Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phân tích hiệu quả hoạt động tại tổng công ty cổ phần dệt may Hoà Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 99 trang )

1

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả hoạt động là mối quan tâm hàng đầu không chỉ đối với nhà quản trị
bên trong doanh nghiệp mà còn đối với các đối tượng liên quan khác bên ngoài
doanh nghiệp như các cổ đông, các tổ chức tín dụng, khách hàng, nhà cung cấp…
Thông tin về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp giúp nhà quản trị biết được thực
trạng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình, triển vọng phát triển, từ đó có
những quyết định đúng đắn, chính xác, kịp thời trong quá trình điều hành hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các cổ đông, các tổ chức tín dụng, khách
hàng, nhà cung cấp … thông qua việc phân tích hiệu quả hoạt động sẽ biết được khả
năng tài chính, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, khả năng sinh lời cũng như hiệu
quả sử dụng đồng vốn\. cơ hội và khả năng trong tương lai làm cơ sở đưa ra các
quyết định đầu tư hiệu quả nhất.
Như vậy, phân tích hiệu quả hoạt động là công cụ đắc lực giúp nhà quản trị
bên trong cũng như các đối tượng bên ngoài có được các quyết định, giải pháp phù
hợp nhất trong hoạt động của mình
Là doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may TP Đà Nẵng, Tổng công ty cổ phần
dệt may Hòa Thọ thực hiện cổ phần hóa được hơn 3 năm. Đây cũng là khoảng thời
gian xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, hoạt động kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp gắp khó khăn. Tuy nhiên đây cũng là thời điểm thích hợp để các
doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, cải tiến sản xuất.
Để có thể có được các quyết định huy động vốn, cũng như thu hút vốn có hiệu quả
phục vụ cho việc tái cơ cấu sản xuất, đồng thời đánh giá xem hiệu quả của chính
sách cổ phần hóa của doanh nghiệp thì Tổng công ty cổ phần dệt may Hòa Thọ cần
thiết phải tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động. Đó là lý do tác giả chọn đề tài
“Phân tích hiệu quả hoạt động tại Tổng công ty cổ phần dệt may Hòa Thọ”.
2. Mục đích nghiên cứu
* Tổng hợp cơ sở lý luận về phân tích hiệu quả hoạt động trong các công ty cổ
phần.




2

* Phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng công ty cổ phần dệt may
Hòa Thọ giai đoạn 2005-2008.
* Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Tổng
công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hiệu quả hoạt động của Tổng công ty cổ phần dệt may
Hòa Thọ. Hiệu quả hoạt động được xem xét cả hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài
chính.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong giai đoạn 2005-2008 và chia
thành 2 thời kỳ: thời kỳ 2005-2006 là giai đoạn trước khi TCT cổ phần hóa, thời kỳ
2007-2008 là giai đoạn sau CPH, nhằm đánh giá hiệu quả TCT qua 2 giai đoạn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng
Phương pháp phân tích dữ liệu: phương pháp so sánh, phương pháp chi tiết,
phương pháp điều tra, phương pháp phân tích tổng hợp…
5. Những đóng góp của luận văn
- Đề tài đã hệ thống hoá được các lý thuyết liên quan đến hiệu quả hoạt động
của công ty cổ phần.
- Đề tài đã khảo sát, phân tích, đánh giá được hiệu quả hoạt động của giai đoạn
2005-2008, trong đó có thực hiện việc so sánh hiệu quả hoạt động sau cổ phần hóa
với trước kh cổ phần.
- Đề tài đã đưa ra một số biện pháp nhằm năng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động của Tổng công ty trong thời gian đến và rút ra được những bài học sau quá
trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu, luận

văn được trình bày thành 3 chương:


3

Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ
phần

Chương 2: Phân tích hiệu quả hoạt động tại Tổng công ty cổ phần dệt
may Hòa Thọ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng
công ty cổ phần dệt may Hòa Thọ.


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1 . Công ty cổ phần và phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần.
1.1.1. Các khái niệm liên quan.
1.1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần.
Công ty cổ phần được phôi thai từ đầu thế kỷ thứ 15 ở Châu Âu. Đến thế kỷ
thứ 16, dưới sự tác động của chủ nghĩa trọng thương cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của thương mại quốc tế đã hình thành các công ty hoạt động chủ yếu dựa trên
vốn góp cổ phần. Kể từ khi công ty cổ phần đầu tiên được thành lập cách đây hơn
400 năm,hình thức này ngày càng phát triển và đã chứng tỏ được những ưu thế của
nó so với hình thức doanh nghiệp khác.
Vậy Công ty cổ phần là một doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng góp
vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu

trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm
vi phần góp vốn của mình.
1.1.1.2. Khái niệm về hiệu quả.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả được hiểu là các lợi ích kinh tế, xã hội đạt
được từ quá trình hoạt động SXKD. Nói cách khác, bản chất của hiệu quả chính là
kết quả của lao động xã hội, được xác định bằng cách so sánh lượng kết quả hữu ích
cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy, thước đo hiệu quả là
sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hóa kết quả
dựa trên các nguồn lực sẵn có.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế tổng hợp được tạo thành bởi tất
cả các yếu tố của quá trình SXKD, nên cần phải xem xét hiệu quả kinh doanh trên
cả hai mặt đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, trong đó hiệu quả kinh tế có ý
nghĩa quyết định.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực sẵn có của doanh nghiệp về lao động, vật tư, tiền vốn nhằm đạt kết quả cao nhất
với chi phí thấp nhất trong hoạt động SXKD. Hiệu quả kinh tế không những là


5

thước đo trình độ tổ chức quản lý SXKD mà còn là vấn đề sống còn của các doanh
nghiệp.
Hiệu quả xã hội phản ánh những lợi ích mà xã hội đạt được từ quá trình hoạt
động kinh doanh, đó chính là việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ ngày càng tốt hơn
nhằm th thoả nhu cầu vật chất, văn hóa tinh thần cho xã hội.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng và
tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế dễ xác định, có thể đo lường các chỉ tiêu
ở mức độ tổng hợp và cụ thể. Hiệu quả xã hội chỉ có thể đánh giá một cách tương
đối thông qua những biểu hiện của đời sống xã hội trong phạm vi nền kinh tế. Vì
thế, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường chỉ đề cập đến hiệu

quả kinh tế còn hiệu quả xã hội chỉ được kết hợp đánh giá đan xen cùng hiệu quả
kinh tế.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có liên quan đến
nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, nên doanh nghiệp chỉ có
thể đạt hiệu quả cao khi sử dụng hiệu quả các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
kinh doanh.
Bản chất của hiệu quả hoạt động kinh doanh là hiệu quả của lao động xã hội,
được so sánh giữa chất lượng kết quả lợi ích thu được với lượng hao phí lao động
xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả hoạt động kinh doanh là tối đa hoá kết quả hoặc
tối thiểu hoá chi phí trên cơ sở nguồn vốn sẵn có.
Hiệu quả hoạt động chỉ có thể đạt được trên cơ sở nâng cao năng suất lao động
và chất lượng công tác. Để đạt hiệu quả ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi các
nhà kinh doanh không những nắm chắc các tiềm năng tiềm ẩn về vốn, lao động, kỹ
thuật… mà còn nắm vững tình hình cung cầu hoá trên thị trường, đối thủ cạnh
tranh… hiểu được thế mạnh thế yếu của doanh nghiệp để khai thác hết mọi tiềm
năng hiện có, tận dụng được những cơ hội vàng của thị trường, có nghệ thuật kinh
doanh ngày càng phát triển.


6

Về mặt định lượng: bản chất của hiệu quả là kết quả thu được so với chi phí bỏ
ra.
Về mặt định tính: bản chất của hiệu quả thể hiện ở trình độ và năng lực quản lý
ở các khâu, các cấp quản lý thông qua việc nổ lực thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội
gắn liền với nhiệm vụ chính trị.
1.1.2. Quan điểm khi phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần.
Hiệu quả của doanh nghiệp được xem xét một cách tổng thể bao gồm nhiều
hoạt động. Hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính ở doanh nghiệp có mối

quan hệ qua lại nên phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phải xem xét
đầy đủ cả hai hoạt động này. Một doanh nghiệp có thể có hiệu quả kinh doanh cao
nhưng đạt hiệu quả tài chính thấp vì các chính sách tài trợ không thích hợp.
Hoạt động trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp có những hướng chiến
lược phát triển riêng trong từng giai đoạn. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng nhưng
mục tiêu đó luôn gắn liền với mục tiêu thị phần. Do vậy, cần phải xem xét doanh
thu và lợi nhuận là hai yếu tố quan trọng trong đánh giá hiệu quả.
Với những quan điểm trên, chỉ tiêu phân tích chung hiệu quả cơ bản được tính
như sau:
K=

Đầu ra
Đầu vào

Trong đó:

“Đầu ra” bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến giá trị sản xuất,

doanh thu, lợi nhuận…
“Đầu vào” thường bao gồm các yếu tố như vốn chủ sở hữu, tài sản, các
loại tài sản…
Do số liệu để tính toán hiệu quả có thể là số liệu của một thời kỳ hoặc số liệu
tại một thời điểm nên phải có sự phù hợp về thời kỳ giữa số liệu đầu vào và đầu ra.
Nguyên tắc này loại bỏ sự biến động mang tính thời vụ do đặc thù kinh doanh của
từng doanh nghiệp. Trong trường hợp không có số liệu bình quân thì có thể sử dụng
số liệu tại một thời điểm để phân tích. Số bình quân là số trung bình của cả một thời
kỳ, trong một số trường hợp khi phân tích cần phải sử dụng số bình quân thì số liệu


7


tính toán sẽ chính xác hơn. Nếu như số liệu trong một kỳ có sự biến động lớn hoặc
khi tính toán các chỉ tiêu mà có liên quan đến lợi nhuận, doanh thu hay chi phí thì
nên sử dụng số bình quân sẽ chính xác hơn vì số liệu của các chỉ tiêu này liên quan
đến một thời kỳ. Nếu ta sử dụng số thời điểm để tính các chỉ tiêu liên quan đến
doanh thu, chi phí, lợi nhuận thì số liệu không chính xác, ví dụ như tính các tỷ suất:
Hiệu suất sử dụng tài sản, TSCĐ, tỷ suất sinh lời tài sản, tỷ suất sinh lời vốn chủ sở
hữu… Tuy nhiên một số chỉ tiêu ta chỉ cần sử dụng số thời điểm như tỷ suất nợ,
các tỷ suất phân tích cấu trúc vốn… Ưu điểm của việc sử dụng số bình quân trong
phân tích cho ta số liệu tính toán chính xác hơn, nhưng số liệu tính toán nhiều, khó
thu thập. còn việc sử dụng số dư thời điểm thì có ưu điểm là số liệu thu thập dễ, đơn
giản trong tính toán, tuy nhiên độ chính xác không cao.
1.1.3. Ý nghĩa phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần.
Phân tích hiệu quả hoạt động là một trong những khâu quan trọng trong công
tác quản trị doanh nghiệp. Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh, các nhà quản trị cần
phải thường xuyên phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình để phát hiện
kịp thời những mặt mạnh, mặt yếu trong hoạt động của đơn vị từ đó đưa ra các
quyết định kinh doanh thích hợp nhằm đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Phân tích hiệu quả giúp cho công ty nhận thấy được tiềm năng kinh doanh của
mình để trên cơ sở đó có chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm khai thác có hiệu
quả các nguồn lực hiện có để đạt được kết quả cao nhất trong kinh doanh.
Trong quá trình phân tích, kết quả phân tích là cơ sở chính xác nhất giúp cho
nhà quản trị trong công ty có thể xây dựng được các kế hoạch ngắn, trung và dài
hạn cũng như trong việc lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
Ngoài ra phân tích hiệu quả trong công ty cổ phần mà cụ thể là phân tích hiệu
quả tài chính giúp cho công ty có thể thấy trước được những rủi ro có thể xảy ra
trong kinh doanh để có hướng giải quyết hợp lý nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có
thể.



8

Như vậy, phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần trở nên cần thiết
và có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết đối với các nhà quản trị và cổ đông trong
công ty cổ phần.
1.1.4. Đặc điểm của công ty cổ phàn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động.
Công ty cổ phần là một trong những loại hình doanh nghiệp được ưa chuộng
trên thế giới. So với các công ty hợp danh, công ty tư nhân và công ty trách nhiệm
hữu hạn thì hình thức công ty cổ phần có nhiều ưu điểm hơn. Chính điều này nó ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có
đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy
động thêm vốn xã hội vào sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế
quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp; phát huy vai trò làm chủ thực sự
của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với
doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao
động.
Cổ đông của công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã
góp vào công ty. Đây là một ưu điểm làm cho công ty cổ phần rất hấp dẫn các nhà
đầu tư. bởi vì việc đầu tư vào các công ty như vậy ít rủi ro hơn.
Công ty cổ phần có cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả, thích nghi với nền
kinh tế thị trường. Theo luật doanh nghiệp, mô hình tổ chức quản lý công ty cổ
phần thẻ hiện sự phân định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu và
người sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh. Điều này đã tạo thêm động lực và
tính năng động trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp được quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển, phân phối lợi nhuận, sắp
xếp tổ chức sản xuất và bổ nhiệm cán bộ.
Công ty cổ phần đã tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng
cao vai trò làm chủ doanh nghiệp. Chính sách của công ty cổ phần cho phép người
lao động đang làm việc trong doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang công ty cổ

phần trở thành cổ đông. Người lao động - cổ đông là chủ thực sự phần vốn góp của


9

mình, có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp một cách có hiệu quả bằng việc dự
đại hội đồng cổ đông để thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên hội đồng
quản trị và ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh thuộc thẩm quyền đại hội đồng cổ đông như chiến lược kinh doanh, kế
hoạch phát triển dài hạn và hàng năm, tăng giảm vốn điều lệ, đầu tư chiều sâu và
mở rộng sản xuất, phân chia lợi nhuận… Nhờ đó họ nâng cao được tính chủ động, ý
thức kỹ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, góp phần làm
cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một tăng. việc kiểm tra, giám sát
của người lao động - cổ đông và xã hội đối với công ty cổ phần, nhất là những công
ty niêm yết, thực sự có hiệu quả; tài chính của công ty cổ phần được minh bạch,
công khai, cùng với những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cổ
đông nói trên, tạo điều kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp
một cách đầy đủ và khá triệt để.
Công ty cổ phần dễ huy động vốn trong công chúng bằng cách phát hành cổ
phiếu ra thị trường. Đây là hình thức huy động vốn mà các công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty hợp danh không được pháp luật cho phép. Nhờ vấn đề này mà các
công ty cổ phần ít bị hạn chế về vốn kinh doanh (vốn kinh doanh là vấn đề cốt lõi
cần thiết cho bất kỳ một quá trình hoạt động kinh doanh nào). Do vậy, công ty có
thể thực hiện được các dự án kinh doanh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.
Công ty cổ phần là sự tách biệt giữa chủ sở hữu với những người điều hành
công ty. Do vậy, họ thường phải lựa chọn những người có đủ năng lực và kinh
nghiệm chuyên môn thay mình quản lý sản xuất kinh doanh của công ty. Chính vì
vậy hiệu quả kinh doanh cao hơn.
1.2. Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích hiệu quả hoạt động trong công
ty cổ phần.

1.2.1. Nguồn thông tin từ bên trong công ty
Nguồn thông tin bên trong là nguồn thông in từ các báo cáo tài chính và báo
cáo nội bộ của doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính:


10

- Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản của công ty dưới hình thái tiền tệ tại
một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm. Về bản chất
bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản, nguồn vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả. Bảng cân đối kế toán cung cấp những thông tin tổng hợp về tình
hình huy động và sử dụng vốn của công ty.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp cung cấp
thông tin về doanh thu, chi phí tạo ra doanh thu, thu nhập và kết quả kinh doanh của
một kỳ kế toán. Nó là nguồn thông tin quan trọng cho việc xem xét thực trạng tài
chính và đánh giá khả năng sinh lợi của công ty trong thời gian qua cũng như trong
thời gian sắp đến để từ đó có những quyết định phù hợp, cần thiết.
- Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của công ty trong kỳ báo cáo mà
các báo cáo khác không thể trình bày rõ ràng và chi tiết
Các báo cáo chi tiết khác (báo cáo kế toán quản trị):
- Nguồn thông tin sử dụng để phân tích hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần
không chỉ giới hạn trong phạm vi báo cáo tài chính mà còn phải mở rộng sang các
báo cáo chi tiết khác như: bảng chi tiết về lãi lỗ tiêu thụ, tình hình tăng giảm tài sản
cố định của công ty, các tài liệu khác về giá trị sản xuất và số lượng sản phẩm tiêu
thụ.
- Ngoài ra khi phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần ta cần phải

có thông tin về số liệu chi phí lãi vay, chi phí khả biến và bất biến trong các yếu tố
chi phí sản xuất kinh doanh… Tất cả những thông tin số liệu trên cần phải lấy từ các
báo cáo chi tiết tạI công ty.
Thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp:
Mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá hợp lý tình hình sản xuất,


11

nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
Những vấn đề cần quan tâm bao gồm:
Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp: chiến lược tài chính và
chiến lược kinh doanh;
Đặc điểm về qui mô, cơ cấu và chu trình luân chuyển vốn trong các khâu kinh
doanh ở từng loại hình doanh nghiệp;
Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh;
Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp, khách hàng, ngân hàng
và các đối tượng khác;
Các chính sách hoạt động khác.
1.2.2. Nguồn thông tin từ bên ngoài công ty.
Hoạt động kinh doanh của công ty chịu tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi
trường vĩ mô nên khi phân tích cần quan tâm đến những thông tin liên quan đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Đó là những thông tin về sự tăng
trưởng, suy thoái của nền kinh tế, thông tin về tình hình lạm phát, giảm phát; các
chính sách kinh tế chính trị của Nhà nước ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư… Những
thông tin dự báo về nhu cầu thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất kinh
doanh… ảnh hưởng đến chiến lược và sách lược kinh doanh trong từng thời kỳ của
công ty. Kết hợp những thông tin này sẽ đánh giá đầy đủ hơn tình hình hoạt động và
dự báo những nguy cơ, cơ hội đối với hoạt động của công ty.

Các thông tin theo ngành kinh tế:
Sự hoạt động, phát triển của một doanh nghiệp luôn nằm trong mối liên hệ với
các hoạt động chung của ngành. Ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô, nhà
quản lý cần quan tâm đến những thông tin liên quan đến lĩnh vực kinh doanh như:
định hướng phát triển của ngành, mức độ và yêu cầu về công nghệ của ngành, thực
trạng và khả năng tiềm tàng của các đối thủ cạnh tranh, qui mô của thị trường…
1.3. Phương pháp phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần.


12

Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng khi phân tích hiệu quả hoạt
động nói riêng và hiệu quả tài chính nói chung. Tùy thuộc vào điều kiện và mục
địch phân tích, các nhà phân tích có thể vận dụng các phương pháp phân tích thích
hợp. Một số phương pháp chủ yếu được sử dụng là:
1.3.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong phân
tích hoạt động kinh doanh, được dùng để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu
hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
Để tiến hành so sánh được, cần lưu ý các vấn đề cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong quá trình so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
+ Các chỉ tiêu được sử dụng để so sánh phải cùng phản ánh một nội dung kinh
tế.
+ Các chỉ tiêu phải có cùng phương pháp tính toán.
+ Các chỉ tiêu phải được tính theo cùng một đơn vị đo lường.
+ Các chỉ tiêu phải được thu thập ở cùng một phạm vi thời gian và cùng một qui
mô không gian.
Nếu không đảm bảo được các điều kiện trên thì việc so sánh trở nên khập
khiễng, không có giá trị và đôi khi còn phản ánh sai lệch thông tin.
- Thứ hai, phải chọn được tiêu chuẩn so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu

của một kỳ được chọn làm căn cứ để so sánh, gọi là gốc so sánh. Gốc so sánh
thường được xác định theo thời gian và không gian. Tuỳ vào mỗi mục đích phân
tích khác nhau, người phân tích sẽ chọn các gốc so sánh phù hợp.
+ Để đánh giá xu hướng phát triển của các chỉ tiêu: gốc so sánh được chọn là
số liệu kỳ trước hoặc cùng kỳ này năm trước.
+ Để đánh giá tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức: gốc so
sánh được chọn là số liệu kế hoạch, số liệu dự toán, số liệu định mức.


13

+ Để đánh giá kết quả đạt được của DN so với các đơn vị khác: gốc so sánh
được chọn là số liệu của các đơn vị có điều kiện tương đương hoặc số liệu trung
bình ngành...
Kỹ thuật so sánh: Để đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu khác nhau, trong phân
tích người ta thường dùng các kỹ thuật so sánh sau:
So sánh bằng số tuyệt đối: là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ tiêu
kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh biểu hiện khối lượng,
quy mô của các hiện tượng kinh tế.
∆ = Chỉ tiêu kỳ phân tích - Chỉ tiêu kỳ gốc
So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng (giảm) giữa thực tế so với kỳ
gốc của chỉ tiêu phân tích, cũng có khi là tỷ trọng của một hiện tượng kinh tế trong
tổng thể quy mô chung được xác định. Kết quả so sánh biểu hiện kết cấu, mối quan
hệ tỷ lệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng nghiên cứu.

Tỉ Lệ tăng (giảm) của chỉ tiêu

=

(t)

Hay

t

=

Số kỳ phân tích
Số kỳ gốc

Mức tăng (chỉ tiêu
Số kỳ gốc

100%

100%

So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt đối,
biểu hiện tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng nhằm phản ánh đặc điểm chung
của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng một tính chất.
1.3.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích
Các chỉ tiêu kinh tế phản ánh quá trình và kết quả hoạt động kinh doanh
thường đa dạng và phong phú. Để nắm bắt được bản chất và đánh giá chính xác kết
quả đạt được của các chỉ tiêu này, khi tiến hành phân tích, có thể chi tiết các chỉ tiêu
này theo yếu tố cấu thành, theo thời gian, theo không gian.
- Chi tiết các chỉ tiêu theo yếu tố cấu thành sẽ giúp đánh giá được mức độ đạt
được của từng yếu tố ở kỳ phân tích so với kỳ gốc, đánh giá được vai trò mức độ
ảnh hưởng của từng yếu tố đối với tổng thể.


14


- Chi tiết các chỉ tiêu theo thời gian sẽ giúp đánh giá được tiến độ thực hiện,
kết quả đạt được, nhịp độ phát triển, tính thời vụ... trong từng khoảng thời gian nhất
định. Tuỳ theo đặc điểm của hoạt động kinh doanh, mục đích của việc phân tích, nội
dung kinh tế của chỉ tiêu mà có thể chi tiết các chỉ tiêu nghiên cứu theo tháng, quý,
năm...
- Chi tiết các chỉ tiêu theo không gian, sẽ giúp đánh giá được kết quả thực hiện
của từng đơn vị, từng bộ phận, mức độ đóng góp của từng đơn vị, từng bộ phận vào
kết quả chung.
Bằng cách xem xét các chỉ tiêu phân tích dưới các góc độ khác nhau, nhà phân
tích sẽ nắm được tác động của các giải pháp mà DN đã áp dụng trong từng thời
gian, từng địa điểm, là cơ sở để cải tiến các giải pháp cũng như điều kiện vận dụng
từng giải pháp một cách phù hợp, hiệu quả.
1.3.3. Phương pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ là phương pháp được các nhà phân tích sử dụng phổ biến
để đánh giá xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố độc lập đến các chỉ
tiêu phân tích. Theo phương pháp này, để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố
độc lập đối với chỉ tiêu phân tích, nhà phân tích phải loại trừ ảnh hưởng của các
nhân tố còn lại. Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai dạng:
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
* Phương pháp thay thế liên hoàn:
Thay thế liên hoàn là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân
tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu bằng cách thay thế lần lượt (mỗi lần
thay thế một nhân tố) các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị
số của chỉ tiêu nghiên cứu khi trị số của nhân tố thay đổi. Chênh lệch giữa kết quả
thay thế nhân tố lần sau với kết quả thay thế lần trước chính là ảnh hưởng của nhân
tố vừa thay thế đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu. Phương pháp thay thế liên
hoàn được thực hiện qua các bước sau:
+ Xác định chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu.



15

+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu,
các nhân tố này đòi hỏi phải có quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu nghiên cứu dưới dạng
tích số hoặc thương số.
+ Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu
theo trình tự nhất định, từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng.
Lần lượt thay thế giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu nghiên cứu
theo trình tự đã sắp xếp ở bước trên. Sau mỗi lần thay thế trị số của từng nhân tố,
nhà phân tích phải xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố vừa thay thế đến sự biến
động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng bằng cách lấy kết quả thay thế lần sau trừ kết
quả thay thế lần trước. Lần trước của nhân tố đầu tiên chính là so với gốc.
+ Tổng hợp ảnh hưởng của tất cả các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu
nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc. Từ đó, đưa ra các nhận xét, kết luận và
đánh giá sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu cũng như sự ảnh hưởng của từng
nhân tố tác động.
Có thể minh họa các bước trên như sau:
Giả sử có đối tượng nghiên cứu là Q, gọi Q1 là chỉ tiêu kỳ phân tích, Q0 là chỉ
tiêu kỳ gốc. Đối tượng Q chịu ảnh hưởng của bốn nhân tố: a, b, c, d và các nhân tố
này có quan hệ chặt chẽ với Q dưới dạng tích số, thể hiện qua công thức: Q =
a.b.c.d. Trong bốn nhân tố trên, nhân tố a phản ánh số lượng lần lượt đến nhân tố d
phản ánh chất lượng.
Ta có: Chỉ tiêu nghiên cứu kỳ phân tích: Q1 = a1.b1.c1.d1
Chỉ tiêu nghiên cứu kỳ gốc:

Q0 = a0.b0.c0.d0

Thay thế lần 1 (thay thế nhân tố a), ta có mức độ ảnh hưởng của nhân tố a đến
chỉ tiêu Q:


a = a1.b0.c0.d0 - a0.b0.c0.d0

Thay thế lần 2 (thay thế nhân tố b), ta có mức độ ảnh hưởng của nhân tố b đến
chỉ tiêu Q:

b = a1.b1.c0.d0 - a1.b0.c0.d0

Thay thế lần 3 (thay thế nhân tố c), ta có mức độ ảnh hưởng của nhân tố c đến
chỉ tiêu Q:

c = a1.b1.c1.d0 - a1.b1.c0.d0


16

Thay thế lần 4 (thay thế nhân tố d), ta có mức độ ảnh hưởng của nhân tố d đến
chỉ tiêu Q:

d = a1.b1.c1.d1 - a1.b1.c1.d0

Tổng cộng ảnh hưởng của các nhân tố:
Q = Q1-Q0 =a1.b1.c1.d1 - a0.b0.c0.d0 = a + b + c +d
* Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên
hoàn vì thế phương pháp tính số chênh lệch tôn trọng đầy đủ nội dung các bước tiến
hành của phương pháp liên hoàn, chỉ khác nhau ở chỗ: “để xác định mức độ ảnh
hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân tích so với
kỳ gốc của nhân tố đó để xác định”
Giả sử với đối tượng nghiên cứu nghiên cứu Q và các nhân tố ảnh hưởng: a, b,

c, d như phần phương pháp thay thế liên hoàn, ta có: s
a = (a1- a0).b0.c0.d0

b = (b1- b0).a1.c0.d0

c = (c1- c0).a1.b1.d0

d = (d1- d0).a1.b1.c1

 Q = Q1-Q0 = a + b + c + d
1.3.4. Phương pháp liên hệ cân đối
Mọi kết quả đều có liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận... dẫn
đến việc hình thành nhiều mối quan hệ cân đối về lượng giữa hai mặt của các yếu tố
và quá trình kinh doanh như: quan hệ cân đối giữa tổng TS và tổng nguồn hình
thành TS; giữa thu, chi và kết quả; giữa nhu cầu sử dụng vốn với khả năng thanh
toán, giữa số dư đầu kỳ và số phát sinh tăng trong kỳ với số dư cuối kỳ và số phát
sinh giảm trong kỳ của các đối tượng... . Điều này dẫn đến sự cân bằng về mức biến
động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc. Đấy chính là cơ sở của phương pháp liên hệ
cân đối.
Nếu trong phương pháp loại trừ đòi hỏi các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu
nghiên cứu có quan hệ tích số hoặc thương số thì trong phương pháp liên hệ cân đối
mối quan hệ giữa các nhân tố này thể hiện dưới dạng tổng số hoặc hiệu số. Các
nhân tố này đứng độc lập, tách biệt nhau, tác động đồng thời đến sự biến động của


17

chỉ tiêu phân tích. Một sự biến động của từng nhân tố độc lập giữa kỳ phân tích và
kỳ gốc sẽ làm cho chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu thay đổi một lượng tương
ứng mà không cần đặt nhân tố đó trong những điều kiện giả định khác nhau. Do đó,

trong phương pháp liên hệ cân đối không cần thiết phải quy định trật tự sắp xếp của
các nhân tố ảnh hưởng.
Ngoài ra, trong phân tích hiệu quả hoạt động các nhà phân tích còn sử dụng
phương pháp đồ thị để có cái nhìn trực quan về chỉ tiêu phân tích. Kết quả của
phương pháp phân tích này chính là những hình ảnh giúp người sử dụng thông tin
dễ dàng nhận thấy được sự biến động cảu các chỉ tiêu phân tích.
Trên đây là những phương pháp thường được sử dụng khi phân tích hiệu quả
hoạt động của công ty cổ phần. Tuy nhiên, vận dụng phương pháp thích hợp cho
từng nội dung, từng chỉ tiêu phân tích được xem là nghệ thuật của người phân tích.
"Mỗi nhà phân tích bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và khả năng tổ chức dữ liệu khả
năng chẩn đoán và tổng hợp các vấn đề tài chính trong một môi trường "mở" sẽ
đưa ra bức tranh về tài chính doanh nghiệp"(29,t52)
1.4. Nội dung của phân tích hiệu quả hoạt động trong công ty cổ phần.
1.4.1.Phân tích hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng nguồn
nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Đây là một vấn đề hết sực phức tạp có liên quan
đến nhiều yếu tố. nhiều mặt của quá trình hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động …Bởi vậy, khi phân tích
phải kết hợp nhiều chỉ tiêu, như hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh (hiệu
quả cá biệt) và khả năng sinh lời của vốn ( hiệu quả kinh doanh tổng hợp)
1.4.1.1 Phân tích hiệu quả kinh doanh cá biệt
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả của từng yếu tố sản xuất kinh doanh hoặc là từng
bộ phận của sản xuất kinh doanh. Để có thể xem xét đánh giá một cách chính xác
hiệu quả kinh doanh cá biệt, người ta xây dựng các chỉ tiêu chi tiết cho từng yếu tố
của quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở sánh từng loại phương tiện từng nguồn
lực với kết quả đạt được. các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả cá biệt đối với từng loại


18


phương tiện khác nhau thường được sử dụng với nhiều tên gọi như: hiệu suất, hiệu
năng, tỷ suất…
Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Hiệu suất sử dụng tài sản được thể hiện bằng mối quan hệ giữa kết quả đạt
được trên giá trị tài sản của doanh nghiệp. Kết quả đạt được có thể được biểu hiện
bằng nhiều chỉ tiêu như: giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, doanh thu và thu nhập
hoạt động khác…
- Nếu ta chọn kết quả đầu ra là doanh thu và thu nhập hoạt động khác như vậy
ta sẽ có công thức tính hiệu quả sử dụng tài sản như sau:

Hiệu suất sử
dụng tài sản toàn
doanh nghiệp

Doanh thu bán
hàng và cung
cấp dịch vụ

+

Doanh thu
hoạt động
tài chính

Thu
+ nhập
khác

=


Tổng tài sản bình quân

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng tài sản đầu tư tại doanh nghiệp sẽ tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu và thu nhập. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu suất sử dụng tài
sản càng cao.
- Nếu sử dụng chỉ tiêu “ giá trị sản xuất” để thể hiện kết quả, ta sẽ có công thức
sau:
Hiệu suất sử dụng tài sản

=

Giá trị sản xuất

Tổng tài sản bình quân

Chỉ tiêu này thể hiện một đồng tài sản đầu tư tại doanh nghiệp sẽ tạo ra bao
nhiêu đồng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp càng lớn, khả năng tạo ra và cung cấp của cải cho xã hội càng cao
và kéo theo hiệu quả của doanh nghiệp cũng sẽ lớn.
Giá trị
sản
xuất

=

Doanh
thu

±


Chênh lệch
tồn kho thành ±
phẩm

Chênh lệch tồn
kho sản phẩm dở ±
dang

Chênh lệch
tồn hàng gửi
bán

Giá trị nvl
±

nhận gia
công

Phân tích hiệu quả cá biệt cần xem xét đến hiệu suất sử dụng TSCĐ và TSLĐ.


19

Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp
Muốn tiến hành hoạt động kinh doanh nhất thiết đòi hỏi doanh nghiệp phải
trang bị, sử dụng tài sản cố định trong cơ cấu tài sản của mình. Tuy nhiên hiệu quả
sử dụng tài sản cố định cao hay thấp phụ thuộc trực tiếp vào trình độ quản lý và
cách thức sử dụng nó. Ngoài ra hiệu suất sử dụng tài sản cố định còn phụ thuộc
vàngành nghề hoạt động của doanh nghiệp.
Công thức tính hiệu suất sử dụng tài sản cố định như sau:

Doanh thu thuần
=
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu thuần. Trị giá chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ của
doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Tuy nhiên hiệu suất sử dụng TSCĐ của doanh
nghiệp còn phụ thuộc vào từng thời kỳ sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp. Cụ thể
trong giai đoạn doanh nghiệp mới đầu tư mua máy móc thiết bị thì hiệu suất sử
dụng TSCĐ của doanh nghiệp thường cao hơn so với các giai đoạn sử dụng sau, vì
trong khoảng thời gian này máy móc thiết bị còn mới, khả năng hoạt động còn tốt, ít
hư hỏng. Do đó sản phẩm tạo ra phù hợp với tiêu chuẩn sản xuất mà doanh nghiệp
đặt ra. Điều đó tất yếu sẽ làm cho sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp đạt chất
lượng tốt hơn, khả năng tiêu thụ dễ dàng hơn, do đó làm cho hiệu suất sử dụng
TSCĐ của doanh nghiệp cao hơn.
Đối với các doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên, thì chỉ tiêu hiệu suất sử
dụng tài sản cần tính chi tiết theo từng đơn vị để đánh giá chính xác hơn sự ảnh
hưởng về hiệu suất sử dụng tài sản của từng đơn vị đến hiệu suất sử dụng tài sản
của toàn đơn vị nhằm có biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, VLĐ không
ngừng vận động. Nó là một bộ phận vốn có tốc độ lưu chuyển nhanh so với TSCĐ.
VLĐ trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng dệt may chiếm một tỷ


20

trọng đáng kể trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. VLĐ tồn tại chủ yếu
dưới hình thái nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tiền và một số tài sản ngắn hạn
khác. Vốn lớn nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh và dự trữ đảm bảo cho

quá trình sản xuất được tiến hành một cách liên tục, không bị gián đoạn.
Hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp được đánh giá thông qua chỉ tiêu thể hiện
tốc độ luân chuyển vốn lưu động như: số vòng quay bình quân của VLĐ, số vòng
quay hàng tồn kho, số vòng quay khoản phải thu.
Số vòng quay VLĐ
Số vòng quay bình
quân của VLĐ

Doanh thu thuần

=

VLĐ bình quân

VLĐ bình quân
Số ngày b/q của một
vòng quay VLĐ

=

X 360

Doanh thu thuần

Trong đó: VLĐ bình quân được xác định theo công thức bình quân theo thứ tự
thời gian. Trong trường hợp chỉ có số liệu về VLĐ tại hai thời điểm, để việc so sánh
và phân tích có ý nghĩa, có thể không cần sử dụng số bình quân mà phải sử dụng giá
trị tài sản ngắn hạn tại từng thời điểm.
Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của VLĐ trong kỳ phân tích hay một đồng
VLĐ bỏ ra thì đảm nhiệm được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này biểu

hiện trình độ quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, thể hiện rõ nhất ở khâu dự
trữ, tiêu thụ cũng như khâu quản lý các khoản công nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên
chỉ tiêu này cao hay thấp còn phụ thuộc vào tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp, mức độ tăng hay giảm của tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Hiệu suất sử
dụng VLĐ có thể được tính cho từng loại tài sản, từng giai đoạn công việc.
Trong VLĐ thì hàng tồn kho và nợ phải thu luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong
tài sản ngắn hạn. Tốc độ quay vòng của hàng tồn kho nhanh hay chậm có ảnh
hưởng rất lớn đến tốc độ luân chuyển VLĐ. Chính vì vậy, để đánh giá sâu hơn hiệu
suất sử dụng VLĐ ta cần đi sâu phân tích tốc độ luân chuyển hàng tồn kho và tốc độ
luân chuyển nợ phải thu.


21

Số vòng quay hàng tồn kho:
Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho được thể hiện thông qua chỉ tiêu hệ số vòng
quay hàng tồn kho hoặc số ngày luân chuyển hàng tồn kho hay còn gọi là số ngày
tồn đọng hàng tồn kho.
Số vòng quay HTK

Số ngày 1 vòng quay HTK

Giá vốn hàng bán
=

Giá trị hàng tồn kho bình quân
Giá trị hàng tồn kho bình quân
=

Giá vốn hàng bán


x 360

Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho tăng thể hiện công ty hoạt động tốt, việc gia
tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm gia tăng giá vốn hàng bán đồng thời làm
giảm tồn kho. Lượng hàng hóa tồn kho được giải phóng nhanh sẽ rút ngắn thời gian
luân chuyển vốn và tăng khả năng thanh toán của công ty. Tốc độ luân chuyển hàng
tồn kho phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất: Phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do
thời gian luân chuyển tồn kho được tính từ khi công ty mua các yếu tố đầu vào cho
đến khi thành phẩm hàng hóa được tiêu thụ, vì vậy thời gian tồn kho tổng quát bao
gồm ba giai đoạn: thời gian dự trữ yếu tố đầu vào cho sản xuất, thời gian sản xuất
và thời gian dự trữ thành phẩm hàng hóa trong khâu tiêu thụ. Nếu sản phẩm của
doanh nghiệp cần thời gian sản xuất dài thì tồn kho sẽ dài.
Thứ hai: Phụ thuộc vào trình độ quản lý tồn kho của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp tổ chức tốt quy trình sản xuất, có kế hoạch quản lý tồn kho chặt chẽ sẽ giảm
được tồn kho bình quân và rút ngắn được thời gian tồn kho.
Thứ ba: Phụ thuộc vào rủi ro do thành phẩm h hóa bị ứ đọng và tiêu thụ chậm
hoặc không bán được. Khi doanh nghiệp dự báo không đúng về nhu cầu sản phẩm
có thể dẫn đến tình trạng thành phẩm sản xuất ra không bán được sẽ làm tồn kho ứ
đọng, số ngày hàng tồn đọng kéo dài. Rủi ro này cói thể làm vốn công ty bị két
trong hàng tồn kho, khả năng thanh toán bị ảnh hưởng và phát sinh các khoản lỗ do
phải giảm giá, thanh lý hàng tồn kho.


22

Số vòng quay các khoản phải thu
Số vòng quay khoản phải thu dùng để đo lường tính thanh khoản ngắn hạn
cũng như hiệu quả hoạt động của công ty. Nó được dùng để đo lường hiệu quả và

chất lượng quản lý khoản phải thu. Nó cho biết bình quân mất bao nhiêu ngày để
công ty thu hồi khoản phải thu.
Số vòng quay khoản
=
phải thu

Doanh thu thuần bán chịu + thuế gtgt đầu ra tương ứng
Số dư bình quân các khoản phải thu

Có nhiều quan điểm của các nhà khoa học kinh tế đổi với tủ số của công thức
trên. Theo PGS.TS Phạm Văn Dược tử số này là doanh thu thuần (13,t362). Theo
tác giả Nguyễn Tấn Bình "tử số này chính xác là doanh thu bán chịu, nhưng không
phải lúc nào cũng xác định được dữ liệu này vì vậy, đa số các trường hợp ta có thể
dùng doanh thu"(4,t508). Theo PGS.TS Nguyễn Văn Công tử số của chỉ tiêu trên
phải là tổng số tiền hàng bán chịu" (6,t486).
Số vòng quay khoản phải thu có thể chuyển đổi thành công thức dựa theo thời
gian được gọi là kỳ thu tiền bình quân hay tuổi nợ bình quân hay số ngày một vòng
quay khoản phải thu.
Số ngày 1 vòng
=
quay khoản phải thu

Số dư nợ bình quân các khoản phải thu

x 360

Doanh thu thuần bán chịu + thuế gtgt đầu ra tương ứng

Vòng quay khoản phải thu cao cho biết khả năng thu hồi nợ tốt, nhưng chính
sách bán chịu nghiêm ngặt có thể làm giảm doanh thu và lợi nhuận. Vòng quay

khoản phải thu thấp cho biết chính sách bán chịu không hiệu quả, có nhiều rủi ro.
Kỳ thu tiền bình quân cho biết bình quân mất bao nhiêu ngày cho một khoản
phải thu. Vòng quay khoản phải thu càng cao thì kỳ thu tiền bình quân càng thấp và
ngược lại
Kỳ thu tiền bình quân phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất: Phụ thuộc vào thời gian bán chịu và chiết khấu thanh toán (chính
sách bán chịu). Nếu công ty có chủ trương nới lỏng chính sách tín dụng thương mại
nhằm mục đích gia tăng doanh thu thì công ty sẽ giảm tỷ lệ chiết khấu thanh toán và


23

tăng thời gian bán chịu thoả thuận với khách hàng. Kết quả khoản phải thu sẽ tăng
và thời gian tồn đọng khoản phải thu sẽ kéo dài.
Thứ hai: Phụ thuộc vào phương pháp đánh giá và lựa chọn khách hàng bán trả
chậm của công ty (chính sách bán chịu). Chính sách bán chịu nới lỏng cũng nhằm
mục đích gia tăng doanh thu. Khi công ty nới lỏng chính sách bán chịu nghĩa là
công ty sẽ giảm những tiêu chuẩn trong việc chấp nhận bán chịu cho khách hàng.
Kết quả của chính sách bán chịu nới lỏng sẽ làm gia tăng doanh thu bán chịu và làm
tăng số ngày thu tiền bán hàng trung bình.
Thứ ba: Phụ thuộc vào chất lượng của công tác theo dõi thu hồi công nợ của
công ty. Nếu công ty tổ chức tốt công tác theo dõi đôn dốc khách hàng trả nợ sẽ góp
phần làm giảm thời gian khách hàng chiếm dụng vốn ngoài kế hoạch, đảm bào thu
tiền đúng hạn theo hợp đồng bán hàng.
Thứ tư: Những rủi ro về phía khách hàng. Khi công ty chấp nhận bán chịu và
mở rộng chính sách bán chịu có nghĩa là công ty đã chấp nhận rủi ro và tổn thất do
nợ khó đòi. Rủi ro tổn thất nợ khó đòi càng lớn khi chính sách tín dụng thương mại
càng nới lỏng. Khi tỷ lệ các khoản nợ khó đòi càng tăng sẽ làm tăng số ngày tồn
dọng khoản phải thu và từ đó làm gia tăng số ngày thu tiền bán hàng trung bình.
1.4.1.2. Phân tích hiệu quả kinh doanh tổng hợp

Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh của từng loại nguồn lực, doanh
nghiệp cần phân tích và đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Hiệu quả kinh
doanh tổng hợp chính là khả năng sử dụng một cách tổng hợp các nguồn lực để tạo
ra kết quả trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Để có thể nhận định một cách tổng
quát và xem xét hiệu quả kinh doanh tổng hợp người ta thường dựa vào các chỉ tiêu
phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp, cụ thể là phân tích khả năng sinh lời
từ các hoạt động của doanh nghiệp và phân tích khả năng sinh lời tài sản.
Phân tích khả năng sinh lời từ các hoạt động của doanh nghiệp
Chỉ tiêu khả năng sinh lời là điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. được đo lường bằng tỷ số giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu kết quả
hoặc giữa lợi nhuận với phương tiện của doanh nghiệp. Chỉ tiêu tổng quát:


24

K=

LợI nhuận

Nguồn lực kinh doanh
Để phân tích khả năng sinh lời từ các hoạt động ta sử dụng các chỉ tiêu:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần
Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kết quả của doanh nghiệp,
một bên là lợi nhuận, một bên là khối lượng cung cấp cho xã hội như giá trị sản
xuất, doanh thu. Đây là hai yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, doanh thu chỉ kết
quả, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường còn lợi nhuận thể hiện chất lượng, hiệu
quả mà doanh nghiệp đã đạt được.
Công thức được xác định như sau:
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ suất lợi nhuận /DTT

Doanh thu thuần

x 100%

Lợi nhuận trong công thức này có thể là lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau
thuế, lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Tuy nhiên vì tỷ suất thuế thu nhập doanh
nghiệp là không giống nhau đối với từng mặt hàng, từng lĩnh vực kinh doanh nên để
phản ánh đúng khả năng sinh lời của doanh nghiệp cần sử dụng lợi nhuận trước
thuế.
Doanh thu thuần bao gồm: doanh thu thuần từ hoạt động bán hàng và cung cấp
dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thuần thuần có bao nhiêu đồng
lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận trước thuế chiếm bao nhiêu phần trăm trong
doanh thu. Trị giá của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp càng lớn, đồng thời còn cho biết ngành hàng có tỷ suất lợi nhuận cao và chỉ
rõ năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận và năng lực cạnh tranh.
Chỉ tiêu này được sử dụng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau.
Khi đánh giá chỉ tiêu này cần xem xét đến đặc điểm, ngành nghề kinh doanh,
chiến lược hoạt động và cả chính sách định giá của doanh nghiệp.


25

Lợi nhuận trong công thức trên là lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động khác. Tuy nhiên, sức sinh lợi của mỗi hoạt động là khác nhau do
đó việc tính toán theo công thức trên không nhận thấy được sinh sinh lợi từ hoạt
động chính của doanh nghiệp là hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy cần phải
tính riêng khả năng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần hoạt động kinh doanh.
Tỷ suất này được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí và

lợi nhuận trong lĩnh vực kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận /DTT
hoạt động kinh doanh

Lợi nhuận thuần từ hoạt động
x 100%

=

Doanh thu thuần bán hàng +
doanh thu hoạt động tài chính
Tỷ suất này phản ánh mức sinh lãi của một đồng doanh thu khi tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá. Trị giá của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh
càng lớn. Đối với doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đơn vị
thành viên thì ngoài việc tính toán chỉ tiêu này trong toàn doanh nghiệp thì cần tính
riêng cho từng nhóm ngành kinh doanh, từng đơn vị thành viên để có thể đánh giá
toàn diện hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Để tách bỏ sự tác động của hiệu
quả hoạt động tài chính đi đến đánh giá khả năng sinh lời chủ yếu của doanh nghiệp
là khả năng sinh lời từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ ta dùng chỉ tiêu: tỷ suất
lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ.
TỶ SUẤT LỢI NHUẬN GỘP VỀ BÁN HÀNG VÀ CUNG CẤP DỊCH

Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ là khoản chênh lệch giữa
doanh thu thuần và giá vốn, tức là tỷ suất này không tính đến chi phí kinh doanh.
thường ở các doanh nghiệp doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ chiếm tỷ trọng
chủ yếu trong ba khoản doanh thu nên tỷ suất lợi nhuận gộp này biến động sẽ là
nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động.

Tỷ suất lợi nhuận gộp về bán
=

hàng và cung cấp dịch vụ

Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung
cấp dịch vụ

Doanh thu thuần bán hàng và
cung cấp dịch vụ

x 100%


×