Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tư tương đạo đức về người cầm quyền của Nho giáo với việc xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo Đà nẵng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.22 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN HUY HỢI

TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN
CỦA NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN HUY HỢI

TƯ TƯỞNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN
CỦA NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC ÁNH



Đà Nẵng - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Huy Hợi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 3
5. Bố cục đề tài.......................................................................................... 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................... 4

CHƯƠNG 1. NHO GIÁO VÀ QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ
ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN....................................................... 8
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG CỦA NHO GIÁO
VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN .................................................. 8
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển .................................................. 8
1.1.2. Tư tưởng cơ bản của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền...... 11


1.2. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM
QUYỀN TRONG NHO GIÁO ĐỐI VỚI TẦNG LỚP QUAN LẠI VÀ
NHO SỸ TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM ...................... 30
1.2.1. Quá trình du nhập và phát triển Nho giáo ở Việt Nam................. 30
1.2.2. Ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về đạo đức người cầm quyền
đến tầng lớp quan lại và Nho sỹ trong xã hội phong kiến Việt Nam ..... 35

CHƯƠNG 2. ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG VÀ ĐẠO
ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY..... 47
2.1. ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ CÁCH MẠNG..................... 47
2.1.1. Vai trò của đạo đức cách mạng đối với người cách mạng và sự
nghiệp cách mạng ................................................................................... 47


2.1.2. Những chuẩn mực đạo đức của người cách mạng ...................... 52

2.2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ
NẴNG HIỆN NAY ................................................................................ 58
2.2.1. Khái quát đôi nét về Đà Nẵng....................................................... 58
2.2.2. Vai trò của việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo ở Đà
Nẵng hiện nay ......................................................................................... 60
2.2.3. Thực trạng đạo đức người cán bộ lãnh đạo ở Đà Nẵng................ 62

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ....... 70
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY............................. 75
3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC GIẢI PHÁP...................................... 75
3.1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................. 75
3.1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................. 78


3.2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN CỦA NHO GIÁO .................. 81
3.2.1. Đặt vấn đề kế thừa quan điểm về đạo đức người cầm quyền của
Nho giáo với vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài ................... 81
3.2.2. Phải có cách nhìn biện chứng về kế thừa các giá trị tích cực, hạn
chế tiêu cực của quan niệm Nho giáo về đạo đức người cầm quyền...... 83
3.2.3. Có quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc lựa chọn các giá trị tích
cực về quan niệm đạo đức người cầm quyền của Nho giáo ................... 84
3.2.4. Phải nâng các giá trị đạo đức người cầm quyền của Nho giáo lên
trình độ hiện đại ...................................................................................... 85

3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO
ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY....... 86


3.3.1. Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, phải
gương mẫu về đạo đức, là tấm gương cho cấp dưới noi theo................. 86
3.3.2. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng
phí đối với cán bộ lãnh đạo quản lý ........................................................ 89
3.3.3. Kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật đối với đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý........................................................................... 91
3.3.4. Nâng cao tính tự giác, thường xuyên học tập, rèn luyện theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh .................................................................. 93
3.3.5. Kế thừa quan điểm “tu thân”, đề cao tính liêm sĩ, thường xuyên tự
kiểm điểm, tự phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo .......................... 96
3.3.6. Tăng cường lãnh đạo, giám sát của các cấp ủy Đảng, các đoàn thể
và nhân dân đối với công tác cán bộ....................................................... 98
3.3.7. Một số kiến nghị cụ thể................................................................. 99


KẾT LUẬN .......................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Hoa có lịch sử văn hóa lâu đời, là chiếc nôi của nền văn minh
phương Đông và nó còn hàm chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn, độc đáo và hữu
ích. Nơi đây đã sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến
nền văn minh nhân loại, trong số đó phải kể đến trường phái triết học Nho
giáo. Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng rất lâu đời và sâu sắc của nền
văn hoá Trung Hoa cổ đại. Đặc biệt là quan niệm của Nho giáo về đạo đức
nói chung, về đạo đức của người cầm quyền nói riêng. Luồng tư tưởng ấy đã
được sử dụng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng xã hội thời kỳ phong kiến.
Đến hôm nay, nó vẫn còn tồn tại hiện hữu và tiếp tục tác động trên nhiều mặt
của đời sống xã hội.
Bước vào công cuộc toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và thực hiện thể chế
kinh tế thị trường, nước ta đang có bước chuyển mình quan trọng. Chúng ta
đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân từng bước được nâng cao. Song chúng ta cũng đang phải đối
mặt với một thực trạng đáng lo ngại về mặt đạo đức xã hội. Sự xuống cấp về
đạo đức không những ở trong nhân dân mà còn ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ lãnh đạo, đảng viên. Đảng ta đã nhận định rằng: “Tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”

[35, tr. 173]. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa XI cũng đã nhận xét: “Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với


2
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc” [8, tr.19]. Điều đó làm giảm uy
tín của Đảng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân.
Đà Nẵng là một thành phố tương đối trẻ, có một vị trí quan trọng của
khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đà Nẵng đang từng bước trở thành một
thành phố công nghiệp và năng động bậc nhất của cả nước. Để có sự thành
công đó phải kể tới sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ lãnh đạo, quản lý.
Ngày nay, đội ngũ lãnh đạo, quản lý của Đà Nẵng đang có được những điều
kiện thuận lợi để phấn đấu, rèn luyện, cống hiến trí tuệ và sức lực của mình
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của thành phố. Nhưng họ cũng đứng
trước những thử thách đòi hỏi phải có bản lĩnh, có tâm thế vững vàng và có
được những hành trang cần thiết để đóng góp vào sự phát triển của thành phố
và cả nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
Việc xây dựng đạo đức cho người cán bộ lãnh đạo ở Đà Nẵng hiện nay
vừa là một nhu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ quan trọng của công tác cán bộ.
Bởi lẽ nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ là góp phần không nhỏ vào sự
nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên nhiều lĩnh vực như chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức cách mạng… Do đó, việc kế thừa những
yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với thực tiễn của cách
mạng nước ta để xây dựng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo Đà Nẵng là vấn
đề mang ý nghĩa cấp thiết. Việc chọn đề tài: “Tư tưởng về đạo đức người

cầm quyền của Nho giáo với việc xây dựng đạo đức cán bộ lãnh đạo ở Đà
Nẵng hiện nay” cho luận văn thạc sỹ là mục đích của tác giả muốn góp một
phần nhỏ về phương diện lý luận cho thực tiễn xây dựng và hoàn thiện công
tác cán bộ của Đà Nẵng hiện nay.


3
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm
quyền và thực trạng đạo đức người cán bộ lãnh đạo ở Đà Nẵng, luận văn đề
xuất các giải pháp để vận dụng những giá trị tích cực của quan niệm Nho giáo
về đạo đức người cầm quyền vào việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh
đạo ở Đà Nẵng giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Luận văn nghiên cứu, làm rõ những quan điểm của Nho giáo về đạo đức
người cầm quyền.
- Luận văn phân tích thực trạng đạo đức người cán bộ lãnh đạo ở Đà
Nẵng hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để phát huy những mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của quan niệm Nho giáo về đạo đức người cầm quyền với
việc xây dựng đạo đức cho người cán bộ lãnh đạo ở Đà Nẵng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quan niệm
của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu một số giá trị tích cực trong quan niệm của Nho
giáo về đạo đức người cầm quyền và trên cơ sở đó phát huy những giá trị tích
cực của nó vào việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính quyền ở
Đà Nẵng hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Lịch sử - lô gíc,
phân tích - tổng hợp, qui nạp - diễn dịch, đối chiếu, so sánh... Nhưng phương
pháp xuyên suốt của cả đề tài vẫn là phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.


4
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1. Nho giáo và quan niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm
quyền.
Chương 2. Đạo đức người cán bộ cách mạng và đạo đức người cán bộ
lãnh đạo ở Đà Nẵng hiện nay.
Chương 3. Các giải pháp xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo ở Đà
Nẵng hiện nay.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trung Quốc là quê hương của những tư tưởng đặc sắc, uyên thâm và bí
ẩn mà cho đến nay, nhân loại vẫn đầy ngưỡng mộ và khâm phục. Vì vậy, vấn
đề văn hóa Trung Hoa cổ đại nói chung, triết lý Nho giáo nói riêng đã thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở
Việt Nam. Các công trình nghiên cứu có thể theo những phương diện khác
nhau. Nhưng chúng ta có thể phân định thành một số nhóm vấn đề sau đây:
Nhóm thứ nhất, đi sâu luận giải nguồn gốc, nội dung và những yêu cầu
đạo đức của Nho giáo, để từ đó thấy được sự ảnh hưởng của Nho giáo ở nước
ta. Nội dung trên được đăng tải ở các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Cộng
sản, tạp chí Nghiên cứu lý luận, tạp chí Triết học hay trong các sách chuyên
luận như “Nho giáo” của Trần Trọng Kim;“Khổng học đăng” của Phan Bội
Châu đã phân tích những tư tưởng cơ bản trong quá trình hình thành và phát

triển của Nho giáo. Các tác giả đều đề cao những nhân tố tích cực của Nho
giáo và cho rằng đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo
đức con người và ổn định trật tự xã hội. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện,
trong cuốn“Bàn về đạo Nho” đã nêu những mặt tích cực cũng như hạn chế


5
của Nho giáo; bàn về những điều tâm đắc của mình khi nghiên cứu, đánh giá
cao đạo làm người và vấn đề đối nhân xử thế của Nho giáo.
Nhóm thứ hai, đã có quan điểm trái ngược với nhóm trên khi đối lập với
xu hướng ca ngợi mặt tích cực của Nho giáo. Một số công trình như “Nho
giáo xưa và nay” của Quang Đạm,“Nho giáo tại Việt Nam” của Lê Sỹ
Thắng,... đều đề cập đến nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo như Tam
cương, Ngũ thường, Ngũ luân... Mặc dù, có những lập luận và kiến giải khác
nhau. Nhưng nhìn chung, các tác giả phê phán đạo đức Nho giáo là khắt khe,
trói buộc con người đặc biệt đối với phụ nữ. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã
đặt vấn đề kế thừa một số mặt tích cực của đạo đức Nho giáo. Tác giả Đào
Duy Anh đã viết “Khổng giáo phê bình tiểu luận” cho rằng để đánh giá đúng
Nho giáo cần có thái độ khách quan, khoa học. Ông phê phán một số trí thức
Trung Quốc và Việt Nam đã phủ nhận hoàn toàn vai trò của Nho giáo, cho
rằng nó là vô dụng. Ông đã nghiên cứu, phân tích nội dung cơ bản của Nho
giáo và đã đưa ra nhận định đúng mức về vai trò của Nho giáo “dẫu nó không
thích hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong
lịch sử, không ai có thể chối cãi hay xoá bỏ đi được” [1, tr. 150].
Nhóm thứ ba, xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước chịu ảnh hưởng
của Nho giáo nhưng vẫn đạt được một số kết quả khả quan về ổn định xã hội
và phát triển kinh tế do biết phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam và nêu
rõ ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực đạo đức, chính trị, xã hội, văn hoá,
giáo dục... Liên quan đến vấn đề này có các tác giả như Vũ Khiêu với “Nho

giáo và đạo đức”;“Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam”, Nguyễn Tài Thư
với “Nho học và Nho học ở Việt Nam: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Nguyễn Đăng Duy với “Nho giáo với văn hoá Việt Nam”, Nguyễn Hùng Hậu
với “Triết lý trong văn hoá phương Đông”,... Bên cạnh việc phê phán những


6
ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng,
các tác giả còn đặt ra vấn đề kế thừa và phát triển những giá trị tích cực của
nó nhằm khắc phục những mặt tiêu cực, góp phần xây dựng đạo đức mới ở
nước ta hiện nay. Nghiên cứu về đạo đức cán bộ, về ảnh hưởng của đạo đức
phong kiến đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam hiện nay được thể
hiện ở một số công trình của các tác giả như Trần Phúc Thăng, Nguyễn Thế
Kiệt, Trần Sỹ Dương trong “Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ
lãnh đạo, quản lý của Việt Nam hiện nay”. Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003
của Viện Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:“Đạo đức người
cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay - thực trạng và xu hướng biến động” do PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt làm
chủ nhiệm đã tập trung làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đạo đức
người cán bộ lãnh đạo chính trị nước ta hiện nay, đưa ra phương hướng và
những giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chính trị theo nội dung và yêu cầu về đạo đức của đội ngũ này.
Nhóm thứ tư, là các luận án tiến sỹ cũng đề cập đến một số khía cạnh
của Nho giáo về con người và đạo đức, sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam như
luận án “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư; luận
án “Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền
thống” của Trần Thị Hồng Thuý; luận án“Một số nội dung cơ bản của tư
tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần” của Vũ Văn Vinh; luận án“Quan niệm
của Nho giáo nguyên thuỷ về con người qua các quan hệ: thân, nhà, nước,
thiên hạ” của Trần Đình Thảo; luận án“Quan niệm của Nho giáo về giáo dục

con người và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Nguyễn Thị Nga đã nghiên cứu
tìm hiểu những nội dung như đối tượng giáo dục, tính người, phương pháp
giáo dục của Nho giáo để vận dụng vào giáo dục con người Việt Nam hiện


7
nay; luận án của Nguyễn Thanh Bình với đề tài“Học thuyết chính trị xã hội
của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế
kỷ XIX)” đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị xã hội.
Tác giả đã bàn đến những vấn đề của Nho giáo như con người, vai trò của con
người, xã hội lý tưởng, đề cập đến nhân, lễ, chính danh, những chuẩn mực
đạo đức dưới cái nhìn ở góc độ chính trị - xã hội.
Ngoài ra liên quan đến đề tài luận văn còn có nhiều luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ triết học, các bài viết trên các tạp chí gần đây bàn về Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam như:“Truyền thống Nho giáo và việc xây dựng
con người trong giai đoạn mới” của GS Nguyễn Tài Thư;“Từ quan niệm
phẩm chất kẻ trị dân của Khổng Mạnh đến tư tưởng về đạo đức người cán bộ
cách mạng của Hồ Chí Minh” của PGS.TS Nguyễn Thị Nga;“Thuyết Đức trị
của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó với phương thức quản lý xã hội ở Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Quốc Đoàn;“Bàn thêm tư tưởng về Nhân của
Khổng Tử qua Luận Ngữ” của Trần Ngọc Ánh;“Đường lối đức trị của Nho
giáo - Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử” của Nguyễn Thị Kim Bình…
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của
thành phố Đà Nẵng đã có các bài viết nghiên cứu như:“Công tác cán bộ trẻ
của Thành ủy Đà Nẵng” của Lê Văn Ri;“Đà Nẵng - Đột phá về công tác cán
bộ” của Anh Quân;“Công tác cán bộ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Thành phố Đà Nẵng” của Đặng Công Ngữ,“Đà Nẵng nâng cao hiệu
quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Trần Thọ,…
Qua các công trình nghiên cứu nêu trên, chúng ta thấy các nhà khoa học

đã có nhiều đóng góp quý giá trong việc khẳng định những giá trị to lớn của
Nho giáo; những ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam. Do đó, góp phần làm
cơ sở cho các công trình nghiên cứu tiếp tục sau này và cũng là cơ sở khoa
học cho việc nghiên cứu của luận văn này.


8
CHƯƠNG 1

NHO GIÁO VÀ QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO
VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG CỦA NHO GIÁO
VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Nho giáo là một trong những học thuyết có sức sống mãnh liệt và lâu dài
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Nó đã vượt qua nhiều thử thách của
không gian và thời gian để trường tồn cho đến tận ngày nay. Những tư tưởng
của Nho giáo đã được cả thế giới quan tâm nghiên cứu. Hệ tư tưởng Nho giáo
là hệ tư tưởng thống trị xã hội phong kiến Trung Quốc trong hầu hết các giai
đoạn phát triển của quốc gia phong kiến này. Nho giáo xuất hiện vào khoảng
thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Trong quá trình tồn tại và phát triển, từ nhà
Hán đến nhà Thanh, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị xã hội.
Nho giáo nguyên thủy hay còn gọi Nho giáo thời kỳ “Khổng - Mạnh”.
Nho giáo được Khổng Tử lập ra thời Xuân Thu. Học thuyết của ông được
Mạnh Tử và Tuân Tử tiếp tục hoàn thiện ở thời Chiến Quốc và nó chỉ thực sự
trở thành tư tưởng thống trị phải kể từ Đổng Trọng Thư trở đi. Khổng Tử
được các học trò tôn xưng là bậc “chí thánh tiên sư, vạn thế sư biểu”. Mạnh
Tử cũng được tôn xưng là bậc “nhị thánh” của Nho giáo. Trãi qua nhiều nỗ
lực của giai cấp thống trị và sĩ phu thời Hán, tư tưởng Nho gia của Khổng Tử
mới trở thành tư tưởng chính thống cho nhà nước phong kiến Trung Hoa. Từ

đây, “tư tưởng Khổng - Mạnh” mới hình thành nên hai khái niệm Nho giáo và
Nho gia. Nho gia mang tính học thuật. Còn Nho giáo ít nhiều có tính chất tôn
giáo. Ở Nho giáo, văn miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành
giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.


9
Trong giai đoạn Hán nho, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống
bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt 2000 năm. Vào đời Hán, Đại
học và Trung dung được gộp vào Lễ ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên làm
quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Vì vậy,
Nho giáo thời kỳ này còn được gọi là Hán nho. Điểm khác biệt so với Nho
giáo nguyên thủy là Hán nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên
Tử là con trời, thực hiện dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”. Nho giáo truyền
đến cuối đời Đông Hán, bề ngoài thì rất thịnh mà bên trong thì thật là suy.
Các học giả chỉ chăm chú về lối chương cú, chia ra chi nọ phái kia. Mỗi phái
học theo một lối, rồi cãi nhau về nghĩa từng câu, từng chữ.
Trong giai đoạn Tống nho, các nhà vua rất sùng bái Nho học vì thế
Khổng Tử và Mạnh Tử rất được tôn trọng. Vào đời nhà Tống, Đại học và
Trung dung được tách ra khỏi Lễ ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo
nên bộ Tứ Thư. Từ đó, Tứ thư và Ngũ kinh là sách gối đầu giường của các
nhà Nho. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Tống Nho, với các tên tuổi như
Chu Hy, Trình Hạo và Trình Di. Trong giai đoạn Tống Nho, Nho giáo cũng
được chia thành nhiều phái khác nhau. Trong khi về đường học vấn có phái lý
học phát triển thì về đường chính trị chia làm hai phái là Tân Đảng và Cựu
Đảng. Hai bên đều lấy cái chủ nghĩa Nho giáo mà công kích nhau kịch liệt.
Tân Đảng thì muốn theo thời mà sửa đổi, nhằm cho binh cường nước mạnh.
Cựu Đảng thì cho rằng việc trị nước cần theo chế độ đời trước, cốt làm cho
dân chúng được an cư lạc nghiệp. Hai bên tranh giành nhau lúc tiến, lúc thoái,
mãi đến cuối đời Nam Tống mới kết thúc cuộc tranh giành.

Trong giai đoạn đời nhà Nguyên, Nho giáo tuy so với đời trước thì
không bằng, nhưng cũng rất thịnh đạt. Những học giả như Triệu Phục, Hứa
Hành và Hứa Khiêm đều là người có đức hạnh, rất xứng đáng là danh nho
một thời. Tuy nhiên, Nho học trong thời Nguyên chỉ bó hẹp trong phạm vi


10
Trình Chu mà thôi, bởi ai cũng cho rằng Nho học đến đó là cùng cực rồi. Bởi
vậy, Nho học thời Nguyên chỉ nhằm giữ lấy cái danh tiết cho trong sạch chứ
không ai phát triển thêm được điều gì cao minh hơn nữa.
Trong giai đoạn đời nhà Minh - Thanh, Nho giáo có nhiều bước phát
triển mạnh mẽ. Vào thời kỳ đầu đời nhà Minh, các học giả vẫn còn theo lối
học của nhà Nguyên, chưa ai đề xướng ra học thuyết nào mới cả. Kể từ đời
vua Nhân Tông đến vua Mục Tông, Nho giáo thịnh hành hơn trước và có
nhiều học giả lừng danh. Nhưng xét đến cùng, Nho học đời Minh không ra
ngoài phạm vi Tống học và “cái học ấy từng chia ra chi nọ, phái kia nhưng
kết cục vẫn theo cái tôn chỉ thiên địa vạn vật nhất thể, và về đường thiết thực
vẫn cố giữ cái khí tiết của học giả” [46, tr. 669]. Vào thời nhà Thanh, nhất là
đời vua Khang Hy, không những các phái như Hán học và Tống học đều thịnh
hành mà phái Tây học cũng có thế lực. Nho học đời nhà Thanh tuy là rất thịnh
nhưng đa số các học giả đều làm sách vở, nghiên cứu tường tận theo phương
pháp khoa học. Nên “Thanh nho chỉ có cái tư cách khoa học mà không có cái
tinh thần triết học. Những danh nho trong khoảng ba thế kỷ đó đều là người
bác học, song không có mấy người hiểu biết chỗ uyên thâm của Nho giáo như
đời Tống và đời Minh” [46, tr. 720].
Trong thời kỳ hiện đại, Nho giáo đã được đề cập rất nhiều bởi những giá
trị tiềm tàng của nó đã, đang và sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu văn hoá trên phạm vi cả thế giới. Đã có nhiều cuộc Hội thảo bàn về Nho
giáo được tổ chức nhiều ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo,
Việt Nam... Tựu trung lại, mục tiêu của việc này là nhằm đánh giá một cách

khách quan hơn vai trò của Nho giáo trong các học thuyết triết học Trung Hoa
với quá trình phát triển nhân loại trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Ngày nay, chúng ta tìm hiểu những triết lý của Nho giáo không chỉ để
thấy được sự vĩ đại của các triết gia mà còn để “coi trọng giáo dục đạo lý làm


11
người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hoá, lịch sử dân tộc và bản sắc dân
tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước, bồi
dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại” [33, tr.55] trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Tư tưởng cơ bản của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền
a. Đường lối đức trị và mẫu người cầm quyền
Nho giáo về thực chất là một học thuyết chính trị đạo đức mà biểu hiện
của nó tập trung ở đường lối “đức trị”. Đó là một đường lối của giai cấp
phong kiến Trung Quốc chủ trương dùng “đức trị” để quản lý xã hội. Hệ
thống các phạm trù, nguyên lý, chuẩn mực, quy phạm đạo đức trong học
thuyết Nho giáo không chỉ phản ánh các quan hệ đạo đức mà còn phản ánh
các quan hệ chính trị của xã hội và con người. Những nguyên tắc đạo đức của
Nho giáo như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín vừa là chuẩn mực để điều chỉnh hành vi
của con người, vừa là những biện pháp để bảo đảm cho chính trị, nhân nghĩa
được thực hiện. Khổng Tử quan niệm: “Làm chính trị mà dùng đức thì như
sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả” [49, tr. 37]. Trước
sau ông vẫn tin rằng: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt
dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo
đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn
mà lại theo đường chính” [49, tr. 39]. Với Nho giáo, người làm chính trị phải
chú trọng tu dưỡng nội tâm, có phẩm chất cao thượng để dẫn dắt người khác.
Về sau, Mạnh Tử cũng kế thừa và nâng cao tư tưởng đức trị bằng phạm

trù “nhân nghĩa”. Mạnh Tử đã nói: “Nếu người bậc trên mà vui với sự vui của
dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của
dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bậc quốc trưởng mà chia vui
với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có


12
bề hưng vượng vậy” [20, tr. 51]. Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ
có một phương pháp nên theo là “dân muốn việc gì, nhà cầm quyền nên cung
cấp cho họ. Dân ghét việc gì nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ” [21, tr. 19].
Có thể khẳng định, “đức trị” là nguyên tắc tối cao của Nho giáo. Bởi vì,
Nho giáo coi đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất, hữu hiệu nhất để
đạt được những mục đích chính trị và nhân sinh. Nho giáo coi đạo đức, lễ
giáo không chỉ là mục đích, mà còn là công cụ, phương tiện chủ yếu, có vai
trò quyết định trong việc củng cố, duy trì địa vị, quyền lợi của giai cấp thống
trị trong việc trị nước, quản lý xã hội. Như vậy, học thuyết “đức trị” đã chứa
đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo và ngày nay vẫn cần được
chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu để tìm trong đó nhiều bài học bổ ích.
Nghiên cứu về học thuyết “đức trị” của Nho giáo, chúng ta thấy nó đóng
một vai trò rất quan trọng chính sách “trị nước, an dân” trong lịch sử. Bởi vì,
đối với các xã hội phong kiến Á Đông, đường lối “đức trị” luôn là đường lối
trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Trong quan niệm của Nho
giáo, tư tưởng đức trị có vai trò là cơ sở, căn cứ để định hướng và chỉ đạo việc
thực hiện đường lối cai trị, quản lý xã hội bằng những chuẩn mực, quy phạm
đạo đức. Các phạm trù đạo đức căn bản của Nho giáo là những chuẩn mực
đạo đức cần có và là phương tiện để hoàn thiện nhân cách đạo đức của con
người trong xã hội. Tư tưởng “đức trị” trong Nho giáo còn là công cụ có tính
chính trị để ràng buộc con người, cai trị và quản lý xã hội nhằm đáp ứng
những yêu cầu và mục đích chính trị của giai cấp phong kiến. Ngoài ra, Nho
giáo còn khẳng định đạo đức và việc thi hành đạo đức còn là biện pháp tốt

nhất để loại trừ tình trạng phi đạo đức trong xã hội, là phương tiện để duy trì
trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Nhưng để đạt được mục đích này, các nhà
Nho khẳng định rằng điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là mọi người
trong thiên hạ, đặc biệt là người cầm quyền phải tận tâm tu dưỡng đạo đức.


13
Vậy vì sao phải dùng đức trị ?. Lý giải câu hỏi này góp phần giúp chúng
ta hiểu về nguyên nhân xuất hiện tư tưởng “đức trị” của Nho giáo. Đường lối
“đức trị” được Khổng Tử đề xuất thực hiện. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử thì
đường lối “đức trị” mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành
đường lối “nhân chính”. Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại “vương đạo”
suy vi, “bá đạo” nổi lên lấn át “vương đạo”, chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo
lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Khổng Tử nói rằng đó là thời kỳ “quân bất
quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử” [48, tr. 483]. Những cuộc chiến
tranh đều nhằm mục đích tranh bá, tranh vương. Mạnh Tử nói rằng: “đánh
nhau giành đất, giết người thây chất đầy đồng, đánh nhau giành thành, giết
người thây chất đầy thành” [23, tr. 26-27]. Đứng trước tình hình đó các Nhà
nho luôn có hoài bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương, một xã hội hòa
bình, ổn định, trật tự và thịnh vượng. Khổng Tử luôn phản đối nhà cầm quyền
dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ trương thực hiện nhân trị. Theo
Khổng Tử, nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do xã hội đã xa rời đạo
lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị đảo lộn. Để ổn định trật tự xã hội, Nho
giáo chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là “chính danh, định phận”. Khổng
Tử quan niệm đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là
nói đến đạo đức: “Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên.
Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người
quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu đễ là
cái gốc của đức nhân...” [49, tr. 26]. Đức với Khổng Tử là lời nói đi đôi với
việc làm trên cơ sở cái thiện: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu

nói mà không làm được” [49, tr. 81]. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã đề xuất
đường lối “đức trị” - đường lối trị nước bằng đạo đức. Sự ra đời của của
đường lối “đức trị” đã đáp ứng được nhu cầu của các Nhà nho có hoài bão về
một chế độ phong kiến có kỷ cương, trật tự và thịnh vượng lúc bấy giờ.


14
Để thực thi đường lối “đức trị”, Nho giáo đã đưa ra quan niệm về một
mẫu người cầm quyền thích hợp. Đó là “người quân tử” với những tiêu chuẩn
về tài đức xứng đáng được nắm quyền trị dân. Ở đời nhà Chu, quan niệm về
người quân tử đã lưu hành rộng rãi. Tuy nhiên, từ “quân tử” ở thời Chu chỉ
được dùng để chỉ địa vị xã hội. Quân tử là người có chức phận cao, cai trị
dân, dù có đức hay không có đức, còn những người dân thường, hạng bị trị tất
thảy đều là tiểu nhân. Khi xây dựng mẫu người lý tưởng cho xã hội, Khổng
Tử cũng sử dụng lại phạm trù này nhưng đã bổ sung cho nó những nội dung
mới. Ông nhấn mạnh yếu tố tư cách. Người quân tử là những người có đức
hạnh cao quý, có nhân cách, xứng đáng với địa vị trị dân, giáo dân. Nho giáo
quan niệm, người quân tử là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
Trước hết, người cai trị phải có đức, lấy đức nhân làm gốc, lấy việc tu
thân làm đầu. Nho giáo luôn khẳng định, đã là người quân tử thì đức Nhân
phải là yếu tố hàng đầu. Cốt lõi của nhân là lòng yêu thương con người, là sự
đối xử giữa người với người trên cơ sở tình yêu thương. Tình yêu thương đó
có thể cụ thể hoá thành các nguyên tắc: “Điều gì mình không muốn thì đừng
làm cho người khác (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Mình muốn đứng vững
thì phải làm cho người khác đứng vững, mình muốn thành đạt thì phải giúp
đỡ người khác thành đạt (Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt
nhi đạt nhân)” [50, tr. 108]. Quân tử chỉ cầu ở mình mà không cầu ở người,
“quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân” [14, tr. 176]. Nghĩa là người
quân tử luôn xác định tự mình tạo lập sự nghiệp cho bản thân trên cơ sở sự
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, tài năng.

Đức quan trọng thứ hai của người quân tử là Nghĩa. Nho giáo không đưa
ra một định nghĩa kinh điển nào về “nghĩa”. Tùy từng hoàn cảnh, đối tượng
mà việc giảng về “nghĩa” có khác nhau. Nhưng tựu trung lại, “nghĩa” là bao
gồm những cái cao thượng, chính trực, tốt đẹp và phù hợp với nhân và lễ.


15
Làm điều nghĩa là để thi hành đạo nhân và giữ gìn lễ tiết. Khổng Tử cho rằng,
người quân tử lấy nghĩa làm đầu, kẻ tiểu nhân lấy lợi làm đầu, “quân tử hiểu
rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi” [15, tr. 452]; người quân tử phải trọng
nghĩa (cứ hợp nghĩa thì làm); lấy nghĩa làm gốc “Quân tử nghĩa dĩ vi chất”
[50, tr. 238]. Lễ cũng là một phẩm chất của người quân tử mà Nho giáo đề
cập tới. Lễ theo quan điểm của Nho giáo vừa bao gồm việc thờ cúng, lễ bái,
vừa là những quy định có tính chất pháp luật. Người có lễ là người biết tự
chủ, nghiêm khắc với bản thân. Nho giáo chủ trương người quân tử phải theo
lễ mà làm, phải khắc kỷ, phục lễ.
Người quân tử còn phải là người có Trí. Trí là trí tuệ, tài năng, kiến thức,
là khả năng suy nghĩ, xét đoán mọi việc một cách sáng suốt. Khổng Tử còn
xem “nhân, trí, dũng” là ba đức cực kỳ quan trọng của người quân tử. Dũng là
sự can đảm, dũng cảm, nghĩa liệt để có thể chiến thắng bản thân, chiến thắng
hoàn cảnh và sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ba đức “nhân, trí, dũng” luôn
song hành với nhau, hơn nữa, nhân còn bao hàm cả trí và dũng. Người quân
tử còn phải biết trọng chữ tín. Nho giáo quan niệm, đã là người quân tử thì
phải tỏ rõ cái đức sáng ngày càng rộng, càng cao, mà chung quy lại có 5 điều
là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Cốt lõi của con đường trở thành người quân tử là “tu
thân”. Nho giáo chủ trương từ thiên tử đến thứ dân phải lấy tự sửa mình làm
gốc, “tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” [50, tr. 166].
Tu thân nghĩa là luôn nghiêm khắc với bản thân, sửa chữa những thiếu sót,
không bảo thủ để nhận rõ những hạn chế của mình để ngày càng hoàn thiện.
Sau khi tu thân, người quân tử có bổn phận hành đạo, đem cái đạo, cái đức,

cái chí của mình ra giúp đời, vừa vinh thân hiển gia, vừa an bình thiên hạ.
Theo Nho giáo, người cầm quyền là những người tài đức vẹn toàn. Và
những phẩm chất tốt đẹp bên trong đó sẽ bộc lộ ra ngoài qua tướng mạo, hành
vi, ngôn ngữ. Nho giáo cho rằng, người quân tử phải luôn giữ cho tướng mạo


16
thật khiêm cung, “khi trông thì để ý để thấy cho minh bạch, khi nghe thì lắng
tai nghe cho rõ; sắc mặt thì giữ cho ôn hòa; diện mạo thì giữ cho đoan trang;
nói năng thì giữ cho trung thực; làm thì giữ cho kính cẩn; có điều nghi hoặc
thì hỏi han; khi giận thì phải nghĩ tới hậu quả tai hại sẽ xảy ra; thấy mối lợi thì
phải nhớ đến điều nghĩa” [50, tr. 239]. Tư cách người quân tử là “lo không đạt
đạo chứ không lo nghèo”, “hòa hợp nhưng không a dua”, “thư thái mà không
kiêu căng”. Tài năng kiến thức của người quân tử “không phải như một đồ
dùng”, tức là phải hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có
“tài trí đủ để trị dân”. Người quân tử còn phải “thận trọng về lời nói, mau mắn
về việc làm”, thờ vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt “không
nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua” [49, tr. 24].
Ngoài ra, người cầm quyền cần phải coi trọng nêu gương sử sách. Nêu
gương trung thần, phê phán loạn thần, nghịch thần, nịnh thần, đúc kết các bài
học về nguyên nhân của thịnh suy trong lịch sử. Bởi vì, người cầm quyền có
làm gương cho người dưới thì mới dạy bảo được người dưới và mới cai trị
được thiên hạ. Khổng Tử nói: “Như người nào đã sửa trị lấy mình, thì đứng ra
cai trị có khó gì ? Nhược bằng mình chẳng có thể sửa trị lấy mình, làm sao cai
trị dân cho được” [22, tr. 204-205]. Người làm quan làm gương cho dân không
chỉ dạy dân, trị dân mà còn làm cho dân tin. Làm cho dân tin vào bậc cầm
quyền là điều khó nhất và quan trọng nhất trong trị nước. Khi trả lời Tử Cống,
trong ba thứ quan trọng của nhà cầm quyền gồm lương thực, binh lực và dân
tin điều gì quan trọng nhất thì Khổng Tử trả lời là dân tin. Theo ông, “dân
không tin nhà cầm quyền thì chính quyền sẽ sụp đổ” [22, tr. 184-185]. Như

vậy, bậc cầm quyền tự sửa mình làm gương cho dân thì việc trị nước cũng trở
nên dễ dàng hơn. Vì “nếu nhà cầm quyền tự mình giữ theo chính đạo, chẳng
đợi ra lệnh, dân cũng ăn ở trúng phép; còn như tự mình chẳng giữ theo chính
đạo, dẫu có ra lệnh buộc dân theo, họ cũng không theo” [22, tr. 200-201].


17
Như vậy, mẫu người cầm quyền theo quan niệm của Nho giáo là mẫu
người lý tưởng cả về phẩm chất đạo đức và tư cách. Là người nắm được thời
mệnh, sống theo mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn, cẩn
trọng. Họ có trách nhiệm kính trên nhường dưới, có hoài bão cao đẹp, luôn
luôn hướng thiện, cố gắng tiến đức tu nghiệp, theo đạo và tu đạo, lo sao cho
hoàn thiện bản thân mình; Sáng suốt, ham học hỏi, biết thức thời, nói ít làm
nhiều, thương yêu giúp đỡ mọi người, sống thân ái, hòa đồng với mọi người.
Người quân tử luôn trau dồi tâm thân, ở thì ở chỗ quảng đại của thiên hạ,
đứng thì đứng vào địa vị chính đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn
của thiên hạ, đắc trí thì cùng với nhân dân noi theo đạo nghĩa. Giầu sang
không làm siêu lòng, nghèo hèn không làm thay đổi lòng, vũ lực không khuất
phục được chí lớn, khốn cùng không làm nhụt chí anh hùng.
b. Những chuẩn mực và yêu cầu đạo đức của người cầm quyền
Người cầm quyền phải có Nhân, Lễ, Chính danh
Trong tư tưởng “đức trị” nói riêng và học thuyết chính trị - xã hội của
Nho giáo nói chung thì các tiêu chuẩn về đạo đức Nhân, Lễ, Chính danh là
những phạm trù trung tâm và cơ bản nhất trong quan niệm về đạo đức của
người cầm quyền. Các phạm trù đạo đức đó thống nhất với nhau. Trong đó,
Nhân là nội dung, là hạt nhân của Lễ. Còn Lễ là hình thức thể hiện của Nhân
và trên bình diện chính trị sự thống nhất của Nhân và Lễ là Chính danh.
Nhân là phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo “cương
thường”. Từ “đức nhân” mà phát ra các đức khác, và các đức khác lại quy tụ
về với “đức nhân”, là biểu hiện của “đức nhân”. Theo các Nhà nho, nhân cách

lý tưởng của bậc quân tử phải là sự thống nhất và bổ sung lẫn nhau của “ngũ
đức” (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Như thế “nhân” đồng nghĩa với người có mọi
đức tính tốt, có thể hiểu là “toàn đức”. Nhân là đạo làm người, là cách cư xử
của mình với người, là yêu người, bác ái. Theo Khổng Tử, “kẻ có nhân là


18
người tình cảm chân thật, hết lòng vì nghĩa, cho nên có nhân thì bao giờ cũng
hiếu để, lễ nghĩa, trung thực. Kẻ bất nhân thì đầy những trí thuật, rất khôn
khéo, linh lợi mà tình cảm đơn bạc không thành thực, chỉ vì lợi mà không có
lễ nghĩa, dối trá, gian ác, phản loạn, lừa trên gạt dưới” [17, tr. 64]. Ông luôn
coi “nhân” là đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn tu thân. Với
Khổng Tử, điều quan trọng nhất trong tư tưởng về “nhân” là biểu hiện về mặt
chính trị của nó. Ông quan niệm thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để đánh giá đức nhân của người cầm quyền: “Sai khiến dân thì phải thận
trọng như trong một cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho
người”. Trong nước không ai oán mình, trong nhà một đại phu không ai oán
mình” [49, tr. 196]. Ông từng nói: “Tài trí đủ để trị dân mà không biết dùng
đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân” [49, tr. 266].
Nhân phải gắn liền với “nghĩa”, bởi vì “nghĩa” vừa là một biểu hiện của
đức nhân, vừa là một trong năm chuẩn mực của ngũ thường. Nếu nhân thể
hiện trong các mối quan hệ với người khác thì nghĩa là sự thể hiện trong tự
vấn lương tâm mình. Lòng hổ thẹn là đầu mối của nghĩa. Nghĩa tức là điều
nên nói, việc nên làm, là lẽ đương nhiên. Theo Khổng Tử, người ta hành động
phải dựa vào nghĩa, phải vì nghĩa, có nghĩa là điều gì nên làm thì làm, điều
không nên làm thì không làm. Ngoài ra, nghĩa còn là cách cư xử với mọi
người theo công bằng và lẽ phải. Trong thử thách đạo làm người của Nho
giáo thì chữ nghĩa giúp cho con người ta biết phân minh việc phải trái, làm
việc tốt, việc thiện ở đời và hành xử công bằng theo lẽ phải.
Một biểu hiện quan trọng nữa của đức nhân đó là Trí. Trong học thuyết

Nho giáo, Trí được hiểu là trí tuệ, sự hiểu biết, phân biệt được đúng sai, phải
trái, đánh giá con người và tình huống, qua đó xác định cho mình cách ứng xử
cho phải đạo. Để có trí, Nho giáo khuyên con người cần phải học tập. Mạnh
Tử cho rằng, “học chẳng chán là trí, dạy dỗ không mỏi là nhân”, học để cố


19
gắng hoàn thiện sự hiểu biết và nhân cách của mình. Chữ “trí” trong Nho giáo
giúp con người ta luôn luôn phấn đấu học tập để hoàn thiện bản thân mình.
Trí là biết người, là dùng người trực, bỏ kẻ gian và biết được một cách đúng
đắn, rõ ràng, phải trái mọi vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Đức Tín cũng là một biểu hiện của nhân và là đức tính thứ năm trong
ngũ thường. Tín ở đây có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống nhất với
nhau. Tín còn là lòng tin cậy giữa người với người. Chữ tín theo Nho giáo là
lòng thật thà, niềm tin, đức tính giữ lời hứa hẹn, giữ đúng, làm đúng những
điều đã nói ra. Chữ tín trong đạo đức Nho giáo hướng con người đến sự ngay
thẳng, chân thật trong hành xử, trong đối nhân xử thế. Đối với bằng hữu thì
phải làm cho người ta tin, có như vậy tình bạn mới bền vững được. Đối với
người cầm quyền thì chữ tín càng đặc biệt quan trọng bởi họ là những người
có nghĩa vụ cai trị dân, giáo hoá dân, cảm hoá dân. Muốn được dân tin thì
người cầm quyền phải thành thực, phải thận trọng trong lời nói, lời nói phải
hợp với hành động. Tư tưởng “dân tín” của Nho giáo không chỉ có ý nghĩa
trong lịch sử, mà cò có ý nghĩa đối với ngày nay.
Phạm trù đạo đức thứ hai của Nho giáo là Lễ. Trước hết, “lễ” là một
chuẩn mực đạo đức dùng để chỉ tôn ti, trật tự, kỷ cương của xã hội mà mọi
người, mọi giai cấp trong xã hội phải học, phải làm theo. Tiếp đó, “lễ” là
những chuẩn mực, những quy tắc, những yêu cầu có tính bắt buộc đối với mọi
hành vi, ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội cũng như trong
các hoạt động khác. Trong học thuyết Nho giáo, nếu “nhân” là nội dung thì
“lễ” chính là hình thức của nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của

nhân, là chính đạo mà mọi người nên thi hành, còn nếu con người chạy theo
dục vọng của mình mà trái ngược với chính đạo tức là trái ngược với điều
nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ: “Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề
tôi thờ vua phải trung” [49, tr. 65]. Vua phải yêu thương bề tôi, bề tôi phải tận


×