệp. Tham nhũng sẽ làm tăng
tính chất bất ổn định đối với các doanh nghiệp, đặc biệt liên quan tới bảo vệ quyền sở
hữu. Tình trạng bất ổn định đó sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư tiềm
năng. Các nhà đầu tư đưa ra những quyết định của họ trên cơ sở tính toán hiệu quả
đầu tư. Họ sẽ không muốn đầu tư nếu hiệu quả đầu tư giảm đi. Điều đó đặc biệt đúng



với các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp. Họ luôn so sánh hiệu quả đầu tư – tức là tốc
độ quay vòng vốn đầu tư ở nhiều nước khác nhau và quyết định đầu tư vốn vào quốc
gia có hiệu quả cao nhất.
Việt Nam xếp thứ 116 trên tổng số 177 nước trong bảng đánh giá hàng năm về tham
nhũng trong khu vực công của Tổ chức Minh bạch Quốc tế với số điểm 31/100. (trong
đó 0 chỉ mức độ tham nhũng cao và 100 là rất trong sạch). Việt Nam cũng là một
trong 2/3 số nước đạt điểm số dưới 50. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu
tư của các nhà đầu tư
6. Tiếp cận tín dụng
Khó khăn lớn nhất của hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại
Việt Namhiện nay là khả năng tiếp cận nguồn vốn vay. Theo ông Ajay Bhagat, Giám
đốc công ty côngnghiệp Dutchply cho biết muốn vay được 1 đồng tại ngân hàng Việt
Nam, các công ty nướcngoài phải bỏ ra mức vốn tương đương 150%, điều mà hầu hết
các dự án đều không thể cóđược trong những ngày đầu triển khai. Đầu tư tại Việt Nam
trong giai đoạn đầu rất khó khăn vìkhông thể tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Các
ngân hàng thương mại thường chỉ chấp nhận các loại tài sản thế chấp dạng bất động
sản và có giá trị lớn, thay vì nhà xưởng, máy mócđược tạo thành trong quá trình đầu
tư. Câu hỏi mà các ngân hàng thương mại đặt ra là ‘nhàđâu, xe đâu’, còn nhà xưởng
với họ chẳng có ý nghĩa nào hết. Cách duy nhất để tiếp cận vốnngân hàng là có tài sản
thế chấp, đồng thời chấp nhận tỷ lệ cho vay là 65% giá trị tài sản đảmbảo. Ngoài bất
đồng ngôn ngữ, một điều cản trở doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận với cácnguồn tín
dụng là thủ tục thiếu nhất quán trong hệ thống ngân hàng. Ví dụ về việc này là
cácngân hàng Việt Nam hầu như khó chấp nhận thanh toán LC, hình thức đã trở nên
rất phổ biếntại các nước trong khu vực và trên thế giới.
7. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc
góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở tại
thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn
có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó
sự thay đổi tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước

ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.



×