Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.39 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯƠNG THỊ THANH LAN

VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯƠNG THỊ THANH LAN

VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC



Đà Nẵng - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trương Thị Thanh Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................... 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................... 7
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 7

CHƯƠNG 1. KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ......... 8
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC - CÔNG
NGHỆ........................................................................................................ 8
1.1.1. Các khái niệm khoa học, công nghệ ............................................... 8
1.1.2. Quan hệ biện chứng giữa khoa học và công nghệ ........................ 14


1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT .............................................................................................................16
1.2.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất ............................... 16
1.2.2. Đặc trưng của lực lượng sản xuất ................................................. 24

1.3. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.............................................. 27
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY................................................ 36
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG .............................................................................................. 36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên......................................................................... 36
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội............................................................. 38


2.2. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI TƯ LIỆU
SẢN XUẤT............................................................................................. 40
2.3. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG ............................................................................................ 48
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ÁP
DỤNG THÀNH TỰU CỦA KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐỂ
THÚC ĐẨY LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT PHÁT TRIỂN Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY ............................................................... 62
3.1. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG................................................................ 62
3.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển và của Đảng Cộng sản Việt Nam
về khoa học – công nghệ......................................................................... 62
3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến
năm 2020................................................................................................. 67


3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP...................................................................... 69
3.2.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Thành ủy đối với phát triển khoa học
và công nghệ ........................................................................................... 69
3.2.2. Tăng cường mối liên kết giữa các cơ sở sở đào tạo nhất là giữa các
trường đại học với các doanh nghiệp...................................................... 71
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao....... .................................................................................................... 79
3.2.4. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, đẩy mạnh đổi mới cơ bản,
toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, hoạt động khoa học và
công nghệ, coi đây là khâu đột phá để phát triển khoa học và công nghệ
trong những năm tới................................................................................ 86

KẾT LUẬN ............................................................................................ 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Cơ cấu nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp theo các

33

bảng
1.1


giai đoạn tiến bộ kỹ thuật
2.1

Năng suất lao động của Thành phố Đà Nẵng theo giá

47

cố định 1994
2.2

Quy mô dân số thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 –

49

2009
2.3

LLLĐ ở Đà Nẵng giai đoạn 1997–2009

50

2.4

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ ở Đà Nẵng

51

1997-2011
2.5


Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các

53

cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc thành phố
Đà Nẵng
2.6

Chuyển biến về chất lượng của công chức hành chính

54

2.7

Chuyển biến về chất lượng của cán bộ, công chức

54

phường, xã
2.8

Cơ cấu nhân lực theo ngành nghề

57

2.9

Tăng trưởng GDP của thành phố Đà Nẵng giai đoạn


60

1997 - 2010


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến những thay đổi lớn về chất
trong toàn bộ đời sống xã hội, đó là những thay đổi về kinh tế, về chính trị, về
văn hoá, đặc biệt về khoa học - công nghệ. Khoa học - công nghệ đã và đang tác
động ngày càng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống nhân loại, mà kết quả quan
trọng nhất là đã tạo ra bước ngoặt phát triển về chất của lực lượng sản xuất. Từ
đó, thúc đẩy sự phát triển các mặt khác của đời sống nhân loại. Điều đó đã minh
chứng và làm sâu sắc thêm cho luận điểm được nêu ra ngay từ những năm giữa
thế kỷ XIX của C.Mác: Khoa học - kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Sự phát triển và ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ
vào sản xuất trên thực tế đã tạo ra sự tác động mạnh mẽ đến tất cả các yếu tố
cấu thành của lực lượng sản xuất, nhưng quan trọng nhất và có vai trò quyết
định nhất đó là người lao động. Bởi vì, chính người lao động, vừa là chủ thể
của sản xuất xã hội, là người trực tiếp ứng dụng các thành tựu của cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất vật chất của mình, vừa
là yếu tố tạo điều kiện tiền đề cho sự phát triển năng động của lực lượng sản
xuất. Trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ, người
lao động nâng cao năng lực, trình độ và phương pháp sản xuất vật chất của
mình, đồng thời phát huy ngày càng có hiệu quả sức mạnh của các yếu tố
khác trong lực lượng sản xuất. Như vậy, về thực chất những thành tựu khoa
học - công nghệ cho phép người lao động đảm đương được vai trò quan trọng,

những tri thức khoa học với hệ quả trực tiếp của chúng là các giải pháp về
công nghệ tương ứng làm nên thang bậc mới về chất trong sự phát triển của
khoa học và công nghệ. Vậy nên, có thể nói, thông qua sự tác động trực tiếp


2
vào người lao động, khoa học - công nghệ đã tạo nên xu thế trí tuệ hoá lực
lượng sản xuất trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại cho đến nay.
Ở những mức độ khác nhau, cách mạng khoa học - công nghệ đã đang
và sẽ có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay - khi nước ta
đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Từ điểm xuất
phát thấp với trình độ khoa học - công nghệ còn lạc hậu, chúng ta cần phải
đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá để trước hết tận dụng tối đa
những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nhằm
phát triển mạnh lực lượng sản xuất. Đó là một yếu tố quan trọng đảm bảo
cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đà Nẵng là một trong những đô thị lớn của đất nước, là trung tâm kinh
tế, văn hóa, giáo dục, khoa học...của các tỉnh miền Trung. Trong những năm
đổi mới, Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo...điều đó đã từng bước khẳng định vai trò, vị thế đứng đầu của Đà
Nẵng trong khu vực miền Trung, góp phần cùng cả nước tạo tiền đề vững
chắc để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Tuy nhiên, tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá với
việc tận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ trong tiến trình này ở Đà
Nẵng không chỉ có những thuận lợi, mà còn gặp phải nhiều khó khăn về mặt
khách quan cũng như mặt chủ quan. Dù vậy, vẫn có thể khẳng định, công
nghiệp hoá và hiện đại hoá với việc tận dụng những thành quả của cách mạng

khoa học - công nghệ cho sự phát triển lực lượng sản xuất là phương cách tất
yếu mà hiện nay Đà Nẵng cũng như bất kỳ một tỉnh thành nào trên cả nước
đều phải thực hiện để phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu cho mục tiêu dân


3
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.
Từ những nhận thức cơ bản trên đây về khoa học - công nghệ và ảnh
hưởng của nó đối với lực lượng sản xuất, tôi chọn vấn đề “Vai trò của khoa
học - công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thành phố
Đà Nẵng hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Khoa học và công nghệ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lịch sử xã hội.
Cách mạng khoa học - công nghệ với sức sáng tạo và những thành tựu của nó
lại càng tác động sâu sắc hơn đến đời sống nhân loại. Điều đó làm cho nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm trực tiếp cũng như gián tiếp.
Liên quan đến đề tài, có những công trình sau:
“Khoa học và công nghệ thế giới – thách thức và vận hội mới ” (Bộ khoa
học và công nghệ, Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, năm
2005), trong đó đề cập đến các xu thế phát triển khoa học và công nghệ hiện
nay, xem khoa học và công nghệ là động lực của sự phát triển, “với vô số thành
tựu khoa học và công nghệ mới được tạo ra trong các ngành công nghệ cao như
công nghệ nano, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học,
công nghệ năng lượng mới...lực lượng sản xuất đã thực sự có bước phát triển
nhảy vọt và đạt tới một trình độ chưa từng có trong lịch sử phát triển của nhân
loại”, cuốn sách còn đề cập đến những thách thức và vận hội trong chính sách
khoa học và đổi mới như những áp lực gia tăng đối với nghiên cứu công phục
vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội, giao diện giữa khoa học và đổi mới, thúc đẩy
sự phát triển và di chuyển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ...
“Khoa học và công nghệ Việt Nam – những sắc màu tiềm năng”(Liên

hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Nxb Thanh Niên, năm 2000),
đây là công trình tập trung những bài viết về những vấn đề về khoa học và công
nghệ của Việt Nam, những tấm gương khoa học trẻ tuổi Việt Nam với ước mơ


4
sáng tạo vì Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.“Để khoa học và công nghệ thực sự là
nền tảng và động lực trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Hoàng
Văn Phong, Bộ trưởng bộ Khoa học công nghệ và môi trường tạp chí Cộng sản
tháng 10/2003), đề cập đến vai trò của khoa học công nghệ là nền tảng và động
lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó nêu một số giải pháp
phát triển khoa học công nghệ. “Đổi mới chính sách khoa học và công nghệ
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế" ( Đỗ Mai Thành tạp chí Cộng sản tháng
10/2005), bàn về đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, phát triển
tiềm lực khoa học, xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
“Khoa học, công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” (Nguyễn
Đình Hòa, tạp chí triết học tháng 6/2001), đề cập đến mối quan hệ giữa khoa
học, công nghệ và đạo đức, nhấn mạnh trong điều kiện hiện nay, dựa vào khoa
học và công nghệ hiện đại để phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa mới tạo nên cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu như: “Phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng”
(Dương Anh Hoàng, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật năm 2012), đề cập đến
nội dung cơ bản về nguồn nhân lực, những đặc điểm chủ yếu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Đà Nẵng,
đồng thời qua đó tác giả đưa ra một số giải pháp định hướng phát triển nguồn
nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng. “Phát
huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay” (Phạm Công Nhất, Nxb Chính trị quốc gia năm 2007), đề cập đến nội
dung cơ bản của khái niệm lực lượng sản xuất, nhân tố con người và vai trò của

nó trong lực lượng sản xuất, tác giả đã nêu lên thực trạng phát huy nhân tố con
người ở nước ta hiện nay và đưa ra những giải pháp phát huy nhân tố con
người nhằm phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,


5
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. “Phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”(Bùi Tiếu tạp chí Cộng sản số tháng 4/2007),
bàn luận về phát triển khoa học, công nghệ và thúc đẩy những công nghệ sản
xuất và kinh doanh mới, hiện đại, có hiệu quả trong các khu vực công nghiệp,
nông nghiệp, và dịch vụ, thúc đẩy ngày càng nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế. “Vài suy nghĩ về chuẩn bị nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Nguyễn
Văn Thụy, Vụ trưởng, Bộ phận thường trực ban chỉ đạo Trung ương tạp chí
Cộng sản tháng 12/2003), đề cập đến một số giải pháp phát huy nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Về quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về khoa học – công
nghệ, gần đây nhất, ngày 1.11.2012, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký
ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH T.Ư Đảng khóa XI (Nghị quyết
số 20-NQ/TW) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đã nêu định hướng phát triển khoa
học – công nghệ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, phát
triển và ứng dụng khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Về phía Nhà nước, nhiều văn bản quy phạm pháp luật cũng như những
chính sách về vấn đề khoa hoc – công nghệ như: Luật khoa học và công nghệ
được Quốc Hội khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09/6/2000 là bộ luật
khung của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề khoa học – công nghệ; ngoài ra
còn có văn bản quy định dưới luật của bộ Khoa học công nghệ - môi trường

và các cơ quan quản lý nhà nước khác.
Đối với thành phố Đà Nẵng, chúng tôi đã tiếp cận được với các công
trình như: Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2005-2010), lần


6
thứ XX (nhiệm kỳ 2010-2015) của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Báo cáo quy
hoạch tổng thể nghành khoa học và công nghệ thành phố Đà Nẵng đến năm
2020, Đề án quy hoạch phát triển nhân lực thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2011-2020.
Các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu sự tác động của khoa học - công
nghệ dưới nhiều phương diện, nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa thấy
được sự thay đổi lớn về chất của lực lượng sản xuất dưới tác động của khoa
học - công nghệ. Đặc biệt là sự thay đổi về lực lượng sản xuất của các tỉnh
miền Trung trong đó có thành phố Đà Nẵng. Vì thế, trên cơ sở kết quả nghiên
cứu của các công trình trước đó, tác giả thực hiện nghiên cứu của mình nhằm
làm rõ lý luận về khoa học – công nghệ và học thuyết của triết học Mác –
Lênin lực lượng sản xuất; đặc biệt là làm rõ vai trò của khoa học – công nghệ
đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thành phố Đà Nẵng và đưa ra một
số giải pháp ứng dụng khoa học – công nghệ nhằm thúc đẩy lực lượng sản
xuất của thành phố phát triển góp phần định hướng về mặt lý luận trong việc
xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Từ sự phân tích vai trò của khoa học – công nghệ đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, luận văn đưa ra một số định hướng và xây
dựng các giải pháp nhằm phát huy vai trò của khoa học – công nghệ đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích vai trò của khoa học – công nghệ đối với sự phát triển của

lực lượng sản xuất ở Đà Nẵng.
+ Đưa ra định hướng và các giải pháp nhằm áp dụng những thành tựu
của khoa học – công nghệ để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở


7
Đà Nẵng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Những lý luận về khoa học - công nghệ và học thuyết của triết học
Mác - Lênin về lực lượng sản xuất.
+ Trình độ của người lao động trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của
khoa học - công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất trên phạm vi
Thành phố Đà Nẵng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là những nguyên lý triết học Mác - Lênin, về
khoa học - công nghệ và lực lượng sản xuất.
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài phương pháp nhận thức duy vật
biện chứng, kết hợp vận dụng các phương pháp khác như: phân tích và tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa, thống kê và chú giải tài liệu.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Từ lập trường thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận
biện chứng duy vật luận văn trình bày một cách có hệ thống các khái niệm về
khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy triết học và lịch
sử, địa lý địa phương cho đối tượng là học sinh, sinh viên.
- Những cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn sẽ góp một phần vào
công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội trên địa bàn
Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết trình bày trong 90 trang.


8
CHƯƠNG 1

KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC - CÔNG
NGHỆ
1.1.1. Các khái niệm khoa học, công nghệ
* Khái niệm khoa học
Thuật ngữ khoa học xuất hiện từ rất sớm, nó phản ánh một hình thức
hoạt động sáng tạo đặc biệt, chiếm vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội của con người. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khoa học. Cụ thể:
Trong từ điển triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva 1986 viết : “
Khoa học - Lĩnh vực hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất ra những
tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy, và cả những yếu tố và điều kiện của
việc sản xuất này”.
Trong từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà nội 1988
viết: “ Khoa học là một hệ thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và
được thực tiễn chứng minh, phản ánh quy luật khách quan của thế giới bên
ngoài cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có
khả năng cải tạo thế giới hiện thực”.
Còn trong từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
Hà Nội 2002 viết:“Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư
duy được tích lũy trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể
hiện bằng khái niệm phán đoán, học thuyết”

Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát: Khoa học là một hệ thống tri
thức được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh
dưới dạng lôgíc trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những mối liên hệ bản
chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội và bản thân con người.


9
Tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận, chúng ta có thể phân
tích khái niệm khoa học ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ở mức độ khái quát,
khoa học được hiểu ở các góc độ sau:
Thứ nhất, khoa học là một hình thái ý thức xã hội.
Triết học xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội, khoa học được
quy định bởi các yếu tố của tồn tại xã hội, đồng thời nó có sự tác động mạnh
mẽ trở lại đối với đời sống kinh tế - xã hội và tồn tại xã hội nói chung. Ví như
sự thay đổi của khoa học sẽ dẫn tới sự thay đổi của phương thức sản xuất, mỗi
thời đại được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định và chính sự
phát triển của phương thức sản xuất là động lực thức đẩy khoa học luôn khám
phá để tìm ra phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Từ những mối quan hệ đó, ta thấy rằng mỗi phát hiện mới về quy luật,
hoặc sáng tạo mới về các giải pháp đều hoàn toàn có khả năng phải chấp nhận
sự va chạm với các định kiến xã hội, thậm chí là những sự đụng độ gay gắt,
nếu như phát triển hoặc sáng tạo đó khác biệt với truyền thống tư duy, tập
quán dân tộc, tín điều tôn giáo, những điều đó đã ăn sâu trong đời sống xã
hội, mà học thuyết nhật tâm của Cô-péc-ních (Copernicus) và Ga-li-lê
(Galilei) là một minh chứng.
Ngoài mối quan hệ biện chứng với tồn tại xã hội, khoa học còn có mối
quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác như: chính trị, đạo
đức, tôn giáo...Khoa học đóng vai trò như là tiền đề cơ sở cho việc hình thành
và phát triển các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Trái lại, các hình thái ý
thức xã hội khác lại có tác động ở những mức độ khác nhau đối với việc khám

phá, truyền bá, ứng dụng các tri thức khoa học. Từ đó, chúng có tác động đến
khoa học nói chung.
Thứ hai, khoa học là một hoạt động xã hội đặc thù.
Trước đây, khi xã hội còn kém phát triển, hoạt động khoa học mang tính


10
đơn lẻ, cá biệt của cá nhân hay một nhóm người. Ngày nay khoa học đã trở
thành một hoạt động nghề nghiệp được xã hội hóa cao độ. Đó là một dạng
hoạt động xã hội đặc biệt, hướng vào việc tìm kiếm những điều chưa biết, là
một loại lao động gian khổ, có nhiều rủi ro.
Hiện nay đội ngũ những người hoạt động khoa học ngày càng tăng cả về
số lượng và chất lượng. Khoa học đã thực sự trở thành một lĩnh vực của đời
sống xã hội trong đó sáng tạo ra các tri thức mới về quy luật của thế giới, về
các giải pháp, phương hướng tác động có hiệu quả vào thế giới khách quan,
sáng tạo ra các sự vật mới, phục vụ những mục tiêu tồn tại và phát triển bản
thân con người và xã hội loài người.
Thứ ba, khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã
hội và con người.
Ngay từ khi xuất hiện, con người phải lao động để duy trì sự sống, đồng
thời cùng với lao động con người có nhu cầu nhận thức thế giới xung quanh,
sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan và về chính bản thân mình
ngày càng trở nên phong phú, trở thành một hệ thống tri thức về mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Khoa học, trước hết có tư cách là hình thức hoạt động tinh thần của con
người hướng đến việc sản xuất tri thức về tự nhiên, xã hội và về chính bản thân
nhận thức. Nhưng mục tiêu trực tiếp của khoa học là đạt tới chân lý, khám phá
các qui luật khách quan nhờ khái quát các sự kiện hiện thực trong mối liên hệ
qua lại giữa chúng, đoán nhận xu hướng phát triển của hiện thực trên những
khám phá về các qui luật đó, chính vì vậy nó còn là hệ thống tri thức về tự

nhiên, xã hội và tư duy được đem lại bởi hoạt động nhận thức của con người.
Giống như các hình thức khác của nhận thức, khoa học luôn là một dạng hoạt
động xã hội - lịch sử chứ không đơn giản là tri thức thuần túy. Phản ánh thế
giới mang tính vật chất và phát triển, khoa học hình thành một hệ thống tri thức


11
liên hệ hữu cơ với nhau và luôn phát triển về các qui luật của nó.
Vậy, theo quan điểm hiện nay, khoa học vừa là một loại hình hoạt động
tinh thần sáng tạo vừa là kết quả của hoạt động này. Với tính cách là hoạt
động tinh thần, khoa học là quá trình con người hướng vào việc sản xuất ra tri
thức về tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tính cách kết quả của hoạt động tinh
thần, khoa học là tổng thể tri thức dưới dạng các khái niệm kết thành hệ thống
có tính toàn vẹn trên cơ sở những nguyên tắc xác định. Tập hợp những tri
thức có thông tin rời rạc, hỗn loạn mà chưa được tổ chức ở mức độ nhất định
và do đó không có tính hệ thống, thì chưa phải là khoa học.
Mỗi một bộ môn khoa học là sự tồn tại một thể thống nhất các thành tố:
chủ thể khoa học tức nhà khoa học là thành tố chủ yếu dưới các cấp độ như cá
nhân, nhóm hay cộng đồng; khách thể khoa học tức đối tượng là cái mà nhà
khoa học nghiên cứu nhằm vạch ra tính chất, cấu trúc, xu hướng của nó, hệ
thống phương pháp và thủ thuật chủ yếu, do đối tượng qui định. Bên cạnh đó
còn cần phải có ngôn ngữ khoa học tức ngôn ngữ chuyên môn hóa như: ký
hiệu, biểu trưng, phương trình, công thức..; là phương tiện ghi nhận, biểu đạt,
giữ gìn tri thức tích lũy được và truyền bá. Sự tồn tại của một khoa học được
thể hiện ở các phương diện: một quá trình truy nhận tri thức (nhất thiết có tri
thức mới) mà kết quả của nó là những tri thức phải hợp nhất thành hệ thống
hữu cơ đang phát triển; một thiết chế xã hội cùng toàn bộ cơ sở hạ tầng của nó
như tổ chức khoa học, nguồn tài chính, thiết bị và phương tiện nghiên cứu;
một lĩnh vực hoạt động sản xuất tri thức của con người ngày càng thâm nhập
và trở thành yếu tố quan trọng của văn hóa.

Để nhận biết một khoa học cần dựa vào năm tiêu chí chủ yếu: thứ nhất,
có đối tượng nghiên cứu xác định là những thuộc tính, yếu tố, quan hệ bản
chất của khách thể mà khoa học đó quan tâm phát hiện và cải biến; thứ hai, có
một lý thuyết là hệ thống tri thức dưới dạng phạm trù, khái niệm qui luật gồm


12
bộ phận riêng và bộ phận tiếp nhận từ khoa học khác; thứ ba, có một phương
pháp luận là lý thuyết về phương pháp và hệ thống phương pháp chỉ đạo việc
lựa chọn, xây dựng, sử dụng phương pháp gồm phương pháp luận riêng có và
phương pháp luận tiếp nhận từ khoa học khác; thứ tư, có mục đích ứng dụng
trực tiếp hoặc gián tiếp, xác định hoặc chưa xác định; thứ năm, có một lịch sử
nghiên cứu - một khoa học có thể bắt đầu lịch sử nghiên cứu từ một khoa học
khác và khi hoàn thiện được lý thuyết cùng phương pháp luận, thì chính thức
xuất hiện và đi vào phát triển song không phải khoa học nào cũng như thế.
Với tính cách là lĩnh vực hoạt động tinh thần sản xuất ra hệ thống các tri
thức, khoa học có thể phân chia thành những nhóm, ngành khác nhau theo
tiêu chí nhất định.
Xét về đối tượng và phương pháp truy nhận tri thức, có thể chia khoa
học thành các khoa học về tự nhiên, các khoa học về xã hội, các khoa học về
nhận thức và tư duy, các khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong đó, đặc biệt
toán học, triết học thuộc về nhóm riêng và thâm nhập vào hầu hết các nhóm
khác. Bên cạnh đó còn có các khoa học về nông nghiệp. Đến lượt, mỗi nhóm
có thể phân chia thành những nhóm nhỏ như: các khoa học tự nhiên có cơ
học, vật lý hóa học, sinh học v.v... các khoa học về nhận thức và tư duy có
nhận thức luận, lôgíc học; các khoa học xã hội có kinh tế học, luật học, chính
trị học, xã hội học xã hội học sử học v.v... các khoa học kỹ thuật và công nghệ
có chế tạo máy, kỹ thuật điện, kỹ thuật di truyền vv...
Xét về khoảng cách với thực tiễn xã hội, có thể chia thành những khoa
học lý thuyết nhằm vạch ra những qui luật và các nguyên tắc cơ bản của hiện

thực mà không định hướng trực tiếp vào thực tiễn xã hội. Những khoa học
ứng dụng mà kết quả là các giải pháp thực tiễn xã hội cụ thể. Ngoài ra, sự
phát triển khoa học hiện nay còn đang diễn ra quá trình tổng - tích hợp tri thức
làm xuất hiện các bộ môn tiếp giáp như toán cơ, toán tin, hóa lý, sinh lý....


13
* Khái niệm công nghệ
Công nghệ là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo
của con người. Tùy vào từng ngữ cảnh mà thuật ngữ công nghệ có thể được
hiểu là: Công cụ hoặc máy móc giúp con người giải quyết các vấn đề; các kỹ
thuật bao gồm các phương pháp, vật liệu, công cụ và các tiến trình để giải
quyết một vấn đề; các sản phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau; sản
phẩm có chất lượng cao và giá thành hạ...
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ Công nghệ. Cụ thể:
Theo Từ điển Tiếng việt viết:“Công nghệ là tổng thể nói chung các
phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dáng
nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo
ra sản phẩm”
Theo định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc
(UNIDO) thì : “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng
cách sử dụng các công trình nghiên cứu, và sử dụng nó có hệ thống, có
phương pháp. Công nghệ là sản phẩm tinh hoa của trí tuệ mà con người sáng
tạo ra cho xã hội và là công cụ chủ yếu để con người đạt được mục đích cần
thiết, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, tận dụng tài nguyên thiên
nhiên, cải thiện điều kiện làm việc”.
Còn theo định nghĩa của Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á –Thái
Bình Dương (ESCAP) thì: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và
kỹ thuật để chế biến nguyên vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng chúng trong sản xuất, trong

chế biến thông tin, trong dịch vụ công nghiệp và trong quản lý”
Tóm lại, từ tất cả các quan niệm trên, có thể hiểu : Công nghệ là tập hợp
một hệ thống kiến thức và kết quả của khoa học được ứng dụng nhằm mục


14
đích biến các tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm. Công nghệ là chìa
khóa cho sự phát triển, niềm hy vọng để nâng cao mức sống xã hội.
Công nghệ gồm có 2 bộ phận:
Phần cứng: gồm các trang thiết bị như: máy móc, nhà xưởng, thiết bị,
các công cụ sản xuất...
Phần mềm bao gồm: Một là, thành phần con người (gồm tinh thần lao
động, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, khả năng tiếp thu và vận dụng
sáng tạo...). Hai là, thành phần thông tin (gồm các bí quyết, quy trình công
nghệ, tài liệu khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thông tin về thị
trường...). Ba là, thành phần tổ chức quản lý (gồm tổ chức quản lý hoạt động
công nghệ, dịch vụ, tổ chức tiếp thị...).
Trong thực tiễn, quá trình sản xuất nào cũng phải đảm bảo bốn thành tố
là: các trang thiết bị, con người, thông tin và tổ chức quản lý. Sự kết hợp chặt
chẽ giữa bốn thành tố này là điều kiện cơ bản đảm bảo sản xuất đạt hiệu quả
cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà công nghệ thực sự trở thành
nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hàng
hóa của một nước có thể chen chân vào thị trường quốc tế hay không còn tùy
thuộc vào việc nước đó áp dụng công nghệ như thế nào. Vì vậy, phát triển
công nghệ trở thành sự lựa chọn tốt nhất trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của các nước, nhất là các nước đang phát triển đi sau về công nghệ muốn
đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững.
1.1.2. Quan hệ biện chứng giữa khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ đều có chung mục đích là phát triển tối ưu các
nguồn năng lực nhằm phục vụ sản xuất, chúng có mối liên hệ mật thiết với

nhau. Công nghệ, theo cách hiểu này, chính là khoa học làm, khoa học hành
động nhằm biến đổi những tri thức khoa học thành nguồn lực cho phát triển
kinh tế, xã hội. Công nghệ chính là hiện thân của tri thức khoa học trong


15
thương mại, dịch vụ, chứa đựng năng lực sáng tạo của con người nhằm đổi
mới, lựa chọn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thiên nhiên – xã hội. Do
vậy, công nghệ được sử dụng như một loại hàng hóa đặc biệt, có thể chuyển
giao, mua bán được. Nếu khoa học tập trung trả lời câu hỏi tại sao, thì công
nghệ lại chú trọng vào việc làm như thế nào, bằng công cụ, phương tiện nào.
Tri thức khoa học phát triển nhằm tạo ra những sản phẩm có tính chất cơ bản,
tiềm năng để sử dụng vào sáng tạo công nghệ. Do thời gian dành cho nghiên
cứu, tìm tòi tri thức khoa học là bất định nhưng thời gian dành cho hoạt động
công nghệ ngắn hơn và có hạn định vì phải tính đến hiệu quả của công nghệ.
Tri thức khoa học có thể được truyền bá qua biên giới nhanh chóng bằng các
phương tiện truyền thông hiện đại, nhưng công nghệ lại gắn liền với vấn đề bí
mật, bản quyền và liên quan đến giá cả.
Khoa học và công nghệ là hai khái niệm khác nhau song có mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại với nhau. Những phát minh của khoa học giúp
con người hành động phù hợp với sự vận động của thế giới khách quan, nhờ
đó hoạt động của con người có hiệu quả hơn. Vì vậy con người luôn tìm cách
phát minh và ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Điều này cho
phép và đòi hỏi khoa học phải phát triển. Ngược lại, chính sự phát triển của
công nghệ làm cho những phát minh khoa học nhanh chóng được ứng dụng
trong thực tiễn. Công nghệ cao giúp cho khoa học phát triển nhanh hơn, thời
gian nghiên cứu khoa học được rút ngắn.
Như vậy, giữa khoa học và công nghệ có mối liên hệ gắn bó mật thiết,
chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có ranh giới, có những nét khác
biệt cơ bản. Nếu như khoa học là tìm kiếm các quy luật khách quan, nó xuất

hiện khi xã hội có nhu cầu, nó chỉ đơn thuần theo đuổi chân lý, tập trung tìm
kiếm tri thức và lý giải nguyên nhân sinh ra tri thức đó thì công nghệ là việc
áp dụng trực tiếp các nguyên lý, các định luật khoa học một cách tối ưu vào


16
chu trình sản xuất. Công nghệ chính là hiện thân của tri thức khoa học trong
đời sống kinh tế - xã hội. Đó là yếu tố xúc tác cho mối quan hệ qua lại giữa tri
thức khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ tạo ra một chỉnh thể gắn
bó, thúc đẩy nhau phát triển nhưng chúng không bị đồng nhất với nhau. Khoa
học làm cho nhận thức tiến triển không ngừng, còn công nghệ lại biến đổi
hiện thực theo hướng ngày càng hoàn hảo hơn.
Nhận xét về mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ trong sản xuất,
Ăngghen viết: “Kỹ thuật phụ thuộc mạnh mẽ vào tình trạng khoa học, khoa
học phụ thuộc vào đòi hỏi của kỹ thuật lại còn mạnh hơn. Nếu xã hội có yêu
cầu về kỹ thuật thì nó sẽ giúp cho khoa học tiến lên phía trước hơn mười
trường đại học” [35; tr.788].
Mặt khác, khoa học nghiên cứu các sự kiện tự nhiên. Kỹ nghệ là ứng
dụng của các kiến thức khoa học để phát triển sản phẩm. Công nghệ là việc sử
dụng các sản phẩm đã kỹ nghệ hóa. Thuật ngữ công nghệ vì vậy thông thường
được đặc trưng bởi các phát minh và cải tiến sử dụng các nguyên lý và quy
trình đã được khoa học phát hiện ra gần đây nhất. Tuy nhiên, thậm chí cả phát
minh cổ nhất như bánh xe cũng là một minh họa cho công nghệ.
Tóm lại, sự phát triển của khoa học - công nghệ đã làm thay đổi sâu sắc
các phương thức lao động của con người, từ lao động thủ công sang cơ khí
hóa, sau đó tiến tới tự động hóa. Sự chuyển biến này kéo theo hàng loạt sự
chuyển biến khác về tính chất lao động, tổ chức sản xuất, cơ cấu sản xuất, giá
thành sản phẩm.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT

1.2.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
* Khái niệm lực lượng sản xuất
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố


17
thuộc về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức... của người lao
động) cùng các tư liệu sản xuất (như đối tượng lao động, công cụ lao động,
các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất...). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành
lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất. Như vậy lực lượng sản xuất
chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng
tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến
các đối tượng trong quá trình sản xuất, tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi
các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và
xã hội.
Trong sản xuất vật chất con người phải sử dụng các năng lực vốn có của
mình, trước hết là những sức mạnh vật chất. Để tác động vào các đối tượng
vật chất, làm thay đổi tính chất, cấu trúc, hình thái của chúng. Nghĩa là, con
người phải tiến hành các quá trình trao đổi vật chất với những đối tượng
khách quan. Những sức mạnh vật chất vốn của mình mà con người dùng để
trao đổi với các đối tượng khách quan, được Mác gọi là “năng lực thuộc về
bản chất” cái mà ngay từ đầu giới tự nhiên đã phú cho con người và về sau
ngày càng phát triển thêm nhờ vào lao động. Trên thực tế, con người sẽ không
thực hiện được bất kỳ một sự trao đổi vật chất nào với các đối tượng khách
quan trong hoạt động của mình, nếu không có năng lực thuộc về bản chất ấy.
Trong tác phẩm: “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” và “Tư
bản”, Mác đã chỉ rõ năng lực đó của con người chính là sức lao động. Và sức
lao động theo Mác là: toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả

năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản
xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội.
Vấn đề là sức lao động được con người sử dụng và phát huy như thế nào,


18
cũng như ở mức độ nào trong sản xuất vật chất, điều đó phụ thuộc vào mục
đích và nhu cầu, năng lực và trình độ của họ, phụ thuộc vào những đối tượng,
tư liệu và phương tiện hoạt động của họ, phụ thuộc vào cách thức họ tổ chức
quá trình sản xuất, phụ thuộc vào những điều kiện khách quan trong đó diễn
ra hoạt động sản xuất của họ. Hơn thế nữa, khi đi vào sản xuất vật chất, con
người còn đưa vào quá trình sản xuất các sức mạnh khác của mình như: kinh
nghiệm và kỹ năng lao động, sở thích và thị hiếu, tình cảm và niềm tin.
Những sức mạnh này tuy không giữ vai trò quyết định, nhưng chúng luôn ảnh
hưởng theo những mức độ khác nhau đến quá trình sản xuất vật chất. Khi lao
động của con người ngày càng mở rộng và nâng cao lên, thì những lực lượng
đó sẽ thâm nhập sâu vào sản xuất vật chất và vai trò của chúng sẽ tăng lên.
Như mọi hoạt động khác của con người, hoạt động sản xuất vật chất phải
có những đối tượng vật chất, đây chính là nguồn của sản phẩm lao động.
Thông qua lao động những đối tượng này sẽ thay đổi tính chất, kết cấu, trạng
thái và sẽ trở thành sản phẩm. Những hành động sản xuất vật chất đầu tiên
của con người chỉ có thể lấy được những đối tượng khách quan ấy từ giới tự
nhiên. Về sau, khi lao động vật chất được mở rộng và nâng cao lên, con người
mở rộng đối tượng sản xuất của mình bằng cách tự tạo ra những đối tượng
mới, mà không tìm thấy chúng ở dạng có sẵn trong tự nhiên.
Như vậy, những đối tượng mà con người dựa vào để cải biến thành sản
phẩm có hai nhóm; nhóm thứ nhất, là những đối tượng “thuần tự nhiên” và
nhóm thứ hai, là những đối tượng do con người tạo ra bằng chính lao động
của mình. Nhóm thứ hai ngày càng tăng lên và dần dần chiếm đa số, còn
nhóm thứ nhất ngày càng giảm đi và dần trở thành tiểu số. Tuy nhiên, những

đối tượng nếu là thuần túy tự nhiên thì chúng cũng không trở thành đối tượng
sản xuất cho con người. Vì những đối tượng này chỉ có thể trở thành đối
tượng sản xuất khi được đặt đối diện với lao động của con người, được họ tác


19
động (gián tiếp hay trực tiếp) và nhất thiết phải có một ý nghĩa nào đó trong
quá trình sản xuất của họ. Ví dụ, một trái cây nào có sẵn trong tự nhiên thì tự
nó không thể là đối tượng hái lượm của con người, mà chỉ khi đối diện với
lao động của con người, nó được con người để ý và hướng hành động của
mình vào, thì khi ấy, nó mới trở nên có ý nghĩa là một đối tượng hái lượm.
Hoạt động sản xuất vật chất đòi hỏi những tư liệu lao động làm khâu
trung gian truyền tải sức lao động từ con người đến với đối tượng, gọi là tư
liệu lao động. Hoạt động sản xuất vật chất phải có những đối tượng vật chất,
đây chính là nguồn của sản phẩm lao động. Thông qua lao động những đối
tượng này sẽ thay đổi tính chất, kết cấu, trạng thái và sẽ trở thành sản phẩm.
Những hành động sản xuất vật chất đầu tiên của con người chỉ có thể lấy
được những đối tượng khách quan ấy từ giới tự nhiên. Nhưng tự thân sức lao
động của con người thì không có hình chất hay hình thái vật thể. Trong Bộ Tư
bản, Mác chỉ rõ rằng: một hàng hóa bất kỳ luôn có sự kết tinh bên trong nó là
sức lao động của con người, nhưng nếu mổ xẻ hàng hóa này ra thì ta không
nhìn thấy một gam hay một tinh thể sức lao động nào ở trong đó. Cho nên sức
lao động không tự hoạt động để đến với đối tượng lao động nếu thiếu tư liệu
lao động. Tư liệu lao động của sản xuất vật chất bao gồm hai thành phần chủ
yếu: công cụ lao động và các phương tiện lao động khác hỗ trợ cho con người
khi sử dụng công cụ cũng như khi tiến hành lao động nói chung. Chính những
tư liệu lao động là chỉ tiêu nói lên trình độ phát triển của sản xuất “những thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”[36; tr.269].
Vấn đề là, mọi tư liệu lao động đều do con người chế tạo ra. Cho nên, trước

khi trở thành khâu trung gian truyền tải sức lao động của con người đến với
đối tượng, thì tư liệu lao động đã là sản phẩm lao động của họ. Ngay cả
những tư liệu được con người tìm thấy ở dạng có sẵn trong tự nhiên cũng có ý


×