Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

skkn một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5 6 tuổi vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.41 KB, 13 trang )

“Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vào lớp một”
I. LÝ DO CHỌN VÀ MÔ TẢ NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài:
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Thật vậy, trước tình hình phát triển về khoa học kỹ thuật của nhân loại cũng như sự
phát triển về mọi mặt của đất nước, ngành giáo dục nước ta đang đứng trước sự thách
thức mới: Phải đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng xu thế phát triển của thời đại và xã hội
hiện nay. Đó là những con người phát triển toàn diện, có tri thức, có năng lực, có trí
tuệ,… để điều hành xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà trẻ em hôm
nay chính là mầm non tương lai để đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức
đó.
Từ lớp mẫu giáo lớn chuyển sang học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong hoạt
động chủ đạo của trẻ, cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân là cấp học mầm
non, vì thế giáo viên mầm non cần phải chuẩn bị đầy đủ cho trẻ về mặt tâm thế, trí tuệ,
khả năng giao tiếp, kỹ năng học tập...tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ bước chân vào lớp 1
một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.
Trên thực tế, tôi nhận thấy giáo viên khối lớp lá ở một số trường và phụ huynh học
sinh chưa thật sự chú tâm đến việc chuẩn bị cho trẻ tâm thế, trí tuệ, khả năng giao tiếp, kỹ
năng học tập,... cho trẻ bước chân vào lớp 1. Nhận thức được vấn đề nêu trên, tôi luôn
tìm tòi, đầu tư suy nghĩ để đề ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm phát huy hết tiềm
năng ở trẻ đồng thời tôi cũng mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế
cho trẻ 5- 6 tuổi vào lớp 1” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 20162017.
2. Mô tả nội dung:
Việc chuẩn bị cho trẻ tâm thế, trí tuệ, khả năng giao tiếp, kỹ năng học tập,...tạo điều
kiện thuận lợi cho trẻ bước chân vào lớp 1 không phải là ngày một ngày hai mà là quá
trình rèn luyện lâu dài một cách có hệ thống, logic. Vì thế, người giáo viên phải có tính
kiên nhẫn, chịu cực chịu khó,... trong quá trình chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1 sau này
một cách thuận lợi nhất.
2.1. Khảo sát thực trạng của lớp
Để nắm được tình hình tâm sinh lý cũng như khả năng nhận thức của từng trẻ như thế
nào, tôi đã lên kế hoạch khảo sát chất lượng đầu năm cho trẻ như sau:


Số liệu đầu vào
Thực trạng

Nội dung khảo sát
Số trẻ

Tỷ lệ

Về tố chất vận động và phát triển thể
lực của trẻ

20/ 34 trẻ

58,82%

Về tâm sinh lý và tâm thế cho trẻ vào
lớp 1

7/ 34trẻ

20,59%

1


Ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp

9/ 34 trẻ

26,47%


Khả năng lao động tự phục vụ, tự giác
trong mọi hoạt động

11/ 34 trẻ

32,35%

Khả năng đọc, phát âm và tô chữ, tô số

6/ 34 trẻ

17,65%

2.2. Nguyên nhân thực trạng của lớp
+ Thuận lợi:
- Luôn được sự đầu tư và hướng dẫn chỉ đạo sâu sát của Phòng giáo dục và đào tạo,
cùng BGH nhà trường.
- Bản thân tôi là một giáo viên trẻ luôn nhiệt tình tâm huyết với nghề, ham học hỏi,
trau dồi kiến thức, có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững vàng.
- Đa số trẻ được qua trường lớp nên ít nhiều trẻ cũng đã được tham gia vào mọi hoạt
động.
- Có sự quan tâm nhiệt tình của phụ huynh đối với trẻ về vật chất lẫn tinh thần trong
việc chuẩn bị tốt cho trẻ vào lớp 1.
- Lớp học rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.
+ Khó khăn:
- Có nhiều gia đình quan niệm sai lầm cho rằng: để chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1
chỉ cần dùng phương pháp dạy trước cho trẻ chương trình lớp 1 là được.
- Bên cạnh đó trong lớp còn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin: Quốc Huy, Danh
Nhân, Minh Đạt, Bảo Trân, Anh Đào,...

- Lớp tôi có nhiều hoàn cảnh khác nhau, một số cháu chưa học qua lớp mầm, chồi,
một số cháu còn phát âm chưa chuẩn và một vài cháu cá biệt nên việc dạy nhận biết và
phát âm chữ cái gặp rất nhiều khó khăn.
- Các cháu tinh nghịch trong mọi hoạt động chưa tập trung chú ý hay chọc phá bạn
như: Tuấn Em, Tấn Phát, Thiên Phú, Anh Đạt, Đức Trí,...Đa số trẻ là con cưng nên khi
tham gia các hoạt động còn mang tính tự do, chưa có ý thức nhường nhịn nhau: Duy
Phát, Đức Tiến, Kim Quý, Khôi Nguyên,...
2.3 Đề ra giải pháp thực hiện:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế dạy trẻ ở lớp lá nhiều năm, tôi đã đề
ra một số giải pháp như sau:
- Chuẩn bị sẵn sàng các tố chất vận động về thể lực cho trẻ.
- Chuẩn bị một số kỹ năng về học tập.
- Rèn kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ
- Nâng cao chất lượng hoạt động cho trẻ làm quen với chữ viết và toán.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các hoạt động học- chơi.
- Công tác tuyên truyền kết hợp với các bậc phụ huynh.
2.4 Xác định kết quả cần đạt được:

2


- Trẻ đã chuẩn bị sẵn sàng về tâm thế, thể lực và các kỹ năng hoạt động khi vào lớp 1
đạt 100% .
- Có ý thức tự giác, tinh thần lao động tự phục vụ 98%.
- Trẻ mạnh dạn tự tin giao tiếp, ngôn ngữ mạch lạc tròn câu với các bạn 95%. Diễn
đạt tốt ý muốn trình bày 90%.
- Biết thể hiện tình cảm yêu cô, mến bạn, tinh thần hào hứng vui tươi khi đến lớp
97%.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Đối với trẻ em, việc đến trường phổ thông được coi như một bước chuyển quan trọng

của cuộc đời. Đó là việc trẻ được chuyển qua một môi trường mới, với những hoạt động
mới, đồng thời trẻ cũng được chuyển qua một vị trí xã hội mới với những mối quan hệ
mới của một người học sinh thực thụ. Vì thế, giáo viên mầm non cần chuẩn bị cho trẻ 56 tuổi những giải pháp sau:
1. Chuẩn bị sẵn sàng các tố chất vận động về thể lực cho trẻ.
- Bác Hồ có nói “Một tâm hồn minh mẫn trong một cơ thể cường tráng”. Thật vậy,
có sức khỏe tốt thì mọi hoạt động của trẻ từ học tập đến vui chơi mới có kết quả tốt. Hiểu
được điều đó, nên đầu năm học tôi đã đặc biệt chú ý đến những trẻ có thể lực ở mức
không bình thường như: trẻ suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng vừa, trẻ thấp còi trẻ béo
phì,…hoặc trẻ hay đau ốm, biếng ăn,…
Cụ thể: Đối với trẻ tiền suy dinh dưỡng, suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng vừa
như: Quế Anh, Quỳnh Anh, Thanh Thảo,… tôi tạo một chế độ sinh hoạt, ăn uống, nghỉ
ngơi, luyện tập… cho trẻ một cách khoa học và hợp lý cả về thời gian cũng như về đặc
điểm phát triển tâm sinh lý riêng của từng trẻ cho phù hợp. Còn những trẻ béo phì vượt
khung như: Anh Đạt, Cao Tuấn, Duy Phát, Mỹ Anh, tôi thường xuyên cho trẻ chạy bộ,
leo cầu thang, tập những bài vận động cơ bản vừa sức, ăn nhiều rau, quả tươi, hạn chế
uống nhiều sữa hoặc ăn thức ăn có nhiều đạm, chất béo,… Những trẻ biếng ăn, không
chịu ăn đầy đủ 4 nhóm dinh dưỡng: Minh Hoàng, Hải Long, Thiên Phú thì tôi chịu khó
thường xuyên kể cho trẻ nghe những câu chuyện, đọc thơ có tính giáo dục như: Truyện
“Các bạn điều đáng quý”, “Dinh dưỡng cần cho bé”, Thơ “Ăn quả”, “Họ rau”, “Họ đậu”.
Song song đó, cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhà trường và gia đình trong việc
đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế độ vui chơi, nghỉ ngơi của trẻ khi trẻ ở nhà thì việc
chăm sóc thể lực cho trẻ mới thành công.
- Ngoài việc cho trẻ vận động thô và hỗ trợ dinh dưỡng ra, vận động tinh cũng không
kém phần quan trọng để giúp trẻ rèn sự khéo léo, dẻo dai và sức kiên nhẫn chịu đựng của
bản thân trước khi hoàn thành sản phẩm để sau này vào lớp 1 trẻ có khả năng ngồi học
một chỗ lâu hơn như các anh ở lớp 1.
Cụ thể: trẻ vẽ và hoàn thành bức tranh theo yêu cầu của cô như: vẽ tô màu ngôi nhà
có hàng rào, cây xanh, hoa, cỏ, ông mặt trời,…
Ngoài các bài tập vận động ở trong chương trình học của trẻ. Tôi còn rèn luyện thêm
cho trẻ thêm các bài tập vận động liên hoàn khi trẻ tham gia các hoạt động ngoài trời như:

Lăn bóng theo đường dích dắc- bật tách khép chân qua 5 ô- Đi trên ghế thể dục đầu đội
túi cát- Trườn sấp bò chui qua cổng- Ném xa bằng hai tay,...

3


Cụ thể: Lăn bóng theo đường dích dắc rèn cho trẻ sự khéo léo đôi tay và sự linh hoạt
của đôi chân không chạm vào vật cản. Bật tách khép chân qua 5 ô rèn sức nhún bật cũng
như linh hoạt, khéo léo của đôi chân không chạm vào vạch ô và luôn giữ được thăng
bằng của cơ thể khi rơi xuống. Đi trên ghế thể dục đầu đội túi cát nhằm rèn sự khéo léo,
tự tin, mạnh dạn không sợ hãi khi đứng trên cao mà đi,…….
Bên cạnh đó, tôi còn rèn luyện thêm cho trẻ các bài tập rèn sức bền, sự luyện tập kiên
trì dẻo dai của trẻ thông qua các bài tập vận động như: Đi bằng gót bàn chân- Đi khuỵu
gối- Đi trên vạch kẻ thẳng trên sàn- Đi thay đổi hướng theo vạch chuẩn- Chạy theo hiệu
lệnh,….
Cụ thể: Lúc đầu tôi tập cho trẻ thực hiện bài vận động trên trong 1 thời gian ngắn,
càng về sau tôi tăng dần khoảng cách và thời gian cũng kéo dài hơn nhằm theo dõi xem
trẻ thực hiện ở mức độ nào là phù hợp nhất để có kế hoạch điều chỉnh cho hợp lý sau này.
2. Chuẩn bị một số kỹ năng học tập:
Ở trường mầm non chuẩn bị kỹ năng học tập cho trẻ vào lớp 1 rất là quan trọng, giáo
viên phải biết dạy nhiều kỹ năng sống cho trẻ thông qua dạy lồng ghép ở các môn học,
các trò chơi, các hoạt động ngoài trời, các hoạt động chiều,….
+ Kỹ năng sống tự tin:
- Sự tự tin, sống tự trọng của trẻ là một kỹ năng giúp trẻ học tập tốt. Kỹ năng sống này
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin ở mọi lúc mọi nơi và mọi tình huống. Nhưng trên thực tế,
lớp tôi vẫn còn một số bạn rất nhút nhát, thiếu tự tin như: Quốc Huy, Danh Nhân, Hải
Long, Bảo Trân,... khi cô giáo gọi tới tên là trẻ giật mình hoặc tỏ thái độ lo lắng, mặc dù
không biết cô gọi mình có việc gì không, hay có trả lời câu hỏi của cô thì nói rất nhỏ,
thậm chí có 1 vài trẻ không thèm nói.
Cụ thể: Minh Đạt, Quốc Huy, Danh Nhân, Hoàng Quyên, Bảo Trân, Tuấn Anh, Minh

Hoàng,…
Để giúp trẻ mạnh dạn trước tập thể và có lòng tự tin trở lại, tôi đặc biệt quan tâm chú
ý nhiều hơn những trẻ này bằng hình thức thường xuyên đặt câu hỏi động viên trẻ trả lời
có thưởng trong tiết học hoặc khuyến khích trẻ tham gia biểu diễn văn nghệ thông qua
tiết âm nhạc. Mưa dầm thấm đất, giờ đây trẻ trở nên mạnh dạn hơn, tự tin hơn và có tiến
bộ rất rõ rệt luôn giơ tay tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài.
Trong giờ hoạt động ngoài trời, tổ chức thêm các trò chơi tập thể (kéo co, tuy 2 mà
một, cướp cờ, đong nước vào chai, chạy tiếp sức,...) thông qua cách chơi và luật chơi cô
giáo dục trẻ có tính đoàn kết cùng nhau hỗ trợ, trẻ càng mạnh dạn tự tin hơn khi được cô
động viên và các bạn cổ vũ nhiệt tình. Từ đó, trẻ biết khi chơi trong tập thể phải tương trợ
nhau, đoàn kết với nhau, ... không được chen lấn, xô đẩy bạn.
+ Kỹ năng tự phục vụ:
Kỹ năng lao động tự phục vụ là một kỹ năng rất cần thiết cho trẻ khi bước chân vào
trường tiểu học. Vì ở nơi đó, tất cả mọi hoạt động của trẻ đều do chính bàn tay trẻ tự làm
và tự phục vụ cho bản thân mình.
Cụ thể: Trẻ tự kéo bàn ra học, tự chuẩn bị chỗ ngủ, học xong tự phải biết dọn dẹp đồ
dùng cho vào ngăn tủ gọn gàng ngay ngắn,...

4


Cho nên, để giúp trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ cho mình trong cuộc sống hằng
ngày nói chung và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 nói riêng giống như các anh chị lớp 1. Hằng
ngày, tôi tập dần cho trẻ một số kỹ năng sống sau:
Cụ thể: tự cởi, mặc quần áo; chải răng sau khi ăn và trước khi ngủ; giúp cô dọn chén
muỗng ra bàn ăn; tự múc cơm ăn, trực nhật trãi thảm ngủ, sắp xếp gối nằm trước khi đi
ngủ,... dần dần trẻ hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo, đến thói quen cho bản thân lao
động tự phục vụ cho mình để sau này vào lớp 1 không gặp khó khăn.
Ngoài ra, tôi còn dạy trẻ có nếp sống văn minh trong ăn uống như: ăn từ tốn, không
nói chuyện trong khi ăn, không vãi rơi cơm ra bàn,...

+ Kỹ năng số ng hợp tác:
Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Sức mạnh là mẹ của thành công. Sức mạnh ở đây muốn nói đến là sự đoàn kết trong
tập thể. Đó cũng là một trong những kỹ năng sống mà ở trường tiểu học rất quan tâm. Vì
ở nơi ấy, thường xuyên tổ chức học đội, học nhóm,...để cùng nhau khám phá, cùng nhau
đưa ra ý tưởng sáng tạo cho một trãi nghiệm nào đó. Nhưng ở lứa tuổi mầm non thì việc
học theo nhóm nhỏ rất ít. Cho nên, tôi thường xuyên giáo dục và nhắc nhở trẻ phải hợp
tác cùng bạn trong khi học cũng như trong khi chơi.
Cụ thể: Tiết toán tách gộp trong phạm vi 10, thi đua luyện tập theo nhóm: yêu cầu
tách số lượng 10 ra làm 2 phần, trẻ phải biết thỏa thuận bạn này chạy nhóm kia, bạn kia
chạy nhóm nọ. Để tách ra 2 phần nhanh hơn nhóm của bạn.
Cụ thể: Trò chơi “Kéo co” đòi hỏi cần có sự góp sức và thống nhất về tư thế thi đấu
thì đội đó mới chiến thắng được. Các trò chơi vận động: Cướp cờ, chuyền nước,....Các
bài tập liên hoàn: Đi, nhảy, bật,.....
+ Kỹ năng khám phá:
Đối với kỹ năng này, trẻ rất thích và nó cũng là một kỹ năng thiết yếu khi trẻ vào
trường phổ thông học tiết khám phá khoa học. Để giúp trẻ mầm non quen dần với việc
tập trung quan sát, suy nghĩ, thảo luận, phán đoán, tưởng tượng,... tôi thường xuyên tổ
chức những buổi học có trãi nghiệm thực tế cho trẻ quan sát khám phá.
Cụ thể: Tôi cho trẻ quan sát nước bốc hơi như thế nào? Và khi nước bốc hơi lên gặp
không khí lạnh thì hiện tượng gì xảy ra?....hay làm thí nghiệm vì sao nước lại
mặn?...hoặc thí nghiệm về sự đổi màu của hoa,....
Từ đó, tôi đặt các câu hỏi gợi ý cho trẻ tư duy, suy luận, phán đoán, cho trẻ trả lời tại
sao có mưa? Tại sao hoa cúc trắng thành hoa cúc đỏ? Nước có vị mặn là do đâu?,...Trẻ
suy nghĩ và trả lời theo sự trãi nghiệm khám phá của mình. Qua việc tạo các điều kiện
cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi trường xung quanh bằng các thí nghiệm,
thử nghiệm tôi thấy nhận thức của trẻ được mở rộng, khả năng quan sát, tri giác của trẻ
phát triển tốt đa số trẻ thể hiện được tính tích cực chủ động khi quan sát đối tượng trong
quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm, vốn

từ của trẻ trở nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tốt hơn.
3. Rèn kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ cho trẻ:
Muốn cho trẻ có kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ tốt. Thì người giáo viên mầm non
phải là tấm gương mẫu mực cho trẻ noi theo, vì trẻ thơ như tờ giấy trắng không một dấu
5


tỳ vết. Nếu chúng ta không cẩn thận trong cách giao tiếp cũng như cách ứng xử với bạn
đồng nghiệp, mọi người xung quanh, thậm chí kể cả cha mẹ học sinh thì đó là một điều
hết sức thất bại cho việc giáo dục kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ tốt cho trẻ.
Cụ thể: Lúc đầu lớp tôi có cháu: Anh Đạt, Đức Trí, Gia Huy nói chuyện với bạn hay
xưng mày tao hoặc nói chuyện hay quát tháo bạn,... Thấy được điều đó, khi tôi giao tiếp
với trẻ tôi luôn nói nhỏ nhẹ, từ tốn, chậm rãi, rõ chữ, không quát tháo hay la mắng trẻ khi
trẻ quấy phá. Còn đối với bạn đồng nghiệp, mọi người xung quanh, cha mẹ học sinh thì
tôi vui vẻ, niềm nở giao tiếp nhẹ nhàng chú ý dùng những ngôn từ thân thiện gần gũi để
ứng xử,...từ đó các trẻ Anh Đạt, Đức Trí, Gia Huy đã nhìn thấy và bắt chước nói theo,
dần dần trẻ đã học được cách ứng xử đẹp theo chuẩn mực đạo đức của xã hội và bỏ mất
tật xấu nói chuyện không hoa mỹ tự lúc nào không hay.
Thông qua hoạt động vui chơi: Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học bằng chơi, chơi mà học,
trong giờ vui chơi trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau phản ánh sinh
hoạt cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng ghép kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ vào vui
chơi, qua đó trẻ được đối thoại những câu chào hỏi lễ phép, câu cảm ơn, xin lỗi, trao nhận
bằng hai tay, tôi theo dõi quan sát lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi dùng từ dùng câu
chưa chính xác. Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.
Cụ thể: qua trò chơi phân vai- y tá- bác sĩ.
Trẻ đã biết đóng vai bác sĩ, trẻ đã biết thăm hỏi bệnh nhân ân cần, xưng hô, cô, chú,
bác, ...
Bác sĩ đã biết hỏi bệnh nhân: cháu đau chỗ nào? đau ra sao? (trẻ biết cách trả lời dạ
cháu bị đau đầu, đau bụng,...
Trẻ đóng vai bác sĩ biết kê đơn thuốc cho bệnh nhân. Trẻ đóng vai cô y tá phát thuốc

dặn bệnh nhân uống thuốc ngày mấy lần?
Trẻ đóng vai bệnh nhân nhận thuốc, nhận đơn thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn
đối với cô y tá, bác sĩ.
Hoặc: thông qua trò chơi bán hàng
Người bán hàng hỏi: Cô, chú mua gì ạ?
Bác bán cho tôi vài củ cải đỏ.
Người mua hỏi: Bao nhiêu tiền một kg vậy cô?
Qua hoạt động vui chơi cháu mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp, trong ứng
xử, chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình. Từ đây trẻ biết nói và trả lời đầy đủ
câu, biết xưng hô chuẩn mực đối với cô và bạn.
Ngoài ra, tôi còn rèn cho trẻ 1 số kỹ năng sau:
+ Về kỹ năng nói: Mọi người hay nói rằng trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn là trẻ có khả
năng nói chuyện hay giao tiếp rõ ràng, mạch lạc bằng ngôn ngữ nói. Nhưng trên thực tế,
vẫn không tránh khỏi những trường hợp trẻ vẫn còn nói lắp, nói ngọng, nót đớt, nói
không tròn câu, nói câu cụt,… như ở lớp tôi có các cháu rơi vào trường hợp: Tuấn Em,
Hải Long, Danh Nhân, Phát Thịnh, Thiên Phú.
Cụ thể: Theo kinh nghiệm của bản thân, để giúp trẻ có kỹ năng nói tốt, tôi thường
xuyên trò chuyện với trẻ vào những lúc chơi hoạt động góc hay hoạt động trả trẻ chú ý

6


sửa sai cho trẻ từng cách phát âm, yêu cầu trẻ nói lại nhiều lần bằng nhiều hình thức khác
nhau.
Cụ thể: Chữ bóng mà trẻ nói chữ bong. Tôi dạy trẻ nói lại “Quả bóng” hay con hãy
nói “thổi bong bóng; bóng bay; trong trẻo, rì rào, xào xạc,…”.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên sưu tầm những mẫu chuyện về lời hay ý đẹp của các
anh chị tiểu học đọc cho trẻ nghe nhằm giúp trẻ cảm nhận dần những ngôn từ trong
truyện một cách diễn cảm và mạch lạc, thông qua câu chuyện “Gà trống học chữ”, “Thế
là ngoan”, “Khen các cháu”,……

Kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển thông qua hoạt động vui
chơi ngoài trời và hoạt động góc.
Cụ thể: ở góc phân vai, trẻ chơi nấu bữa cơm gia đình. Trẻ muốn nấu một nồi canh
chua cá thì trẻ phải đi chợ và khi đến cửa hàng bán thực phẩm. Người bán biết hỏi: “Chị
ơi! Chị mua gì?” Người mua trả lời: “Cá lóc bao nhiêu một kilogam vậy cô?”. Dạ! bốn
chục ngàn ạ!. Bán tôi một kg. Còn cà chua chị bán bao nhiêu tiền một kg?,…cứ như thế
người mua hỏi mua đủ nguyên liệu để nấu canh: me, khóm, bạc hà,…người bán thì trả lời
và thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Chỉ cần mua một món canh chua thôi mà kỹ
năng giao tiếp cũng như ngôn ngữ của trẻ cũng được củng cố và phát triển rất nhiều.
+ Về kỹ năng nghe: Ở lớp tôi có một số trẻ chưa phân biệt được các âm thanh, ngữ
điệu cũng như độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc của các đối tượng khác
nhau như: Thảo Vy, Bảo Trân, Tuấn Em, Phát Thịnh, Hoàng, Nhân, Quốc Huy.
Cụ thể: Để giúp trẻ có kỹ năng nghe tốt hơn tôi thường tổ chức những trò chơi nào có
liên quan đến phát triển thính giác như: trò chơi âm nhạc: “Tiếng hát ở đâu, bao nhiêu
bạn hát, ai đoán giỏi, giọng hát to giọng hát nhỏ,…”, trò chơi dân gian: “Bịt mắt bắt dê,
bắt vịt trên cạn,…”. Qua các trò chơi trong tiết học cũng như trong giờ hoạt động ngoài
trời nêu trên, giờ đây kỹ năng nghe của các cháu Thảo Vy, Bảo Trân, Tuấn Em, Phát
Thịnh, Hoàng, Nhân, Quốc Huy tiến bộ rất tốt. Đây cũng là kỹ năng cần có để giúp trẻ
chuẩn bị vào lớp 1 học tốt hơn.
4. Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen chữ viết và toán:
Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen chữ viết
- Yêu cầu cần đạt ở môn chữ viết là cháu phải nhận biết, phát âm, viết được 29 chữ
cái. Để trẻ học đọc, viết được chữ cái ngay từ đầu năm tôi đã tạo môi trường chữ viết cho
trẻ chơi với chữ bằng nhiều hình thức.
Cụ thể: Tôi ghi tên các loại đồ dùng, dụng cụ, cây xanh có trong lớp, xung quanh lớp
tôi viết những câu ngắn hoặc cụm từ chỉ tên các góc, các hoạt động trong ngày, mô tả
hình ảnh trẻ được tiếp xúc ở xung quanh lớp để trẻ được tri giác chữ thường xuyên.
- Ngoài ra, tôi còn viết tên trẻ vào sổ bé ngoan, đồ dùng cá nhân, học phẩm của trẻ để
cháu nhận biết được tên mình, tên bạn một cách dễ dàng, sau đó cô cho trẻ sao chép lại
tên mình tên bạn nhiều lần để trẻ có thể nhớ được tên mình bắt đầu từ chữ cái gì và có

những chữ cái gì ở phía sau, từ đó cô có thể cho trẻ viết tên vào các sản phẩm mà trẻ tạo
ra hoặc tập cho trẻ làm tranh để trẻ tự đặt và viết tên truyện tranh.
- Trong các hoạt động liên quan đến các từ, cụm từ, những câu ngắn ở xung quanh lớp
thì tôi sẽ dạy trẻ đọc, dạy trẻ tìm những chữ đã học, đoán chữ chưa học và sao chép viết
lại chữ đã học.

7


- Để có kết quả cao hơn trong việc dạy trẻ nhận biết, phát âm, viết được các chữ cái
thì qua những lần đón trẻ tôi gợi ý và động viên phụ huynh tạo môi trường chữ viết cho
cháu lúc ở nhà bằng nhiều hình thức.
Cụ thể: Cho trẻ gắn chữ còn thiếu trong từ, chơi trò chơi tìm chữ cái khi về nhà,…
Góc thiên nhiên: Các loại cây, tôi đều gắn tên để cho trẻ có thể ghép chữ xem đây là
cây gì.
Góc học tập, tôi thường thay đổi nội dung theo từng nhánh chủ đề như gắn tranh có
kèm từ, trẻ ghép và đọc chữ cái, từ các thẻ từ cho trẻ đọc, phát âm các chữ cái đã học, tìm
gạch dưới và đọc to chữ cái đó,…..
Những hoạt động trên, tôi lên kế hoạch một cách hợp lý đối với trẻ, hôm nay chơi ở
góc nào? ngày mai cần giải trí ra sao?,…một cách khoa học để trẻ không cảm thấy nhàm
chán và quá mệt mỏi.
Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với toán
Đối với trẻ lớp lá có khả năng nắm được trình tự của các số tự nhiên từ 1- 10, thậm
chí còn nhiều hơn nữa. Trẻ biết thiết lập tương ứng 1- 1. Nhưng trong số những trẻ đếm
tốt vẫn còn một số trẻ không biết tổng hợp kết quả sau khi đếm xong như cháu: Hoàng
Quyên, Đức Trí, Tuấn Anh, Tuấn Em, Thiên Phú, Quốc Huy.
Cụ thể: Cô gắn 6 bông hoa trẻ đếm 1,2,3,4,5,6 nhưng khi nói tổng hợp lại, thì trẻ nói
tất cả có 4 bông hoa, kết quả không đúng với lúc đếm là 6 bông hoa. Đối với những trẻ
này tôi giải thích hoài với trẻ khi đếm đến số cuối cùng là mấy thì kết quả là số cuối cùng
là số đó. Chẳng hạn, 1,2,3,4,5 tất cả có 5 quả cà nhưng trẻ vẫn không hiểu.

Sau cùng, tôi dùng đến cách cho trẻ giúp cô dọn chén mỗi khi ăn cơm. Cứ một cái
chén trẻ cho vào một cái muỗng, thế là tôi đã thành công khi trẻ vừa làm vừa đếm đến cái
chén và cái muỗng cuối cùng trên bàn ăn là 8 chén ứng với 8 muỗng tất cả tương ứng với
nhau và bằng 8.
Ngoài ra, tôi còn dạy cho trẻ hiểu mối quan hệ thuận nghịch giữa các số liền kề của
dãy số tự nhiên (mỗi số đứng trước nhỏ hơn số đứng sau một đơn vị và mỗi số đứng sau
lớn hơn số đứng trước một đơn vị). Từ đó, trẻ biết được dãy số chẵn 2,4,6,8,10 và dãy số
lẻ 1,3,5,7,9.
Cụ thể: Thông qua đội hình vận động của tiết âm nhạc, tiết vận động cơ bản khi trẻ
đếm số lượng và chuyển đội hình số chẵn bước.
Ngoài những bài toán học trong chương trình, tôi còn đầu tư sáng tạo ra một số đồ
chơi có liên quan đến số đếm, thiết kế thêm nhiều trang giáo án điện tử về toán thật đẹp
mắt, sinh động thu hút trẻ. Tổ chức hoạt động chơi với nhiều hình thức: Sử dụng câu đố,
thơ, truyện, trò chơi, bài hát, các nội dung hoạt động vui chơi trên máy vi tính với các bài
học mà chơi trong chương trình Kisdmart. Xây dựng cảnh quan, môi trường toán học
trong và ngoài lớp qua những nguyên vật liệu mở có ở địa phương.
Cụ thể: Bàn tính học đếm, chơi lô tô chọn và đếm số lượng, vẽ thêm, tìm cho đủ số
lượng, vòng quay toán học....chơi các đồ chơi có chữ cái và chữ số.
Những đồ chơi trên giúp trẻ rất nhiều trong việc phát triển thêm ngôn ngữ toán học và
các hoạt động khác nhằm phát triển nhận thức cho trẻ sau này.
5. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động học, chơi,…

8


Để việc học có tính thu hút và hấp dẫn các cháu hơn, tôi thay đổi cách dạy bằng việc
sử dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy cũng như trong các hoạt động chơi.
Cụ thể:
Đối với môn toán trẻ được học trong chương trình Kisdmart như: ngôi nhà khoa học
của Sammy, ngôi nhà không gian và thời gian của Srudy, ngôi nhà toán học của

Milli,.....Dạy bé học đếm qua video, vui học đếm cùng Gấu Pô.
Đối với môn làm quen chữ cái thì trẻ được học với phần mềm kidmart như: Tìm chữ
còn thiếu, phát âm đúng theo yêu cầu, bé yêu học chữ cái, học chữ cái qua trình chiếu
Powerpoint slide.
Riêng đối với các hội thi, hoạt động ngoài trời trẻ được tham gia chơi với các trò chơi
trình chiếu trên màn hình như: đếm số lượng, tìm các con vật theo yêu cầu, quan sát chọn
hình và trả lời câu hỏi theo yêu cầu của cô,… nhờ những hình ảnh trực quan sống động,
màu sắc hài hòa, đẹp mắt, đã kích thích sự chú ý cũng như thu hút trẻ vào quá trình hoạt
động.
Ngoài việc, cho trẻ học trên máy vi tính bằng cách quan sát và nhận xét ra. Tôi còn
cho trẻ làm quen với các bộ phận của máy tính như: con chuột, các phím chữ cái và chữ
số,... để khi trẻ vào tiểu học được học môn tin học trẻ không quá ngỡ ngàng.
Cụ thể: Từ “Con cá” tôi chỉ đánh có chữ “on á”, tôi yêu cầu trẻ đánh chữ còn thiếu
vào từ sao cho ra từ “con cá” bằng cách trẻ tìm phím chữ “c” đặt đúng vào vị trí còn thiếu
của từ,...
Cứ như thế, dần dần các cháu không còn xa lạ gì với máy tính. Đó cũng là một bước
thành công của tôi trong việ cho trẻ làm quen với máy tính.
6. Công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh:
Để trẻ có đầy đủ tâm thế chuẩn bị vào lớp 1. Ngoài việc, tôi dạy cho trẻ tìm hiểu về
“Trường Tiểu học” trong chương trình. Tôi còn tuyên truyền với các bậc cha mẹ học sinh
về tầm quan trọng của việc chuẩn bị về mọi mặt cho trẻ vào lớp 1 theo hướng khoa học
không gò bó hay áp đặt trẻ học quá sức,… trong những buổi họp cha mẹ học sinh, trong
giờ đón trả trẻ, thông qua bảng tuyên truyền,…
Cụ thể: Định hướng cho phụ huynh chở trẻ đi tham quan 1 số trường tiểu học mà dự
định sẽ học, giới thiệu cho trẻ biết quan cảnh của trường Tiểu học, các phòng ban, phòng
học, bàn học,….. để trẻ được làm quen dần không còn ngỡ ngàng khi vào một môi trường
mới.
- Riêng đồ dùng học tập thì phải mua đủ số lượng theo yêu cầu như: Bộ sách lớp một,
viết, thước phải để vào hộp, cách sử dụng như thế nào? và giữ gìn bảo quản ra sao?...
- Tư thế ngồi học của trẻ cũng phải nhắc nhở trẻ ngồi đúng tư thế, lưng thẳng, không

tì ngực vào bàn tránh ngồi sai tư thế sẽ bị vẹo cột sống, khi viết bài đầu không cúi sát bàn
sẽ ảnh hưởng đến mắt, khi viết cầm viết bằng tay phải, chụm 3 đầu ngón tay lại với
nhau,…
- Phụ huynh cần kết hợp với giáo viên để biết cách dạy trẻ phát âm 29 chữ cái trong
chương trình mẫu giáo, cách làm quen với các mẫu chữ in thường, viết thường, in
hoa,...trẻ phải nhận dạng được và phát âm chính xác khi chỉ vào bất kỳ chữ cái nào.

9


- Xây dựng cho trẻ một góc học tập gọn gàng, đẹp mắt, phù hợp với điều kiện sẵn có
của mình nhằm giúp trẻ thích thú đối với việc ngồi vào bàn học với đầy đủ ánh sáng cho
trẻ học tốt nhất.
- Giúp trẻ chọn lựa sách, đọc sách cho trẻ nghe để trẻ có thể “đọc vẹt” sách nhưng
việc đọc như thế có một ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết cho việc học đọc sau này.
- Phụ huynh cần tạo cho trẻ thói quen tự lập bằng cách khuyến khích trẻ thực hiện
trọn vẹn một vài công việc nhà đơn giản, tự tạo một thời gian biểu học tập- vui chơi và
nghiêm túc thực hiện thời gian biểu ấy.
- Cần vun đắp niềm hứng thú, hân hoan cho trẻ khi được đến trường Tiểu học.
Cụ thể: Thông qua các bài thơ câu chuyện, bài hát như “Bé vào lớp 1”, “Chào lớp 1”,
“Lớp chúng mình”, “Em yêu trường em” “Tạm biệt búp bê thân yêu”,...
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA KINH NGHIỆM
Sau thời gian áp dụng một số giải pháp trên, tôi thấy việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 56 tuổi rất thuận lợi. Chất lượng tăng lên rõ rệt qua từng giai đoạn, kể cả trẻ sức khoẻ yếu,
thiếu tự tin,… cũng đã có được một số kỹ năng sống cơ bản. Tuy không đòi hỏi mức độ
cao ở trẻ song cũng đủ đảm bảo tốt về kỹ năng sống cho bản thân trẻ về ý thức, tổ chức,
trách nhiệm, là cơ sở để trẻ bước vào lớp 1 với bản lĩnh tự tin hơn, tiến xa hơn.
+ Những trẻ thụ động, thiếu tự tin, suy dinh dưỡng vừa, thấp còi như: Quốc Huy,
Danh Nhân, Tuấn Em, Anh Đào, Thanh Thảo, Quế Anh, Quỳnh Anh giờ đây rất hăng
hái, tự tin, tự giác hơn trong các hoạt động và không còn suy dinh dưỡng cũng như thấp
còi nữa.

+ Trẻ thích được tham gia các bài kỹ năng sống với mọi hình thức: Quốc Huy, Danh
Nhân, Tuấn Em, Anh Đào, Thanh Thảo, Quế Anh, Quỳnh Anh.
+ Trẻ ghi nhớ và thực hiện tốt hơn các thao tác- kỹ năng bài tập Quốc Huy, Danh
Nhân, Tuấn Em, Anh Đào, Thanh Thảo, Quế Anh, Quỳnh Anh.
+ Trẻ có khả năng tự rèn luyện, có tính kiên nhẫn và thể hiện tính cách riêng biệt của
trẻ một cách linh hoạt Quốc Huy, Danh Nhân, Tuấn Em, Anh Đào, Thanh Thảo, Quế
Anh, Quỳnh Anh .
+ Về phía phụ huynh nhờ có sự tuyên truyền kịp thời kịp lúc thông qua các buổi họp
phụ huynh, bảng tuyên truyền, phát thanh học đường, các giờ đón trả trẻ,… mà giờ đây
phụ huynh đã hiểu rõ được tầm quan trọng của việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1
theo hướng khoa học.
+ Điều đáng mừng là các thành viên trong gia đình đã biết thống nhất với nhau về
quan điểm cũng như phương pháp giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở nhà cũng
như cùng với giáo viên phối hợp chặt chẽ về phương pháp giúp trẻ có đầy đủ sức khỏe, trí
tuệ, khả năng giao tiếp, kỹ năng học tập...tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ bước chân vào
lớp 1 một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.
Chất lượng khảo sát trẻ:

10


Nội dung

Đầu năm

Cuối năm

Tỷ lệ
tăng


Về tố chất vận động và
phát triển thể lực của trẻ

20/ 34 trẻ

58,82%

34/34 trẻ

100 %

41,18%

Về tâm sinh lý và tâm thế
cho trẻ vào lớp 1

7/ 34trẻ

20,59%

34/34 trẻ

100 %

79,41%

Ngôn ngữ và kỹ năng
giao tiếp

9/ 34 trẻ


26,47%

32/34 trẻ

94,12 %

67,65%

Khả năng lao động tự
phục vụ, tự giác trong
mọi hoạt động

11/ 34 trẻ

32,35%

34/34 trẻ

100 %

67,65%

Khả năng đọc, phát âm và
tô chữ, tô số

6/ 34 trẻ

17,65%


31/34 trẻ

91,18 %

73,53%

Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực tế ở lớp tôi đã rút ra cho mình những kiến
thức giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi lên lớp. Điều quan trọng đối với trẻ là chuẩn
bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Tôi tiến hành thực hiện đến cuối năm tôi hy vọng khả năng
và chất lượng khi bước khởi đầu chuẩn bị đầy đủ tâm thế về mọi mặt cho trẻ đạt kết quả
khả quan tốt nhất.
Tôi đã vận dụng vào tình hình thực tế một cách hợp lý với những biện pháp ở trên đã
mang lại cho trẻ kết quả khả quan khi tham gia hoạt động như thể lực, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng học tập, học chữ, học số….
Một số trẻ đầu năm học còn rất bỡ ngỡ khi tham gia hoạt động nhưng nay đã theo kịp
các bạn trong lớp, có cháu lại có khả năng nói lưu loát, dùng câu mạch lạc hơn và có
nhiều kỹ năng học tập sáng tạo Quốc Huy, Danh Nhân, Tuấn Em, Anh Đào, Thanh Thảo,
Quế Anh, Quỳnh Anh.
Hằng tháng tôi gửi sổ bé ngoan về cho gia đình, phụ huynh rất vui vì thấy con của
mình tiến bộ rất rõ rệt về mọi mặt, nhất là mặt tâm thế chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Từ đó,
cha mẹ học sinh lúc nào cũng phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc
chăm sóc giáo dục trẻ để nâng cao chất lượng học của trẻ tốt hơn nữa.
Gần cuối năm học, trẻ lớp tôi có những chuyển biến rõ rệt: 98% cháu hoàn toàn nhiệt
tình tham gia vào đầy đủ các hoạt động, trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, trẻ tự phục vụ
bản thân, ngoài ra trẻ còn biết phụ giúp cô với tinh thần vui tươi hào hứng, tự tin thực
hiện nhiệm vụ được giao và hoàn thành tốt nhiệm vụ theo yêu cầu của cô đề ra.
IV. KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG
Giải pháp này đã được ứng dụng trong năm học 2016 – 2017, được thông qua hội
đồng sư phạm trường. Từ đó, tôi đã nhân rộng cho tất cả các bạn đồng nghiệp dạy khối lá
và có thể cho các trường bạn cùng chia sẻ để áp dụng.

Thông qua kinh nghiệm giảng dạy này, giáo viên có thể tổ chức tốt các hoạt động cho
trẻ đặc biệt là đối với trẻ 5-6 tuổi sẳn sàng tâm thế khi vào lớp 1.

11


V. KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vào lớp 1 không phải là chuyện của trường
mầm non hay của bất cứ ngành nào cũng như không phải của hộ gia đình nào mà là
chuyện của toàn xã hội. Vì thế, mọi người đều phải chung tay góp sức cho vấn đề này.
Bên cạnh đó, tôi đã rút ra nhiều bài học bổ ích khi thực hiện các giải pháp trên: Đối
với giáo viên cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi thêm kinh nghiệm, kiến
thức từ chị em đồng nghiệp, từ sách báo, tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng
nắm bắt sự đổi mới của quá trình hoạt động để trẻ có kiến thức sâu, đáp ứng được yêu
cầu ham học hỏi khám phá của trẻ, giáo viên tổ chức các hoạt động phải đa dạng và
phong phú hơn để tạo sự mới lạ hấp dẫn đối với trẻ, giáo viên cần tìm ra những hình thức,
những trò chơi mới, đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn để cuốn hút trẻ vào giờ học.
Nắm vững phương pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn làm quen với chữ viết, từ đó định
hướng xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình ngày càng hiệu quả hơn.
Với một số kinh nghiệm trên, tôi đã phổ biến cho các giáo viên trong khối Mẫu giáo
lớn của trường mình để chị em vận dụng vào lớp mình và đều đạt kết quả cao.
Nhìn những trẻ đang dần lớn lên trong vòng tay của mình, sự hồn nhiên, ngây thơ,
đáng yêu của chúng luôn là nguồn động viên để tìm tòi, sáng tạo trong quá trình dạy học
để cho trẻ hứng thú, thích học và một phần tích lũy kiến thức bước đầu về một cách đọc –
viết chuẩn bị tâm thế vững chắc cho trẻ vào lớp 1.
2. Đề xuất:
Qua tìm tòi nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ
ở bậc học mầm non là rất cần thiết. Vì vậy đề nghị các cấp lãnh đạo:
- Tiếp tục triển khai thực hiện rộng rãi nội dung giáo dục chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6

tuổi vào lớp 1 ở các trường mầm non.
- Tạo điều kiện cho trẻ tham gia các hoạt động trong nhà trường một cách chủ động,
được bộc lộ quan điểm, rèn luyện các kỹ năng và hình thành quan hệ tốt trong giao tiếp
với cô và bạn bè, thông qua các hoạt động tổ chức những hoạt động như lễ hội (vào dịp
lễ, tết), hội thảo về phương pháp học tập, liên hoan văn nghệ, trò chơi dân gian, xây dựng
hoạt động bản thân, phương pháp làm việc nhóm…
- Tuyên truyền nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm Non trên báo, đài, ti vi
nhằm nâng cao nhận thức của phụ huynh.
Trên đây, là một số giải pháp giúp trẻ chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vào lớp 1.
Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi một vài sai sót kính mong các cấp lãnh đạo và các bạn
đồng nghiệp vui lòng đóng góp ý kiến để kinh nghiệm của tôi được hoàn hảo hơn.
Phường 9, ngày 19 tháng 3 năm 2017
Người viết

Phạm Thị Phương
12


Nhận xét, đánh giá của Hội Đồng khoa học
Trường Mầm Non Thực Hành Măng Non Phường 9
Kinh nghiệm giảng dạy “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vào
lớp 1” của Bà Phạm Thị Phương, chức vụ giáo viên trường Mầm Non Thực Hành Măng
Non Phường 9 đã được hội đồng khoa học trường đánh giá.
Điểm ……… xếp loại ...............
(Kinh nghiệm giảng dạy “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi vào
lớp 1” đã đưa vào vận dụng đạt hiệu quả từ năm 2016 đến năm 2017).
TM.Hội đồng khoa học Trường MN TH Măng Non
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

Lê Thị Liên

Hiệu Trưởng

Nhận xét, đánh giá của Hội Đồng khoa học
Ngành GD-ĐT thành phố Vĩnh Long
Kinh nghiệm giảng dạy “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5- 6 tuổi vào
lớp 1” của Bà Phạm Thị Phương, chức vụ giáo viên trường Mầm Non Thực Hành Măng
Non Phường 9 đã được hội đồng khoa học Ngành GD-ĐT thành phố Vĩnh Long đánh
giá.
Điểm ……… xếp loại ...............
(Kinh nghiệm giảng dạy “Một số giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi vào
lớp 1”đã đưa vào vận dụng đạt hiệu quả từ năm 2016 đến năm 2017).
TM.Hội đồng khoa học Ngành GD-ĐT TP Vĩnh Long
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

13



×