Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Báo cáo thực tế “Hành trình di sản miền Trung”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.86 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
PHẦN 1: LỊCH TRÌNH THỰC TẾ...................................................................2
PHẦN 2: KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI CÁC ĐỊA DANH................................5
TẠI MIỀN TRUNG.............................................................................................5
2.1. Lăng Khải Định...............................................................5
2.2. Phố cổ Hội An.................................................................7
2.3. Đại Nội Kinh Thành Huế...............................................12
2.4. Thành cổ Quảng Trị......................................................16
2.5. Bảo tàng Chăm............................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................24
PHỤ LỤC...........................................................................................................25


MỞ ĐẦU
Trong khoảng thời gian từ ngày 27/05 đến ngày 01/06/2017, tập thể lớp
ĐH Quản lí văn hóa 14A đã có chuyến thực tế chuyên môn mang tên “Hành
trình di sản miền Trung”. Đây là chuyến thực tế chuyên môn dài ngày và quan
trọng trong chương trình đào tạo của ngành quản lí văn hóa. Chuyến thực tế đã
giúp sinh viên hệ thống lại những kiến thức lý thuyết đã được học trên lớp qua
đó có cái nhìn tổng quan, chân thực về nghiệp vụ nghiên cứu văn hóa. Trong
chuyến hành trình, sinh viên được trực tiếp tham gia vào việc chuẩn bị và tổ
chức chuyến đi cùng với các giáo viên. Đây là một cơ hội tốt cho sinh viên thực
hành các kỹ năng nghiệp vụ theo chuyên ngành đào tạo của mình. Được tận mắt
chứng kiến những công trình kì vĩ của Tạo hóa, được chạm tay vào những hiện
vật tưởng chừng như chỉ được xem qua sách báo, truyền hình. Được chính tai
nghe những làn điệu ca Huế ngọt ngào mà đằm thắm dịu êm…Một chuyến hàn
trình với hai mục đích vừa học lại vừa chơi. Sau khi được trải nghiệm hành trình
6 ngày đầy thú vị, chúng tôi viết lại bài báo cáo thực tế này vừa làm tài liệu


nghiên cứu cho những môn học sau này vừa là một điều kiện bắt buộc để hoàn
thành học phần thự tế này.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trong khoa đã tổ chức cho
sinh viên chúng em một chuyến đi bổ ích và lý thú. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm
ơn đến cô giáo Trần Phương Thúy, thầy Nghiêm Xuân Mừng đã đồng hành,
quan tâm, giúp đỡ cho chúng em trong chuyến đi thực tế lần này. Em rất mong
nhận được những ý kiến, nhận xét của thầy để bài thu hoạch của em được hoàn
thiện hơn.

1


PHẦN 1: LỊCH TRÌNH THỰC TẾ
Trải qua hành trình 6 ngày 5 đêm, với hành trình dài hơn 1000km đi qua
nhiều tỉnh thành trên dải đất miền Trung, với nhiều cảm xúc đan xen, khó tả.
Dưới đây là lịch trình cụ thể của “ Hành trình di sản miền Trung” :
Ngày
27/05

Thời gian
Chiều tối thứ 7
20h05

Lịch trình
- Tập trung tại cổng

Nhận xét
Khi lên xe , mặc

trường điểm danh


dù đi buổi tối và

- Xuất phát từ Hà Nội

đi đường dài khá
mệt nhưng vẫn
cảm thấy hồi hộp
và chờ đợi một
chuyến đi vui vẻ.

28/05

11h30- 14h30

- Ăn trưa, nhận phòng

Tại đây em đã

nghỉ ngơi tại Đà Nẵng

khám phá ra
nhiều kiến thức

14h30

- Tập trung khách sạn đi mới mẻ và bổ ích
thăm Bảo tàng Chăm

về bảo Tàng

Chăm cũng như

16h

18h

29/05

- tập trung tại cổng Bảo

cảm nhận được

tàng Chăm, ra bãi biển

vẻ đẹp của Đà

Mỹ Khê

Nẵng.

- Về khách sạn.

19h30

- Ăn tối

7h30

- Ăn sáng tại khách sạn


Lần đầu được

- Đến giao lưu với Phân tham cũng như
8h

hiệu trường Đại học nội giap lưu với các
vụ tại Quảng Nam

bạn và các thầy

- Cùng ăn trưa với các

cô giáo của

2

Ghi chú


11h30

13h30
15h
16h30

bạn trong trường trường trường tại phân
Đại học nội vụ tại

hiệu Quảng Nam


Quảng Nam

em thấy rất vui

- Lên xe về khách sạn

và phấn khởi

- Tham quan làng đá

cũng như được

-Đi Hội An và tự túc ăn chứng kiến sự lớn
tối tại Hội An

mạnh và phát
triển cùa trường.

19h30

- Lên xe về Đà Nẵng

20h15

-nghỉ ngơi và đi tự do
tham quan thành phố

30/05

Đà Nẵng

- Ăn sáng tại khách sạn

Được đi thăm

- Đi thăm quan chùa

quan Lăng Khải

Linh Ứng

Định giúp em

10h

-Tham quan chợ Hàn

thêm hiểu biết về

10h30

- Ăn trưa tại Đà Nẵng

lịch sử nước nhà.

7h30
8h

31/05

12h


- Lên xe đi Huế

14h

- Đi Lăng Khải Định

17h

- Nhận phòng,nghỉ ngơi

7h

ăn uống tại Huế
- Ăn sáng tại Huế

Cảm nhận đầu

- Đi Đại Nội kinh thành

tiên của e là sự

Huế

hoành tráng và kì

- Ăn trưa, nghỉ ngơi tại

bí của Đại Nội


khách sạn

kinh thành Huế,

- Thăm quan chùa

cũng như sự thân

Thiên Mụ

thiện gần gũi của

- Tự do ăn uống, thăm

người dân xứ

quan thành phố Huế

Huế

7h30
11h
15h
17h

3


01/06


5h
8h
11h
13h

-Tập trung tại xe, lên

Qua chuyến

đường về Hà Nội

viếng thăm này

- Thăm thành cổ Quảng

em thêm biết ơn

Trị

những chiến sĩ đã

- Ăn trưa tại Quảng

hi sinh vì độc lập

Bình

tự do của dân tộc.

- Thăm mộ Đại Tướng

Võ Nguyên Giáp

13h30

- Tiến hành về Hà Nội

20h

- Ăn tối tại Thanh Hóa

22h

- Sinh viên có mặt tại
trường

4


PHẦN 2: KHẢO SÁT THỰC TẾ TẠI CÁC ĐỊA DANH
TẠI MIỀN TRUNG
2.1. Lăng Khải Định
Là di sản văn hóa phi vật thể, Lăng Khải Định là di tích lịch sử - văn hóa
đặc sắc và nổi bật tại Huế.
Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng là lăng mộ của vua Khải Định
(1885-1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ
(còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã
Hương Thủy.
Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do Tiền quân Đô thống phủ Lê
Văn Bá là người chỉ huy và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây
dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan

Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... Để có kinh phí xây dựng
lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30%
trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. Hành động này của Khải Định đã bị
lịch sử lên án gay gắt.
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm
tốn hơn nhiều, với kích thước 117 m × 48,5 m nhưng ngược lại cực kỳ công phu
và tốn nhiều thời gian. Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt,
thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ,
thủy tinh màu... để kiến thiết công trình trên ngọn đồi này.
Tổng thể lăng và vị trí xây dựng có nhiều ý nghĩa. Đồng thời những tiểu
xảo kiến trúc trong lăng cũng tạo nên những giá trị về mặt tâm linh và quan
niệm. Vua Khải Định đã đi nhiều nơi để tìm những hình thức kiến trúc mới
mang về để áp dụng xây dựng lăng. Lăng mang dấu ấn của nhiều trường phái
khác nhau, đặc biệt là ảnh hưởng của lối kiến trúc phương Tây. Sự loại bỏ màu
xanh của cá lá cây cổ thụ, sự vắng bóng của mặt nước, ao hồ đã làm cho tổng
thể kiến trúc từ bậc thứ nhất lên bậc thứ 127 thiếu vẻ êm dịu tươi mát. Tuy
nhiên, toàn khu lăng này lại được bao quanh bởi một cánh rừng thông. Giữa
không gian xanh mát âý, Ứng Lăng nổi lên như một tòa lâu đài thời Trung Cổ ở
5


Châu Âu.
Lăng là một khối hình chữ nhật, vươn lên cao năm tầng với 127 bậc.
+ Từ dưới mặt đất lên phải vượt qua 37 bậc cấp mới đến được Cổng Tam
Quan. Ơ tầng thứ nhất này có hai công trình Tả Tòng Tự và Hữu Tòng Tự được
xây dựng để thờ bài vị các vị công thần.
+ Tiếp tục vượt qua 29 bậc cấp nữa sẽ đến Nghi Môn và sân Bái Đính.
Hai bên sân Bái Đính là hai hàng tượng chầu gồm quan văn, quan võ được tạc
đúng theo tỉ lệ 1:1. Nằm ở giữa cuối sân Bái Đính là Bi Đình hình bát giác.
Trong Bi Đình có tấm bia bằng đá cao 3,1m. Trên bia có khắc công đức của vua

Khải Định do vua Bảo Đại viết. Hai bên tả, hữu của nhà bia (Bi Đình)là hai Trụ
Biểu tượng trưng cho hai ngọn nến soi sáng linh hồn của vua ở thế giới bên kia.
+ Sau Bái Đình là hai tầng sân hình chữ nhật được lát gạch caro, mỗi tầng
cách nhau 13 bậc.
+ Cung Thiên Định nằm ở tầng thứ năm – vị trí cao nhất cuả Ứng Lăng.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ
thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tách, tác giả của ba bức bích
họa “Cửu long ẩn vân” lớn vào bậc nhất nước ta, được trang trí trên trần ba gian
giữa cung Thiên Định. Địa thế của Lăng Khải Định được tính toán rất kỹ lưỡng,
vị trí các ngọn núi đồi, khe suối xung quanh lăng đều ứng với các yếu tố phong
thủy địa lý, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Kiến trúc của
Lăng Khải Định rất lạ, khác hắn kiến trúc lăng mộ của các vị vua triều Nguyễn
trước đó.
Giá trị nghệ thuật cao nhất của Lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên
Định. Ba gian giữa trong cung đều được trang trí phù điêu ghép bằng sánh sứ và
thủy tinh màu. Đặc biệt chiếc Bửu tán trên pho tượng đồng, nặng 1 tấn với
những đường lượn mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác làm
bằng nhung lụa rất nhẹ nhàng. Bên dưới Bửu tán là pho tượng đồng Khải Định
được đúc tại Pháp năm 1922 theo yêu cầu của nhà vua.
Lăng Khải Định là đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh,
đây thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc.
6


Cho đến nay lăng Khải Định vẫn còn gây ra nhiều ý kiến trái chiều khi
đánh giá về quan điểm thẩm mỹ của vị vua này, dẫu vậy Ứng lăng vẫn có vị thế
nhất định bởi sự khác lạ so với hệ thống các lăng tẩm của vương triều nhà
Nguyễn ở Huế và hệ thống lăng tẩm ở Việt Nam qua các triều đại phong kiến
nói chung.
Lăng khải Định là một trong những lăng đẹp nhất nằm trong hệ thống di

tích lịch sử văn hóa cố đô Huế, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
thế giới. Vì vậy, việc gìn, bảo tồn di tích quan trọng này được coi là trách nhiệm
chung của các cơ quan quản lý, bảo tồn văn hóa và của mọi người dân. Tuy
nhiên hiện nay nhiều người có dịp đến thăm Lăng khải Định đã hết sức bất bình
trước cảnh một số khách tham quan có những hành vi xâm hại đến di tích có giá
trị văn hóa thế giới này. Tại chốn tôn nghiêm này, nhiều người còn bắt gặp cảnh
khách tham quan nằm, ngồi la liệt, leo trèo lên các pho tượng. Điều đáng nói,
trong khi du khách thản nhiên leo trèo, sờ vào hiện vật, thì không có nhân viên
bảo vệ nào của Lăng có mặt để ngăn chặn các hành vi vô ý thức, thiếu văn hóa
của một số du khách.
Để xảy ra việc như vậy trách nhiệm phần lớn thuộc về ban quan lý khu
bảo tồn cố đô Huế. Ban Quan lý di tích cố đô Huế cần kiểm tra, đôn đốc, chấn
chỉnh và tăng cường công tác bảo vệ các di sản văn hóa của nhân loại. Hy vọng,
đây cũng là kinh nghiệm chung cho các ban quản lý di tích lịch sử văn hóa khác
trên cả nước trong việc bảo tồn, giữ gìn cho muôn đời sau các giá trị văn hóa và
lịch sử của đất nước và thế giới, đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
mỗi công dân.
2.2. Phố cổ Hội An
Vào ngày 22/8/1998, Hội An được nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh
hùng các lực lượng vũ trang nhân dân”. Hơn một năm sau, ngày 4 tháng 12 năm
1999, Tổ chức UNESCO đã ghi tên Hội An vào danh mục các di sản Văn hóa
thế giới và vào ngày 24/8/2000. Hội An rất tự hào với danh hiệu cao quý “Di sản
Văn hóa thế giới”. Trước vinh dự lớn đó, Hội An đã, đang và sẽ vẫn là một quần
thể kiến trúc cổ, một đô thị cổ của Việt Nam và thế giới.
7


Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng
đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng
khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội

An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn
Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trước thời kỳ
này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được
nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường thủy
ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà
Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn
phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ
20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội
An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một
trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền
thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những
ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế
kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà
phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình
hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi
nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang
dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người
Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị
văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi
vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với
những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn
hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng
sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam,
hiếm có trên thế giới, Hội An giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di
tích kiến trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc,
8



giếng cổ, mộ cổ... Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt
Nam, vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và
phương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt
văn hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống vẫn lưu giữ, bảo tồn
cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Hội An còn có một môi trường thiên
nhiên trong lành, êm ả với những làng nhỏ ngoại ô xinh xắn, có nghề thủ công
như mộc, làm đồ đồng, gốm…
Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc cổ ở Hội An hầu hết được làm lại
mới từ đầu thế kỷ 19, mặc dù năm khởi dựng có thể xưa hơn nhiều. Kiến trúc cổ
thể hiện rõ nhất ở khu phố cổ. Nằm trọn trong địa bàn của phường Minh An,
Khu phố cổ có diện tích khoảng 2km², tập trung phần lớn các di tích nổi tiếng ở
Hội An. Đường phố ở khu phố cổ ngắn và hẹp, có độ uốn lượn, chạy ngang dọc
theo kiểu bàn cờ. Địa hình khu phố cổ có dạng nghiêng dần từ bắc xuống nam.
Các công trình kiến trúc trong khu phố cổ được xây dựng hầu hết bằng vật liệu
truyền thống: gạch, gỗ và không có nhà quá hai tầng. Du khách dễ nhận ra dấu
vết thời gian không chỉ ở kiểu dáng kiến trúc của mỗi công trình mà có ở mọi
nơi: trên những mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín rêu phong và cây cỏ; những
mảng tường xám mốc, xưa cũ; những bức chạm khắc về một con vật lạ hay diễn
tả một câu chuyện cổ... Nơi đây hẳn đã thu hút được các nghệ nhân tài hoa về
nghề mộc, nề, gốm sứ của người Hoa, người Nhật, người Việt, người Chăm...
cho nên mỗi công trình để lại hôm nay còn in dấu ấn văn hoá khá đa dạng,
phong phú của nhiều dân tộc.
Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ
một nền tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân
với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội
văn hoá cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các món ăn đặc sản… làm
cho Hội An ngày càng hấp dẫn du khách thập phương. Sự phong phú, đa dạng
về tâm hồn giàu bản sắc văn hoá của người Hội An còn được biểu hiện ở các
món ăn truyền thống như cao lầu, hoành thánh, bánh tổ, bánh ít gai... từ bao đời
nay vẫn được lưu truyền để hôm nay thực khách bốn phương vẫn có cơ may

9


được thưởng thức. Cuộc sống đã bao đổi thay qua năm tháng nhưng người Hội
An không bị mất đi những điệu hò quen thuộc, những lễ hội văn hoá đã có từ
ngàn xưa, tất thảy vốn cổ ở đây đều được trân trọng giữ gìn... Một đêm hội được
tổ chức hằng tháng vào tối 14 âm lịch và đây cũng là dịp du khách khắp nơi
được sống trong bầu không khí mang đậm bản sắc truyền thống của Hội An.
So với các đô thị khác của Việt Nam, Hội An có những đặc điểm lịch sử
và địa lý nhân văn rất riêng biệt. Mảnh đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là
nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hóa. Đặc điểm đầu tiên có thể nhận thấy
ở văn hóa Hội An chính là tính đa dạng. Những người Việt vào cư trú ở Hội An
từ cuối thế kỷ 15 chung sống hòa bình với bộ phận dân cư người Chăm vẫn định
cư rất lâu từ trước đó. Khi Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất, nơi
đây đã tiếp nhận nhiều cư dân mới đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Điều
này giúp cho Hội An có được một nền văn hóa nhiều tầng, nhiều lớp và đa dạng,
thể hiện ở tất cả các hình thái văn hóa phi vật thể như phong tục tập quán, văn
học dân gian, ẩm thực, lễ hội... Một đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Hội An
là tính bình dân. Khác với Huế, kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang
tính chất cung đình, hệ thống di tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ
truyền của cuộc sống đời thường. Ơ Hội An, văn hóa phi vật thể vẫn đang sống
và tương thích với hình thái văn hóa vật thể.
Hội An đã trở thành một huyền thoại, một dấu ấn khó phai nhòa của lịch
sử, của những ai đã từng đặt chân đến nơi đây. Hội An sẽ mãi tồn tại trong tâm
trí của chúng ta, để con người được sống với những cái đã qua, những vẻ đẹp
giản dị của quá khứ.
Bên cạnh những điều đặc biệt đó, Hội An cũng phải đối mặt với nhiều khó
khăn. Đó là sự xuống cấp của di tích do niên đại khá lâu. Bên cạnh đó, do tác
động của điều kiện tự nhiên, nhất là lũ lụt thường xuyên nên các di tích xuống
cấp trầm trọng, có nguy cơ bị sụp đổ bất cứ lúc nào. Theo thống kê của Trung

tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa Hội An, số lượng di tích cần chống đỡ hằng
năm trước mùa mưa bão lên đến hàng trăm; trong đó hàng chục di tích được
khuyến cáo, thậm chí yêu cầu người dân phải di dời đến nơi khác để đảm bảo an
10


toàn, cá biệt có trường hợp phải hạ giải khẩn cấp di tích để tránh nguy cơ bị sụp
đổ.
Nguy cơ cháy nổ cũng thường trực, áp lực về phát triển du lịch cũng tác
động trực tiếp đến công tác quản lý, bảo tồn di tích. Nhiều năm qua, tình trạng
bán di tích vẫn còn diễn ra khiến một số di tích không còn nguyên vẹn “phần
hồn” khi thay đổi chủ nhân và mục đích sử dụng, dẫn đến sự “rỗng hóa di tích”.
Số phận của các di tích nằm ở vùng ven Hội An cũng ở trong tình trạng tương tự
khi xu hướng “hoành tráng hóa” di tích kiến trúc đang có chiều hướng gia tăng.
Di tích tín ngưỡng như miếu, lăng bị lấn chiếm, xâm hại; có di tích được cộng
đồng dân cư bảo vệ, giữ gìn và đầu tư cải tạo thì lại bị “trẻ hóa”. Các ngôi chùa,
thánh thất, nhà thờ trước đây có quy mô vừa phải, phù hợp với cảnh quan, con
người Hội An, nay được đầu tư cải tạo, xây mới với quy mô, tầm vóc lớn hơn
nhưng lại gây ra sự biến đổi giá trị, làm biến dạng di tích.
Để bảo tồn, phát huy giá trị phố cổ Hội An gắn với phát triển du lịch một
cách hiệu quả và bền vững hơn nữa, chúng ta cần thực hiện một cách đồng bộ
các giải pháp chủ yếu sau:
- Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Ngành Văn hóa phải
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để thường xuyên tiến hành kiểm tra,
hướng dẫn hoạt động tại các di tích, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm, lệch
lạc, nhất là trong việc trùng tu, tôn tạo, trong quản lý các hoạtđộng du lịch, dịch
vụ…
- Nâng cao nhận thức, vai trò của toàn xã hội trong bảo tồn và phát huy
giá trị di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Cần tuyên truyền, vận động,

khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ, bảo tồn, phát huy các giá
trị di sản; đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa trong bảo tồn, phát huy giá trị
di sản; vận động người dân có ý thức gìn giữ lối sống thân thiện, giản dị.
- Nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy di sản phố cổ Hội An;
đa dạng hóa sản phẩm du lịch; xây dựng môi trường văn hóa trong hoạt động du
lịch. Cần tạo nên sự hài hoà, đồng thuận giữa phát triển du lịch và bảo tồn di
11


tích; đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; xây dựng môi trường văn hóa trong hoạt
động du lịch; tăng cường quảng bá di sản, sản phẩm du lịch bằng nhiều biện
pháp.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch ở Hội An. Địa phương cần xây
dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa làm công tác bảo tồn, trùng tu di tích, tổ
chức tập huấn cán bộ quản lý di tích ở cơ sở cũng như đội ngũ quản lý du lịch,
hướng dẫn viên, thuyết minh viên đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Kinh phí để bảo tồn, phát huy di sản Phố cổ Hội An là rất lớn, vì vậy cần phải
huy động nhiều nguồn cho công tác này. Có như vậy, chúng ta mới có được
nguồn kinh phí khả dĩ đáp ứng nhu cầu trùng tu, tôn tạo di tích, xây dựng cơ sở
hạ tầng du lịch, khắc phục những khó khăn, nguy cơ đang hiện hữu.
Đề đến với Hội An chúng em đã trải qua một chặng đường dài, nhưng khi
được chứng kiến cảnh sắc tuyệt vời tại nơi đây thì mọi lời nói cũng chỉ là hữu
hạn. Hội An có một vẻ đẹp không thể diễn tả bằng lời nói được, sự lung linh,
tráng lệ nơi đây thật đặc biệt mà không ở đâu có được, từ những chiếc đèn lồng,
những gian hàng của người dân đến những con thuyền trên dòng sông Thu Bồn,
những chiếc đèn hoa đăng được các vị khách thả trôi ước mơ của mình trên đó.
Tất cả như hòa lại, làm phố cổ Hội An trở nên thật đặc biệt.
2.3. Đại Nội Kinh Thành Huế
Đại Nội Huế bao gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành có diện tích 500

ha. Đây là nơi sinh hoạt của 13 đời vua nhà Nguyễn và cũng là trung tâm hành
chính, chính trị của triều nhà Nguyễn trong khoảng 140 năm, từ đời vua Gia
Long đến vua Bảo Đại. Đại Nội Huế nằm trong quần thể di tích Cố Đô Huế
được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1993.
Với vị trí thuận lợi nằm hai bên bờ hạ lưu sông Hương và tựa lưng vào
dãy Trường Sơn nên từ rất sớm, Huế đã được chọn làm thủ phủ dưới các đời
chúa Nguyễn. Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long lại một lần nữa chọn
Huế làm nơi đóng đô. Để xây dựng quần thể kinh thành làm nơi hội họp triều
đình và sinh hoạt hoàng gia, năm 1803, vua Gia Long đích thân tiến hành khảo
12


sát chọn ví trí xây thành mới. Là người có hiểu biết rộng nên vua Gia Long đã
rất cân nhắc trong việc chọn vị trí xây dựng kinh thành để làm bền long mạch.
Và vùng đất rộng bên bờ Bắc sông hương, gồm các làng Phú Xuân, Vạn Xuân,
An Hòa, An Mỹ, An Vân, Diễn Phái, An Bảo, Thế Lại cùng một phần của sông
Bạch Mã và Kim Long được chọn. Năm 1804, kinh thành (kinh thành là khu
vực rộng lớn gồm nhà dân, nhà quan lại và phần quan trọng nhất là Đại Nội) bắt
đầu được xây dựng với mặt chính hướng về núi Ngự bình cao hơn 100m, hai
bên là cồn Hến và cồn Dã Viên tạo thế tả thanh long và hữu bạch hổ, minh
đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng. Do quy mô khá rộng lớn, khoảng
520ha nên đến năm 1833, dưới triều vua Minh Mạng, kinh thành Huế mới hoàn
thành.
Ðại Nội với kiến trúc nghệ thuật cung đình và vườn hào độc đáo được
khởi công xây dựng vào khoảng hơn hai thế kỷ trước. Đây như một công trình
biểu tượng cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn, tất cả
được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Bao
quanh là hệ thống thành quách lưu giữ tinh hoa kiến trúc của phương Đông và
phương Tây. Trải qua hàng trăm năm trầm mặc và tôn nghiêm trên đất Huế Đại
Nội Huế vẫn giữ nguyên giá trị kiến trúc và lịch sử. Kinh thành Huế được xây

dựng trên diện tích khoảng 520 ha có chu vi 10km cao 6,6m dày 21m. Thành có
kiến trúc hình Vauban được xây khúc khỉu với những pháo đài phòng thủ được
bố trí gần như điều nhau trên mặt thành. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi
đến cuối thời vua Gia Long thành mới được cho ốp gạch như chúng ta thấy ngày
hôm nay. Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt
về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha. Kinh Thành và mọi công trình
kiến trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà
trong Kinh Dịch đã ghi "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" (ý nói vua
quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ).
Hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền
nhà Nguyễn là ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành
Huế lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt
13


Nam ra mặt Bắc.
Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa
nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung
cảnh thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức
người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế - đó là núi
Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh...
Ðại Nội, bao gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, có hơn 100 công trình
kiến trúc đẹp ở nhiều khu vực khác nhau với các chức năng khác nhau. Hoàng
Thành được xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung
điện với khoảng hơn 100 công trình thì phải đến thời vua Minh Mạng vào năm
1833, mọi việc mới được hoàn tất.
Hoàng thành là vòng thành thứ hai bên trong kinh thành Huế, nơi ở của
vua và Hoàng gia, cũng là nơi làm việc của triều đình. Ngoài ra Hoàng thành
Huế còn là nơi thờ tự tổ tiên và các vị vua nhà Nguyễn.Hoàng Thành được xây
dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng

hơn 100 công trình thì phải đến thời vua Minh Mạng vào năm 1833, mọi việc
mới được hoàn tất. Hoàng Thành có 4 cửa được bố trí ở 4 mặt, trong đó cửa
chính (ở phía Nam) là Ngọ Môn. Bên trong Hoàng thành có Điện Thái Hòa, là
nơi thiết triều; khu vực các miếu thờ; và Tử Cấm thành - nơi ăn ở sinh hoạt của
vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là
Đại Nội.
Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực
Hoàng Thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ,
vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm.
Tử Cấm thành là vòng thành trong cùng, nằm trong Hoàng thành. Tử
Cấm thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công xây dựng từ năm Gia
Long thứ 2 (1803), năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi tên thành Tử Cấm Thành.
Thành có hình chữ nhật, cạnh nam và bắc dài 341m, cạnh đông và tây dài 308m,
chu vi 1298m. Ơ mặt trước, phía nam là cửa chính là Đại Cung Môn. Mặt bắc có
2 cửa Tường Loan và Nghi Phụng, thời Bảo Đại, sau khi xây lầu Ngự Tiền Văn
14


phòng mở thêm cửa Văn phòng. Mặt đông có hai cửa Hưng Khánh và Đông An,
về sau lấp cửa Đông An, mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đông Duyệt Thị Đường.
Mặt tây có 2 cửa: Gia Tường và Tây An. Bên trong Tử Cấm thành bao gồm hàng
chục công trình kiến trúc với quy mô lớn nhỏ khác nhau, được phân chia làm
nhiều khu vực.
Hiện nay, Đại nội sẽ được chiếu sáng nghệ thuật, tôn vinh thêm giá trị của
di sản thế giới. Không gian Đêm Hoàng cung bắt đầu từ cửa Ngọ Môn đến sân
điện Cần Chánh.Điểm nhấn của Đại nội về đêm là khung cảnh hoàng cung hiện
ra trong màu sắc khác, lung linh và đẹp hơn rất nhiều với sự hỗ trợ của hiệu ứng
ánh sáng
Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã tăng cường trưng bày triển lãm ở
một số điểm nhấn quan trọng, đưa một số chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc

sắc vào phục vụ du khách. Đây là điểm khác hẳn so với Đại nội vào ban ngày.
Du khách có dịp thưởng thức các nghi thức cung đình xưa như lễ đối đáp,
trình tấu đại nhạc, tiểu nhạc hay các hoạt động diễn xướng hấp dẫn cùng các trò
chơi cung đình được tái hiện.Đây được xem như là một trong những chương
trình kích cầu du lịch di sản Huế trong mùa du lịch trọng điểm năm 2017. Mục
đích là làm mới sản phẩm du lịch, tạo thêm điểm đến mới hấp dẫn vào ban đêm
cho du khách khi đến thăm Huế.
Công trình Đại Nội Huế biểu hiện sự kết tinh về thẩm mỹ nghệ thuật, ý
thức, về sự giao cảm giữa thiên nhiên, môi trường và con người. Vì vậy, việc
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa được coi là việc làm cấp thiết. Bảo
tồn di tích kiến trúc nhằm hướng đến giữ gìn, bảo lưu và chuyển giao một cách
toàn diện, đầy đủ và chân xác các giá trị hữu hình và vô hình của tài sản văn hoá
kiến trúc cho thế hệ mai sau.
Kể từ khi được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới đến nay, Trung tâm
Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã trùng tu, phục hồi được 132 công trình, hạng mục
di tích tiêu biểu. Trong đó có Ngọ Môn, Điện Thái Hoà, Hiển Lâm các, cụm di
tích Thế Miếu, cung Diên Thọ, Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, hệ thống
trường lang Tử Cấm Thành, Minh Lâu, điện Sùng Ân, Hữu Tùng Tự, Bi Đình
15


(lăng Minh Mạng); điện Hoà Khiêm, Minh Khiêm Đường, Ôn Khiêm Điện (lăng
Tự Đức); Thiên Định Cung, Bi Đình (lăng Khải Định), chùa Thiên Mụ, cung An
Định, các cổng của kinh thành Huế... Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp
thiết, bằng các biện pháp chống dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ
xâm thực, gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hóa... Nhờ vậy, trong điều kiện
thiên tai khắc nghiệt xảy ra liên tiếp, các di tích vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi
thọ.
Bên cạnh việc trùng tu, bảo tồn kiến trúc, gần đây, Trung tâm Bảo tồn di
tích Cố đô Huế đã triển khai thêm nhiều hoạt động văn hóa tại Khu di tích Đại

Nội Huế.
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, nhưng với tư cách là tài sản
vô giá của dân tộc, là thành quả lao động của hàng vạn người trong suốt một
thời gian dài, Khu di tích Đại Nội vẫn luôn là một công trình lịch sử minh chứng
cho sự tồn tại của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
2.4. Thành cổ Quảng Trị
Thành cổ Quảng Trị hoặc Cổ thành Quảng Trị là một Di tích quốc gia đặc
biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4, tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị,
tỉnh Quảng Trị. Thành cổ Quảng Trị còn nổi tiếng là nơi diễn ra trận chiến 81
ngày đêm giữa lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân lực Việt
Nam Cộng hòa có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực của quân đội Mỹ. Đây là một
trận đánh hao tổn về sức người và của cho cả hai bên. Hiện nay tại bảo tàng
Thành cổ Quảng Trị vẫn còn có nhưng di vật, và những bức thư bộ đội gửi vĩnh
biệt gia đình trong thời gian xảy ra trận đánh này.
Lịch sử hiện đại đã ghi dấu ấn ở Thành cổ Quảng Trị bằng một cuộc chiến
khốc liệt, bi hùng; đó là cuộc chiến Thành cổ vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. 81
ngày đêm, với hàng trăm nghìn tấn đạn bom trút xuống, đã gần như san phẳng
toà thành cổ cùng cả thị xã Quảng Trị. Hàng ngàn con người đã ngã xuống nơi
đây vì Tổ quốc, cho sự nghiệp giải phóng, thống nhất đất nước.
Thành cổ Quảng Trị là một ngôi nhà chung, một nấm mồ chung của
những chiến sĩ giải phóng. Quảng Trị có hàng chục nghĩa trang, nhưng có hai
16


nghĩa trang không bia mộ, đó là Thành cổ và dòng sông Thạch Hãn.
Mặc dù bị bom đạn cày xới, phá hủy, song Thành cổ Quảng Trị vẫn là một
trong những số rất ít thành cổ Việt Nam còn giữ được cấu trúc thành lũy rõ ràng
với hệ thống tường thành, cổng thành, hào nước. Trong Thành cổ bây giờ ngăn
ngắt màu xanh của cỏ cùng hàng ngàn cây dừa. Thành cổ trở thành đất tâm linh,
và dòng Thạch Hãn cũng là dòng sông tâm linh. Nơi đây là không gian thiêng

liêng, là miền ký ức hào hùng và bi tráng của một thời hoa lửa.
Tại Thành cổ Quảng Trị, không thể không chiêm ngưỡng tượng đài tưởng
niệm các liệt sĩ hy sinh trong trận đánh năm xưa. Tượng đài có hình tròn tượng
trưng nấm mồ cho những người đã mất. Phía dưới của tượng đài là hành trang
người lính gồm nón, ba lô và một cây thiên mệnh hướng lên trời xuyên qua ba
áng mây. Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến và ánh hào quang, dưới tầng
mây cuối cùng có gắn hình tượng chung là ba bát cơm tiễn người đã khuất.
Ngoài vòng tròn gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt của các
chiến sĩ giải phóng quân. Trong khuôn viên Thành cổ có tháp chuông lớn được
đặt tại quảng trường nối liền Thành cổ và bờ sông Thạch Hãn thường xuyên
vang lên những hồi chuông ngân dài với ý nghĩa cầu mong linh hồn các liệt sĩ đã
hy sinh được siêu thoát. Góc phía Tây Nam của Thành cổ là Bảo tàng với rất
nhiều chứng tích chiến tranh được lưu giữ và thuyết minh đầy cảm xúc, khiến
bất cứ ai thăm nơi này đều xúc động, bồi hồi.
Thành cổ được vua Gia Long ra lệnh xây dựng từ những năm đầu thế kỷ
19, trên một khu đất cao với sông Thạch Hãn ở phía Tây, sông Vĩnh Định ở phía
Bắc và vùng dân cư đồng bằng Triệu Hải ở Đông và Nam. Từ Thành cổ có thể ra
Bắc, vào Nam bằng đường bộ lẫn thủy thuận tiện. Theo sử liệu, ban đầu thành
chỉ đắp bằng đất, sau được vua Minh Mạng cho xây lại với chức năng quân sự
với 4 pháo đài, có 4 cửa ra vào, bao quanh là hệ thống hào thành sâu hơn 3 mét,
rộng hơn 18 mét. Các cửa thành đều được xây vòm cuốn với vọng lâu, mái cong
lợp ngói âm dương. Bên ngoài mỗi cửa đều có một chiếc cầu uốn cong bắc qua
hào thành. Bên trong thành có hành cung được bảo vệ bởi hệ thống tường cao,
dày, có nhà ở của các vị Vua khi đi kinh lý qua hay dự lễ thăng chức của các
17


quan. Dưới thời Nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính
trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị, là thành lũy quân sự bảo vệ kinh đô Huế. Sau
trận chiến năm 1972, Thành cổ gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa

hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông
hào bên ngoài chi chít vết bom đạn. Hiện nay, chỉ có vài đoạn tường thành và
bốn cổng chính của Thành được phục chế. Dù không còn những dấu ấn xưa,
nhưng Thành cổ vẫn là “Đất tâm linh” của nhiều người dân Quảng Trị nói riêng
và Việt Nam nói chung, vì nơi đây mỗi tấc đất đều thấm máu của các chiến sĩ ta.
Cùng với những địa danh như địa đạo Vịnh Mốc, nhà tù Lao Bảo, hàng
rào điện tử McNamara, căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, sân bay Tà Cơn,
Đường 9, cầu Hiền Lương... Thành cổ Quảng Trị là điểm đến thu hút đông đảo
khách du lịch trong nước và quốc tế của tỉnh Quảng Trị.
Hiện nay Thành Cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:
- Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ
lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom… Tại đây sẽ đặt 81
khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân
ta.
- Khu phục dựng Thành Cổ nguyên sinh: ở phía Đông bắc, thu nhỏ kiến
trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông
Hãn.
- Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai
tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá,
cây cảnh, hồ nước, sân chơi,...
Thành Cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là
điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Nếu có
dịp, bạn hãy đến nơi đây, để hiểu thêm về đất nước, con người, được sống lại với
những chiến công hào hùng, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
2.5. Bảo tàng Chăm
Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là bảo tàng trưng bày hiện
vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng Đà Nẵng. Đây là bảo
18



tàng do người Pháp xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và trưng bày các di vật về
nghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở các tháp, thành lũy
Chăm tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Hà Tĩnh tới Bình Thuận và các
tỉnh Tây Nguyên.
Tọa lạc tại ngã gần ngã ba 2 tuyến phố đẹp nhất thành phố Đà Nẵng ở số
2, đường 2/9, quận Hải Châu, Đà Nẵng, ngay ngã ba giao lộ Trưng Nữ Vương,
Bạch Đằng và 2/9, đối diện với Trung tâm truyền hình Việt Nam tại thành phố
Đà Nẵng, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng có tổng diện tích 6.673
m², trong đó phần diện tích trưng bày là 2.000 m². Tổng số hiện vật nghệ thuật
trưng bày tại bảo tàng lên tới khoảng 500 món và được phân chia theo các gian
phòng tương ứng với các khu vực địa lý nơi chúng được phát hiện gồm phòng
Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫm và các hành lang Quảng Trị, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Quảng Bình và Bình Định…
- Phòng Trà Kiệu: Theo sử liệu ghi lại, Trà Kiệu thuộc tỉnh Quảng Nam, là
kinh đô đầu tiên và cổ nhất của Chămpa, được xây dựng vào cuối thế kỉ IV dưới
triều vua Bhadresvara với tên gọi Sinhapura, nghĩa là Thành phố Sư Tử. Hiện có
43 tác phẩm, niên đại thế kỷ VII-VIII và XI-XII đang trưng bày tại phòng Trà
Kiệu của Bảo tàng điêu khắc Chăm. Nổi bật như: Đài thờ Linga-Yoni, Đài thờ
Trà Kiệu, Phù điêu Vishnu, Đài thờ Vũ nữ Trà Kiệu, Thần hộ pháp (Siva).
- Phòng Mỹ Sơn: Thuộc tỉnh Quảng Nam, thung lũng Mỹ Sơn từng là một
trung tâm tín ngưỡng quan trọng của vương quốc Chămpa, tại đây có hơn 70
ngôi tháp, phần lớn được xây dựng để thờ thần Siva. Trong phòng Mỹ Sơn của
Bảo tàng điêu khắc Chăm hiện đang trưng bày 18 hiện vật, gồm 3 nhóm: nhóm
hiện vật trong các tháp chính, nhóm hiện vật ở các tháp phụ và nhóm các hiện
vật trang trí trên trán cửa hoặc trên tường tháp nói chung.
- Phòng Đồng Dương: Cũng thuộc tỉnh Quảng Nam, Đồng Dương không
chỉ đánh dấu sự ra đời một triều đại mới cho vương quốc Chămpa mà còn đánh
dấu sự thay đổi trong tín ngưỡng từ việc tôn thờ thần Siva sang thờ các vị Phật
và Bồ tát. Tại phòng Đồng Dương của Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chămpa
hiện đang trưng bày pho tượng Bồ tát Tara, cao 114 cm, đường nét chạm khắc

19


tinh tế, một trong số nhiều hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm.
- Phòng Tháp Mẫm: Bình Định ngày nay còn khá nhiều di tích Chăm, tiêu
biểu là hệ thống đền tháp đồ sộ được xây dựng liên tục trong thời gian từ thế kỉ
XI đến XV khi trung tâm chính trị của Chămpa đặt tại đây. Hiện phòng Tháp
Mẫm của Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng trưng bày 67 hiện vật,
niên đại từ thế kỉ XII-XV. Nổi bật như: Thần Brahma, Voi-sư tử Gajasimha,
Thần Siva, Thủy quái Makara, Rồng, Chim thần Garuda, Đài thờ.
- Phòng trưng bày mở rộng: Được chính thức khai trương từ ngày
28/4/2004, phòng trưng bày mở rộng của Bảo tàng điêu khắc Chăm có gần 150
tác phẩm thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, chủ yếu được sưu tầm
sau 1975, nổi bật như: Nữ thần An Mỹ, Tượng khỉ Hanuman, Voi, Trang trí kiến
trúc, Bò thần Nandin, Bia.
- Hành lang Quảng Nam: Đang trưng bày 32 hiện vật, niên đại thế kỷ VIIVIII và IX-X, được khai quật từ nhiều địa phương ở tỉnh Quảng Nam. Nổi bật
như: Siva múa, Thần hộ pháp, Phù điêu Krishna, Phù điêu Yaksa.
- Hành lang Quảng Ngãi: Trưng bày 14 hiện vật niên đại từ cuối thế kỷ X
đến giữa XI, hầu hết được khai quật từ Chánh Lộ và một số địa danh khác ở tỉnh
Quảng Ngãi. Nổi bật như: Tượng Uma, Phù điêu Sarasvati, Tượng Laksmi.
- Hành lang Quảng Trị: Hiện trưng bày 14 tác phẩm, hầu hết có niên đại
thế kỷ VII-VIII, được khai quật từ các địa danh ở tỉnh Quảng Trị như Nam Giáp,
Hà Trung, Thạch An, Đa Nghi và đưa về Bảo tàng điêu khắc Chăm từ những
năm 1918 và 1935. Các hiện vật nổi bật như: Cưỡi ngựa đánh cầu, Phần đài thờ,
Trụ cửa.
Đến tham quan Bảo tàng điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng, chúng ta sẽ
thấy phần lớn tác phẩm là những nguyên bản trên 3 chất liệu chính là sa thạch,
đất nung và đồng, nhiều nhất là sa thạch, có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ
XV, rất đa dạng về phong cách nghệ thuật, hình khối, chạm khắc. Nổi bật là
những tác phẩm khắc họa thần Siva, Brahma, đài thờ Mỹ Sơn tinh xảo đến từng

chi tiết, thể hiện sức sáng tạo tài hoa của nghệ nhân xưa. Cùng các tác phẩm
điêu khắc linh vật hay cảnh sinh hoạt đời thường được chạm khắc công phu.
20


Dường như mỗi tác phẩm điêu khắc đều mang trong mình một câu
chuyện, một số phận lênh đênh chìm nổi như vương triều đã sản sinh ra nó. Bao
thế kỷ trôi qua, vật đổi sao dời, các chứng tích vẫn kiêu hãnh tồn tại cùng thời
gian.
Mỗi năm, Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng thu hút khoảng 200.000
lượt người đến tham quan, trong đó hơn 90% là du khách nước ngoài. Điều này
càng đặt ra cho chính quyền thành phố Đà Nẵng yêu cầu cấp bách trong việc đầu
tư, nâng cấp, bảo tồn giá trị văn hóa, mỹ thuật độc đáo của bảo tàng để nơi đây
luôn là điểm đến hấp dẫn của bất cứ du khách nào khi ghé thăm Đà Nẵng. Trong
khi chờ đợi sự đầu tư kinh phí để xây dựng, nâng cấp bảo tàng ngày càng quy
mô hơn, thì việc cần làm trước mắt là phải nhanh chóng xử lý sự hư hỏng,
xuống cấp, trong đó ưu tiên chống thấm cục bộ tại một số vị trí trong bảo tàng.
“Tất nhiên là chống đỡ tạm thời chứ chưa triệt để được. Còn đối với những vị trí
nền bong tróc, sẽ tiến hành thay thế. Những hạn chế trong cách thức trưng bày
thì các hướng dẫn viên tìm phương thức giới thiệu sao cho hợp lý”
Trong năm 2016, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động tại Bảo tàng
Điêu khắc Chăm đã có những nỗ lực không ngừng trong công tác bảo tồn – bảo
tàng, đóng góp tích cực vào việc gìn giữ và giới thiệu các di sản văn hóa, nghệ
thuật Champa đến đông đảo công chúng trong và ngoài nước.
Triển khai công tác nghiên cứu khoa học, sưu tầm hiện vật, xây dựng
trưng bày bảo tàng sau cải tạo, nâng cấp. Song song với hoạt động cải tạo cơ sở
vật chất, công tác nghiên cứu khoa học nhằm xây dựng trưng bày sau khi sửa
chữa, nâng cấp đã được triển khai và đạt nhiều kết quả. Cán bộ Bảo tàng đã tiến
hành nhiều đợt sưu tầm hiện vật từ các bộ sưu tập tư nhân (ông Lâm Dzũ Xênh,
Quảng Ngãi); các Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm, các làng Chăm tại

Ninh Thuận, Bình Thuận. Ngoài ra, Bảo tàng còn tổ chức thường xuyên các hội
nghị, tọa đàm nhằm tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, hội
đồng khoa học về nội dung và hình thức các trưng bày. Dự án Bảo tàng 3D được
triển khai lấy ý kiến với mong muốn đa dạng hóa loại hình thông tin cung cấp
đến du khách đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác trưng bày tại Bảo tàng sau
21


cải tạo.
Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, nâng cao kĩ năng chuyên môn của
cán bộ công nhân viên bảo tàng.
Hiện nay, bảo tàng điêu khắc Chăm Pa Đà Nẵng cũng là bảo tàng điêu
khắc Chăm Pa duy nhất trên thế giới. Bảo tàng trưng bày khoảng 300 tác phẩm
điêu khắc nguyên bản bằng chất liệu sa thạch, số ít là đất nung được sưu tập từ
các đền, tháp Chàm nằm rải rác ở miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Đó là những đài thờ và các bức phù điêu trang trí trên các kiến trúc các công
trình. Chúng được trưng bày trong 10 phòng mang tên các địa phương có hiện
vật được phát hiện.
Các tác phẩm nghệ thuật phản ánh những nét sinh hoạt đời thường, tín
ngưỡng, tôn giáo của dân tộc Chăm – một dân tộc đã từng có lịch sử hết sức huy
hoàng.

22


KẾT LUẬN
Chuyến đi thực tế “ Hành trình di sản Miền Trung” có ý nghĩa vô cùng to
lớn trong quá trình học hỏi, đúc kết kinh nghiệm thực tế. trau dồi thêm kiến thức
cho công việc sau này. Đối với những sinh viên khoa quản lí văn hóa thì chuyến
đi này là một trải nghiệm thú vị ,được tiếp xúc với những môi trường mới, học

hỏi nhiều hơn từ bạn bè, thầy cô, cũng nhau tìm hiểu về đất nước, về những
vùng đất anh hùng, những trang lịch sử hào hùng, về những nét đẹp về văn hóa
dân tộc, những điều đặc biệt mà không ở đâu có.
Chuyến đi giúp tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong lơp
cũng như khoa, giúp chúng em ở rộng các mối quan hệ, được học hỏi từ nhiều
bạn, từ các thầy cô, được chứng kiến sự lớn mạnh của trường. Đó là một bước
đệm vững chắc giúp e hiểu hơn về nghề nghiệp sau này, giúp e trưởng thành
hơn trong suy nghĩ cũng như trong cuộc sống.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. .
2. />3. />4. />5. />6. />
24


×