Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.11 KB, 80 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri
ân sâu sắc đối với các thầy cô của trường Đại học Kiểm sát Hà
Nội, đặc biệt là các thầy, cô trong khoa Pháp luật quốc tế đã
tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập.
Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ
là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là
hành trang quí báu để em bước vào đời một cách vững chắc
và tự tin. Và, em cũng xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
Nguyễn Vương Thùy Dương, đã tận tình hướng dẫn trong suốt
quá trình viết Khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, cũng như là trong quá trình
làm bài khóa luận tốt nghiệp, khó tránh khỏi sai sót, rất mong
các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như
kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài viết không thể
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp thầy, cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm
và sẽ hoàn thành tốt hơn Khóa luận tốt nghiệp sắp tới.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe
và thành công trong sự nghiệp cao quý.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


BẢNG KÍ HIỆU, CHỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự - Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 đã được
2015
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Khóa XIII, kì họp thứ 10 thông
qua ngày 24 tháng 11 năm 2015.


Công ước Viên - Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về
1980
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Công
ước - Công ước Lahaye 1955 về Luật áp dụng
Lahaye 1955
đối với các động sản hữu hình
Công ước Rome - Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối
1980
với các nghĩa vụ theo hợp đồng
Incorterms
- Quy tắc về các điều kiện thương mại quốc
tế Incorterms ( international commerical
terms)
PICC
- Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc
tế của UNIDROIT (PICC) do Viện thống
nhất về tư pháp quốc tế UNIDROIT ban
hành đưa ra những quy phạm chung
nhằm điều chỉnh hợp đồng thương mại
quốc tế
Quy tắc Rome I - Nghị định (Regulation) số 593/2008 của
Liên minh châu Âu ngày 17/6/2008 về luật
áp dụng đối với nghĩa vụ của hợp đồng
(Rome I)
Hiệp định tương - Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về
trợ tư pháp Việt
các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng
Nam và Liên
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên

Bang Nga
bang Nga
Hiệp định tương - Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và
trợ tư pháp Việt
hình sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ
Nam và Lào
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào
Hiệp định tương - Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề
trợ tư pháp Việt
dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội
Nam và Trung
chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân
Quốc
dân Trung Hoa

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
BẢNG KÍ HIỆU, CHỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

3


1.

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.

Hiện nay, Việt Nam của chúng ta đang hội nhập quốc tế

sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
Khi tiến hành hội nhập sẽ có rất nhiều các quốc gia tham gia.
Thực tế hiện nay, mỗi một quốc gia đều có một hệ thống quy
phạm pháp luật riêng và các quy phạm pháp luật này khác
với quy phạm pháp luật của các quốc gia khác thậm chí là
hoàn toàn trái ngược với nhau. Nguyên nhân của sự khác
nhau về pháp luật của mỗi quốc gia do xuất phát từ các đặc
điểm kinh tế, văn hóa xã hội và điều kiện lịch sử hình thành
của mỗi quốc gia đó là rất khác nhau.
Vì vậy, khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có
yếu tố nước ngoài sẽ xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật khi
pháp luật của các bên tham gia cùng điều chỉnh một vấn đề.
Để giải quyết tốt về hiện tượng xung đột pháp luật khi
điều chỉnh các quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài đặc
biệt về lĩnh vực hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì các quy
phạm pháp luật cần phải có sự thống nhất và phù hợp theo
thông lệ của thế giới để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của các chủ thể trong và ngoài nước. Chính vì vậy, Việt Nam
cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật của mình khi
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Gần đây, tại kì họp thứ 10 Khóa XIII diễn ra vào ngày 24
tháng 11 năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật
Dân sự 2015 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01
năm 2017. Bộ luật Dân sự 2015 đã có những tiến bộ đáng kể
so với Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005 về những
quy định liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Việc ra đời của Bộ luật Dân sự 2015 đã tháo gỡ một số những


4


bất cấp và khó khăn nhất định so với các Bộ luật Dân sự ban
hành trước đó. Điều này đã góp phần rất lớn trong việc hội
nhập kinh tế của Việt Nam và đồng thời cũng tương thích hơn
với xu thế phát triển của pháp luật của các quốc gia trên thế
giới hiện nay.
Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu về việc giải quyết xung đột
pháp luật về hợp đồng tại Việt Nam mà chủ yếu là theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015 là vô cùng cần thiết và có ý
nghĩa. Bằng việc nghiên cứu và thực hiện đề tài “Giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam” để đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định
pháp luật liên quan đến lĩnh vực xung đột hợp đồng theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định pháp luật khác
có liên quan và hướng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh
vực hợp đồng theo các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành. Đồng thời nêu lên cách mà một số quốc gia và vùng
lãnh thổ sử dụng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng có yếu tố nước ngoài; từ đó đưa ra một số đề xuất
cho Việt Nam nhằm khắc phục một số vướng mắc khi thi
hành.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài.

Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công
bố liên quan đến đề tài vấn đề xung đột pháp luật và xung đột
pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng tại Việt Nam, trong đó có thể kể

đến như:
Nhóm tài liệu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luật tốt nghiệp,
đề tài khoa học các cấp:
-

Nguyễn Công Khanh (2003),“Cơ sở lý luận và thực tiễn của
pháp luật điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.

5


-

Nguyễn Bá Chiến (2008), “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn
thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam”,

-

Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Thuận (2005), “Giải quyết xung đột về hiệu lực và
áp dụng giữa các điều ước quốc tế”, Luận án tiến sĩ Luật học,

-

Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đặng Thái Hưng (2014), “Giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học


-

Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Thoa (2009),“Giải quyết tranh chấp hợp đồng
thương mại quốc tế bằng tòa án”, Luận văn Thạc sỹ Luật học,

-

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
...
Nhóm tài liệu là bài viết trên các tạp chí khoa học luật:

-

Nguyễn Tiến Vinh, “Bàn về việc hoàn thiện các quy định trong
Phần VII Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Nhà

-

nước và Pháp luật, số 5/2003, tr.45-52.
Đỗ Văn Đại, “Tư pháp Quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu
trong lĩnh vực hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số

-

10/2003, tr. 64-71.
...
Nhóm các tài liệu là giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo gồm
có:


-

PGS.TS Nguyễn Bá Diến (2013), “Giáo trình Tư pháp quốc tế”,

-

Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
PGS. TS Nguyễn Bá Diến (2010), “Giáo trình Luật Thương mại

-

quốc tế”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Hoàng Thế Liên (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự

-

năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự

-

năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Tư pháp quốc
tế”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

6


-


Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình Tư pháp quốc

-

tế”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Luật Thương

-

mại quốc tế”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình Tư

-

pháp Quốc tế - Phần riêng, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
...
Tóm lại, đã có rất nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về
xung đột pháp luật, một số vấn đề về quy phạm xung đột và
việc áp dụng quy phạm xung đột trong thực tiễn nhất là trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong tất cả
các công trình nêu trên và theo tác giả được biết thì chưa có
một công trình nào chỉ tập trung nghiên cứu chuyên sâu,
phân tích, đánh giá một cách có hệ thống và tổng thể đối với
quy phạm xung đột về hợp đồng tại Việt Nam dưới góc độ lý
luận và thực tiễn. Và tất cả các công trình nguyên cứu và bài
viết trên mới chỉ nghiên cứu những quy định về giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo
quy định của Bộ luật Dân sự 2005 mà chưa có một đề tài và
bài viết nào viết theo các quy định theo quy định của Bộ luật
Dân sự 2015.

Do đó, đề tài “Giải quyết xung đột pháp luật về hợp
đồng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam” nhằm mục đích
nghiên cứu một cách tổng hợp, khái quát, đánh giá một cách
có hệ thống các quy định giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng có yếu tố nước ngoài của Bộ luật Dân sự 2015.
Cũng như nêu lên cách mà một số quốc gia sử dụng trong
việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố
nước ngoài của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới
từ đó rút ra một số bài học kình nghiệm cho Việt Nam.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.

7


Mục đích nghiên cứu: Phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng
theo Bộ luật dân sự 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định
pháp luật và đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp
luật khi giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố
nước ngoài theo Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, nêu lên bài
học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới khi giải
quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Từ đó, đưa ra một số đề xuất cho Việt Nam nhằm khắc phục
một số vướng mắc khi thi hành
4.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng được nghiên cứu của đề tài là các quy phạm

pháp luật xung đột về hợp đồng có yếu tố nước ngoài chủ yếu
trong Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định pháp luật khác có
liên quan của pháp luật Việt Nam. Cũng như các quy phạm
pháp luật của một số nước khi giải quyết xung đột pháp luật
về hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào phân tích
chủ yếu các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về hợp
đồng có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
5.

Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp phân tích và

tổng hợp, phương pháp luật học so sánh và phương pháp thu
thập thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
Các phương pháp này được sử dụng linh hoạt trong các phần
khác nhau của khóa luận.
Ngoài ra, khóa luận còn được nghiên cứu trên cơ sở xem
xét, so sánh của pháp luật quốc tế và pháp luật các nước

8


trong lĩnh vực giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng.
Khóa luận cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
trong quá trình nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề
tài đặt ra.

6.

Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Khóa luận tốt nghiệp

bao gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp
luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và một số kiến
nghị.

9


Chương 1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát chung về hợp đồng có yếu tố nước
ngoài
1.1.1.Khái niệm hợp đồng và hợp đồng có yếu tố
nước ngoài
Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng là một thuật ngữ được sử sụng rất lâu đời và
được sử dụng một cách rộng rãi hiện nay trong rất nhiều các
lĩnh vực của đời sống xã hội như mua bán hàng hóa, thuê nhà,
chuyển nhượng quyền sủ dụng đất... Ngay từ thời La Mã, các
luật gia đã đặt đã đặt ra những điều kiện cơ bản để hợp đồng

có hiệu lực đó là: phải có ý chí và sự thể hiện ý chí của các
bên tham gia giao dịch; xác định rõ ràng nội dung của hợp
đồng; hành vi, công việc trong hợp đồng phải được thực hiện;
đáp ứng những điều kiện về mặt hình thức nhất định [3, tr.
48]. Mặc dù những quy định này đã có từ rất lâu nhưng cho
đến nay, những điều kiện này vẫn là những điều kiện chính và
cơ bản trong pháp luật hiện hành của nhiều quốc gia trên thế
giới.
Ví dụ: Điều 1011 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều
người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển
giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó”.
Hay tại Điều 1378 Bộ luật Dân sự 1994 của Bang Québec
(Canada) quy định: “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó
một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác” [24, tr. 11].
Như vậy có thể thấy trong Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ
luật Dân sự 1994 của Bang Québec (Canada) đều đưa ra khái
niệm về hợp đồng khá giống nhau và cả hai mới chỉ ra một

10


phần bản chất của hợp đồng đó là sự thỏa thuận và thống
nhất ý chí của các bên mà chưa chỉ ra được hết các dấu hiệu
đặc trưng về hợp đồng [25, tr. 17].
Các quốc gia thuộc hệ thống thông luật (Common law)
như Anh, Hoa Kỳ, Úc, Ấn Độ, định nghĩa về hợp đồng là một
thỏa thuận có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Hợp đồng theo
hệ thống common law được hình thành khi đáp ứng những

điều kiện: có đề nghị giao kết hợp đồng, có sự chấp thuận đối
với đề nghị giao kết hợp đồng, sự bù trừ nghĩa vụ và ý định
thiết lập nghĩa vụ pháp lý. Sự khác biệt của hệ thống luật
Common law là sự bù trừ nghĩa vụ được hiểu là một giá trị nào
đó (có thể là tiền, dịch vụ hoặc một công việc) mà theo đó
mỗi bên nhận được hoặc trao đi hoặc từ bỏ theo thỏa thuận.
Do đó, nếu thiếu sự bù trừ nghĩa vụ nghĩa là một trong các
bên không có nghĩa vụ theo thỏa thuận thì hợp đồng sẽ không
thực hiện được [3, tr. 51].
Ví dụ: Điều 1 -201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa
Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America) quy
định: “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ
sự thỏa thuận của các bên mà nếu một trong các bên vi
phạm những nghĩa vụ này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự
cưỡng chế của pháp luật”. Và trong Bách Khoa toàn thư về
pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự
ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không
làm một việc, giao một vật xác định”. Từ đó có thể thấy định
nghĩa về hợp đồng của pháp luật Hoa Kỳ đã thể hiện rõ được
bản chất và mục đích cơ bản hợp đồng [24, tr. 11].
Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) quy định:
“hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, thể

11


nhân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên
quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… phải

phù hợp với quy định của các luật khác”. Từ quy định này cho
thấy, Định nghĩa về hợp đồng của Trung Quốc có nhiều điểm
giống với khái niệm hợp đồng của luật La Mã nhấn mạnh tới
sự tự do thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên khi giao
kết hợp và khi thỏa thuận các chủ bên bình đẳng trước pháp
luật [24, tr. 29].
Hay tại Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga (1994) quy
định “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ
quy định này có thể thấy, định định nghĩa về hợp đồng của
Nga tương tự như định nghĩa hợp đồng của Trung Quốc nhưng
có tính khái quát và ngắn gọn hơn [25, tr. 19].
Thuật ngữ “hợp đồng” được sử dụng chủ yếu tại Việt
Nam vào giữa thế kỷ 19 trở đi. Trong đời sống thực tế, Việt
Nam thương sử dụng các thuật ngữ thay thế cho thuật ngữ
hợp đồng: giao kèo, cam kết, giao ước, khế ước, văn tự, văn
khế, tờ ưng thuận, …
Tại Việt Nam, khái niệm về hợp đồng lần đầu tiên được
xuất hiện tại Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự năm 1991. Điều 1
Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự năm 1991quy định: “Hợp đồng
dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua
bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không làm
một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một
hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”.
Định nghĩa này đã thể hiện được bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên trong quan hệ
hợp đồng và kết quả của sự thỏa thuận này được coi là căn cứ
để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của


12


các bên. Tuy nhiên, định nghĩa này lại sử dụng phương pháp
liệt kê về các loại hợp đồng nên dễ đến thiếu sót và có khả
năng không điều chỉnh được tất cả các mối quan hệ xã hội có
thể xuất hiện trong tương lai.
Để khắc phục điều những thiếu sót của Pháp lệnh về Hợp
đồng Dân sự năm 1991 thì Bộ luật Dân sự 1995 ra đời và đưa
ra một định nghĩa khác về hợp đồng tại Điều 394 như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định
nghĩa này sự khái quát hóa cao hơn so với Pháp lệnh về Hợp
đồng Dân sự năm 1991 đã bao quát được tất cả các loại hợp
đồng trên thực tế và vẫn được giữ nguyên trong Bộ luật Dân
sự 2005. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy định nghĩa về
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005
hoàn toàn giống với định nghĩa về hợp đồng quy định tại
Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga (1994). Đến Bộ luật
Dân sự 2015 thay vì sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”
như Bộ luật Dân sự 2005 thì chỉ dùng thuật ngữ “hợp đồng”.
Từ đó thể hiện tính khái quát hóa cao hơn so với Bộ luật Dân
sự 2005 như việc thay đổi này cũng không thay đổi bản chất
và ý nghĩa của hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 385 quy định:
“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể kết luận hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nội dung của hợp
đồng là sự thể hiện kết quả của quá trình thương thảo, đàm

phán và thống nhất ý chí giữa các bên với nhau. Tuy nhiên,
những điều khoản thỏa thuận của hợp đồng không được vi
phạm những điều cấm của pháp luật và phải có ít nhất hai
bên chủ thể tham gia trở lên.

13


Hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hợp đồng dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, để hiểu được khái
niệm hợp đồng có yếu tố nước ngoài cần phải làm rõ hai khái
niệm đó là “hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng” và “yếu tố
nước ngoài” [52, tr. 135].
Thứ nhất, hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng. Theo quy
định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Hợp đồng là
sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Trong pháp luật dân sự,
hợp đồng là một chế định quan trọng bởi vì hợp đồng là cơ sở
pháp lý cơ bản và phổ biến trong xác lập các quan hệ dân sự.
Trên thực tế, trong lĩnh vực dân sự có rất nhiều loại hợp đồng
khác nhau như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp thuê nhà, hợp đồng
chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng
hợp tác, hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản,
hợp đồng lao động... Các hợp đồng này được điều chỉnh bởi
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Lao động, Luật Thương mại .... và nhiều văn bản hướng
dẫn khác. Tất cả những hợp đồng này đều được gọi là hợp
đồng dân sự theo nghĩa rộng [53, tr. 408].

Thứ hai, hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong tư pháp
quốc tế, quan hệ hợp đồng được xem là đối tượng điều chỉnh
của ngành luật này khi quan hệ đó xuất hiện dấu hiệu nước
ngoài – dấu hiệu này còn được gọi là “yếu tố nước ngoài”
hoặc “nhân tố nước ngoài” hoặc “yếu tố quốc tế” hoặc “nhân
tố quốc tế”. Các thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau [21,
tr. 234]. Tuy nhiên, trên thực tế khi sử dụng các thuật ngữ này
đôi khi có sự khác nhau. Khi sử dụng thuật ngữ yếu tố nước
ngoài hay nhân tố nước ngoài thì hàm ý quan hệ pháp luật

14


được đặt trong hệ quy chiếu với một quốc gia cụ thể, quốc gia
sở tại. Còn khi sử dụng thuật ngữ yếu tố quốc tế hoặc nhân tố
quốc tế, thì lúc này quan hệ pháp luật được đề cập với một
bối cảnh là sự liên quan tới hơn một quốc gia. Như vậy, mặc
dù việc sử dụng các thuật ngữ có đôi chút khác nhau nhưng
việc dùng thuật ngữ nào cũng thể hiện bản chất của mối quan
hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Theo đó, về xung đột
pháp luật hoặc áp dụng pháp luật nước ngoài được co là
những đặc trưng của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế
[53, tr. 409].
Hiện nay, chưa có một cách hiểu thống nhất chung giữa
các quốc gia về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Bởi mỗi
quốc gia đều xây dựng hệ thống pháp luật về quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài trong đó có hợp đồng để điều chỉnh hợp
đồng có yếu tố nước ngoài và dẫn đến sự không giống nhau
giữa các quốc gia. Điều này có thể bắt nguồn từ việc mỗi quốc
gia hệ thống pháp luật khác nhau do điều kiện, hoàn cảnh

kinh tế khác nhau. Vậy ta có thể xem xét yếu tố nước ngoài
thông qua một số điều nước quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia [53, tr. 410].
Điều 1 Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc tế hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định:
“1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán
hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của
Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp
dụng là luật của nước thành viên Công ước này.

15


2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ
hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời
điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông
tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương
mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng
không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công
ước này”.
Theo quy định của Điều 1 Công ước Viên 1980 thì yếu tố
quốc tế có thể được hiểu là các yếu tố về trụ sở thương mại
của các bên chủ thể liên quan tới hơn một quốc gia hoặc theo
nguyên tắc của tư pháp quốc tế mà luật áp dụng là luật của
các nước thuộc thành viên Công ước.

Theo Công ước La Haye 1955 về thống nhất việc mua
bán hàng hóa quốc tế thì hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ
mang yếu tố nước ngoài nếu các bên tham gia hợp đồng có
trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, khi “hàng hóa trong
hợp đồng được chuyển chở từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh
thổ quốc gia khác, hành vi chào hàng và chấp nhận chào
hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác
nhau và việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một
quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành chào hàng hoặc
hành vi chấp nhận chào hàng” [13]. Từ nội dung quy định tại
Điều 1 của Công ước La Haye 1964 có thể thấy dấu hiệu các
bên chủ thể gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở các quốc gia
khác nhau sẽ là dấu hiệu quốc tế nếu các điều kiện về vận
chuyển hàng hóa, xác lập chào hàng và chấp nhận chào hàng
được đáp ứng theo quy định tại Điều 1 của Công ước này. Nếu
một trong các bên không có trụ sở, thì sẽ áp dụng luật cư trú

16


của họ. Việc áp dụng Công ước không phụ thuộc vào quốc tịch
của các bên [53, tr. 409-410].
Trong Bộ nguyên tắc của Viện Thống nhất tư pháp quốc
tế về hợp đồng thương mại quốc tế (phiên bản 2004) về trụ
sở thương mại của các bên chủ thể của hợp đồng được đặt tại
các quốc gia khác nhau cũng được xem là yếu tố quốc tế của
hợp đồng. Nội dung quy định này khá phù hợp với quy định
của Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế quy định [53, tr. 411].
Điều 1 Quy tắc Roma I quy định “Quy tắc áp dụng cho

nghĩa vụ hợp đồng dân sự và thương mại trong những hoàn
cảnh có xung đột pháp luật”. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của
Quy tắc này là xác định pháp luật điều chỉnh hợp đồng, dân
sự thương mại quốc tế hay có yếu tố nước ngoài nhưng lại
không cho biết hợp đồng có yếu tố nước ngoài cần được hiểu
như thế nào [25, tr. 25-26].
Pháp luật của Pháp cũng không đưa ra một khái niệm
thống nhất về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Hợp đồng có
yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào yếu tố kinh tế thì
hợp đồng này phải liên quan đến lợi ích thương mại quốc tế.
Ví dụ như hợp đồng mua bán giữa một công ty thực phẩm
đông lạnh của Pháp và công ty Anh được coi là hợp đồng có
yếu tố nước ngoài nếu có sự chuyển dịch tài sản ra khỏi phạm
vi lãnh thổ của Pháp [25, tr. 26].
Hệ thống pháp luật Nga cũng không có định nghĩa cụ thể
về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Theo pháp luật Nga, hợp
đồng có yếu tố nước ngoài là hợp đồng căn cứ vào các bên
tham gia hợp đồng là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước
ngoài, căn cứ vào trụ sở kinh doanh của các bên và căn cứ
vào yếu tố điều chỉnh công đối với các giao dịch ngoại thương
[55, tr. 73-74].

17


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, yếu tố “quốc tế”
trong một hợp đồng đã được xác định và ghi nhận trong nhiều
văn bản pháp lí khác nhau. Tuy nhiên các quy định về dấu
hiệu nước ngoài trong quan hệ tư pháp quốc tế làm cơ sở để
xác định quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế nói chung

và trong quan hệ hợp đồng nói riêng, cần xem xét một số quy
định trong Bộ luật Dân sự 2015.
Quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được ghi
nhận tại Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó,
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
“a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân,
pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp
nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp
nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở
nước ngoài.”
Từ quy định này có thể thấy việc xác định các yếu tố
nước ngoài theo Bộ luật Dân sự 2015 dựa trên ba dấu hiệu cơ
bản: Một là, có ít nhất một bên chủ thể là cá nhân, pháp nhân
nước ngoài; Hai là, các bên tham gia hợp đồng đều là công
dân, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập , thay đổi, thực
hiện hoặc chấm dứt quan hệ hợp đồng đó xảy ra ở nước
ngoài; Ba là, các bên tham gia hợp đồng đều là công dân,
pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ hợp đồng
đó ở nước ngoài.
Từ những nội dung trên đây có thể thấy một trong các
tiêu chí để xác định yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt

18


Nam hiện hành là dấu hiệu chủ thể tham gia quan hệ tư pháp

quốc tế. Về mặt lí luận, chủ thể trong tư pháp quốc tế không
chỉ bao gồm cá nhân, pháp nhân mà còn là quốc gia nước
ngoài. Trong quan hệ hợp đồng này, quốc gia là chủ thể đặc
biệt. Quốc gia có thể tham gia các quan hệ hợp đồng có yếu
tố nước ngoài liên quan đến việc mua sắm công, mua sắm
cho Chính phủ. Quốc gia được coi là một chủ thể đặc biệt
trong quan hệ tư pháp quốc tế và trong đó có quan hệ hợp
đồng có yếu tố nước ngoài nói riêng do được phát sinh từ yếu
tố chủ quyền của quốc gia mà không một chủ thể nào khác
của tư pháp quốc tế có được. Theo đó quốc gia được hưởng
quyền miễn trừ tư pháp và điều này được ghi nhận trong hầu
hết các điều ước quốc tế và quyền miễn trừ này cũng được
xác định khi quốc gia là chủ thể trong quan hệ hợp đồng trong
tư pháp quốc tế [53, tr. 414].
Từ những quy định quốc tế và quy định của pháp luật
Việt Nam cũng như lí luận được đề cập trên đây, có thể khái
quát các dấu hiệu nước ngoài trong mối quan hệ hợp đồng
của tư pháp quốc tế được thể hiện ở một số trường hợp sau:
-

Có ít nhất một bên chủ thể của quan hệ hợp đồng là người
nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài, trong trường hợp đặc

-

biệt có thể là quốc gia nước ngoài;
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có nơi cư trú ở các nước
khác nhau, nếu là cá nhân, hoặc có trụ sở thương mại ở các

-


nước khác nhau nếu là pháp nhân;
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng

-

theo pháp luật nước ngoài;
Đối tượng của hợp đồng là tài sản đang tồn tại ở nước ngoài.
Tóm lại, hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài [53, tr. 415].
1.1.2.Nguồn

pháp luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố

nước ngoài

19


Hiện nay, pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới và
các điều ước quốc tế thừa nhận trong quan hệ pháp luật về
hợp đồng nói chung và hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói
riêng thì các bên đều có quyền tự do thỏa thuận và thống
nhất ý chí tất cả các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của bên.
Các thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các bên
trong quan hệ hợp đồng nếu các bên vi phạm các thỏa thuận
trong hợp đồng sẽ có chế tài pháp luật để bảo đảm thi hành.
Tuy nhiên, nội dung của thỏa thuận không được trái với các
quy định của pháp luật. Để được pháp luật công nhận và bảo
đảm thi hành cũng như bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các

bên thì hợp đồng phải được sự điều chỉnh của một hệ thống
pháp luật nhất định. Vì thế, việc xác định pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng là vô cùng cần thiết. Bởi ngoài mục đích để
xác định giá trị pháp lý của hợp đồng còn có ý nghĩa điều
chỉnh những tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình xác
lập, giao kết và thực hiện hợp đồng mà các bên không thể dự
tính hết được khi ký kết hợp đồng. Hơn nữa, điều này rất quan
trọng vì các chủ thể trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài
thường đến từ các quốc gia khác nhau và được sự điều chỉnh
hệ thống pháp luật khác nhau.
Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nước ngoài
bao gồm: pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc
tế, án lệ quốc tế và các nguồn bổ trợ khác trong lĩnh vực hợp
đồng.
Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là nguồn phổ biến và chủ yếu của
quan hệ pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Loại
nguồn này còn được biết đến với tên gọi khác là luật quốc nội
bao gồm hệ thông các văn bản pháp luật do quốc gia ban
hành và các án lệ của quốc gia được hình thành trong quá

20


trình xét xử của Tòa án. Pháp luật quốc gia được coi là nguồn
chủ yếu của quan hệ pháp luật hợp đồng có yếu tố nước
ngoài bởi hai lí do chính. Thứ nhất, quan hệ hợp đồng có yếu
tố nước ngoài thuần túy là các quan hệ dân sự vì vậy các
quốc gia trước tiên sẽ xây dựng những quy định phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia mình để điều chỉnh các

quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Thứ hai, mặc dù điều
ước quốc tế cũng có thể là nguồn điều chỉnh của quan hệ hợp
đồng có yếu tố nước ngoài nhưng việc xây dụng điều ước
quốc tế để điều chỉnh mọi nội dung trong quan hệ pháp luật
hợp đồng có yếu tố nước ngoài là rất khó khăn và không khả
thì thì mỗi một quốc gia sẽ có những điều kiện kinh tế, xã hội
rất khác nhau.
Mặc dù các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài có
thể tự do thỏa thuận lựa chọn hệ thống luật quốc gia của
mình để làm luật điều chỉnh. Nhưng sự thỏa thuận này phải
nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Việc các bên
lựa chọn một hệ thống pháp luật quốc gia để điều chỉnh hợp
đồng nhằm đảm bảo hợp đồng được các bên phù hợp với quy
định của pháp luật và được được pháp luật bảo vệ trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Một trong những văn bản pháp luật
quốc gia điều chỉnh về quan hệ hợp đồng có yếu tố nước
ngoài phải kể đến: Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại
2005, Bộ luật Hàng Hải 2005, Luật Đầu tư 2010... và hàng loạt
các văn bản dưới luật khác.
Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng
Theo công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế
thì: Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng
văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế
điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi
nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hay nhiều văn kiện

21


có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi

cụ thể của những văn kiện đó. Như vậy, điều ước quốc tế là
văn bản pháp lý quốc tế, do các quốc gia và chủ thể khác của
luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, thông
qua các quy phạm gọi là quy phạm điều ước. Điều ước quốc
tế có thể là phổ cập hoặc không phổ cập, toàn cầu hoặc khu
vực, đa phương hoặc song phương.
Bên cạnh pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế cũng là
nguồn quan trọng để điều chỉnh quan hệ pháp luật về hợp
đồng có yếu tố nước ngoài. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các
điều ước quốc tế để điều chỉnh các quan hệ từ hợp đồng có
yếu tố nước ngoài thể hiện sự nỗ lực to lớn của các quốc gia
trong việc thống nhất hóa các quan hệ pháp luật nhằm đơn
giản hóa và hài hòa hóa các quan hệ pháp luật điều chỉnh mối
quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Từ đó góp phần thức
đậy giao lưu dân sự, thương mại quốc tế phát triển.
Điều ước quốc tế thường chia thành hai loại đó là các
điều ước quốc tế song phương và các điều ước quốc tế đa
phương.
Điều ước quốc tế đa phương: Các điều ước quốc tế trong
lĩnh vực hợp đồng thường chứa các quy phạm thực chất thống
nhất (trong những điều ước quốc tế loại này thì một vấn đề
phát sinh từ hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì sẽ có quy định
trực tiếp điều chỉnh) và các quy phạm xung đột (trong đó quy
định các nguyên tắc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng).
Hiện nay có tất nhiều các điều ước quốc tế đa phương để điều
chỉnh các quan hệ pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước
ngoài, trong có thể kể đến như:
-


Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế;

22


-

Công ước Lahaye 1955 về Luật áp dụng đối với các động

-

sản hữu hình;
Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối với các nghĩa vụ

-

theo hợp đồng;
Nghị định (Regulation) số 864/2007 của Liên minh châu Âu
ngày 11/7/2007 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ ngoài

-

hợp đồng (Rome II);
Nghị định (Regulation) số 593/2008 của Liên minh châu Âu
ngày 17/6/2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ của hợp
đồng (Rome I);...
Điều ước quốc tế song phương: Điều ước quốc tế song
phương mà trong đó bao gồm hiệp định tương trợ tư pháp,
bản cam kết thỏa thuận giữa các quốc gia kí kết ... cũng là

một trong những nguồn luật quan trọng trong việc điều chỉnh
quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Việt Nam hiện nay đã
ký kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với nhiều
quốc gia khác trên thế giới để chiều chỉnh các quan hệ pháp
luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong đó có thể kể đến
như:

-

Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự
và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên

-

bang Nga;
Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và
hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

-

nước Cộng hòa nhân dân Hunggari;
Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân

-

chủ nhân dân Lào;
Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước

-


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp;
Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa;

23


-

Hiệp định về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mông
Cổ;....
Tập quán quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng
Bên cạnh pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế
thì tập quán quốc tế cùng là một trong các nguồn quan trong
trọng để điều chỉnh đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Tập quán quốc tế là những quy tắc ứng xử sự được hình thành
từ lâu đời, được sử dụng thường xuyên, liên tực và được các
quốc gia trên thế giới thừa nhận rông rãi. Tập quán quốc tế
xuất hiện chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và hàng hải [53,
tr. 43].
Các quy phạm tập quán phổ biến được áp dụng trong
lĩnh vực thương mại quốc tế và lĩnh vực hợp đồng nói riêng
như: Ví dụ: Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của
UNIDROIT (PICC) do Viện thống nhất về tư pháp quốc tế
UNIDROIT ban hành đưa ra những quy phạm chung nhằm
điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế; Quy tắc về các điều
kiện


thương

mại

quốc

tế

Incorterms

(

international

commerical terms) - Incorterms quy định những điều kiện
thương mại thông dụng nhất trong mua bán hàng hóa quốc tế
như FOB, CIF, EXW, DAP, DAT… nhằm giúp các bên trong mua
bán hàng hóa quốc tế có cách hiểu thống nhất về tập quán
mua bán hàng hóa quốc tế; hay các tập quán và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP – The uniform customs
and practice for documentary credits) của Phòng Thương mại
Quốc tế (ICC)...
Án lệ quốc tế và các nguồn bổ trợ khác trong lĩnh
vực hợp đồng
Bên cạnh các văn bản pháp luật, án lệ quốc tế cũng
được xem là nguồn quan trọng để điều chỉnh các quan hệ

24



pháp luật nói chung và quan hệ tư pháp quốc tế về hợp đồng
nói riêng. Đặc biệt ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Common Law như Hoa Kì, Anh ... mặc dù cũng có hệ thống
pháp luật thành văn để điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng
nhưng án lệ cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh pháp luật và coi là nguồn chủ yếu của pháp luật.
Nguyên tắc chung của án lệ là mọi quy tắc đã được đưa ra
trong một phán quyết của Tòa án trước đó, đều có hiệu lực
ràng buộc đối với các Tòa án cũng cấp và cấp dưới khi xét xử
một vụ việc tương tự. Còn ở các nước theo hệ thống pháp luật
Civil Law như Pháp, Đức, án lệ cũng đang dần được Tòa án sử
dụng thường xuyên hơn cho dù mức độ ảnh hưởng của mỗi
quốc gia là khác nhau.
Ngoài ra, các học thuyết pháp lý, các lý thuyết về tư
pháp quốc tế, sách, tư thưởng, quan điểm của các học giả nổi
tiếng trong lĩnh vực tư pháp quốc tế cũng có sự ảnh hưởng
nhất định đến nền tư pháp quốc tế. Đây được coi là nguồn bổ
trợ của tư pháp quốc tế. Tuy nhiên nguồn này chỉ mang tính
chất tham khảo mà không có tình ràng buộc nhất định.
1.2.

Khái quát chung về giải quyết xung đột pháp luật
về hợp đồng
1.2.1.Khái niệm xung đột pháp luật về hợp đồng
Hiện nay, Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập

về kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Điều đó được thể hiện
bằng việc Việt Nam đã chính thức gia nhập vào một số tổ
chức, diễn đàn và hiệp định thương mại lớn trên thế giới như

ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á); ASEM (Diễn đàn
hợp tác kinh tế Á - Âu); APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương); WTO (Tổ chức thương mại thế giới)...; và
gần đây nhất Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đã cơ bản được ký kết (đầu tháng 10/2015) giữa Việt

25


×