Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh long an (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.59 KB, 24 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG NGỌC TRANG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật Hành chính và Luật Hiến pháp
Mã số: 60.38.01.02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Kim Liễu
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
Học Viện Khoa học xã hội
Phản biện 2: TS. Đỗ Minh Khôi
Trường Đại học Luật TPHCM

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội 18 giờ 0 phút ngày 10 tháng 10
năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa giải là một nét đẹp truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Hoạt động hòa giải có lịch sử tồn tại và phát triển
cùng với lịch sử xây dựng và phát triển cùng với lịch sử xây dựng và
phát triển đất nước. Hoạt động này mang đậm tính nhân văn, vì mọi
người và trên cơ sở tình người.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác
dụng của hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở nên có ý nghĩa đối với
Việt Nam nói chung với tỉnh Long An nói riêng. Mặc dù đã có nhiều
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động hoà giải cơ sở,
hòa giải cơ sở ở tỉnh Long An thời gian qua đã đạt nhiều kết quả
quan đáng ghi nhận, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của
Nhà nước và nhân dân; giải quyết kịp thời những vụ việc vi phạm
pháp luật, giữ được an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương;
nhưng thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hoà giải ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Long An vẫn còn những hạn chế nhất định. Thông thường,
những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng
do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng
trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những điểm
nóng về khiếu kiện.
Vì vậy, nghiên cứu toàn diện từ các vấn đề lý luận đến thực
tiễn về thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở để có bức tranh đầy đủ về
những thành tựu cũng như hạn chế hiện nay của công tác quản lý nhà
nước về hòa giải cơ sở là rất cần thiết. Đó là lí do mà tác giả đã lựa
chọn đề tài “Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh
1


Long An” làm đề tài luận văn thạc sĩ, nhằm tìm kiếm những giải

pháp phù hợp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện
pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở
có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu, như:Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước “Xung đột xã hội và đồng thuận xã hội trong
quá trình phát triển xã hội và quản lý xã hội – cơ sở lý luận và thực
tiễn” do GS.TS. Võ Khánh Vinh làm Chủ nhiệm, thuộc Chương trình
khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước “Quản lý phát triển xã
hội trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam”, Hà Nội, 2009; Đề tài khoa
học cấp thành phố “Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong điều kiện hiện nay” do Học viện Tư pháp chủ trì, PGS.TS.
Phan Hữu Thư làm chủ nhiệm;…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở, vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải đó đối với đời
sống xã hội và các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện
pháp luật đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng
pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Từ đó đưa ra những đề xuất, phương hướng và giải pháp để nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Long An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Trong đó, tập trung nghiên cứu thực
trạng giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở trên
2


địa bàn tỉnh Long An, thông qua việc tổng kết, đánh giá của cơ quan

chức năng, những nội dung trên đã bộc lộ những hạn chế nhất định.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện, hệ thống pháp luật Việt Nam về công tác giáo dục pháp luật
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An, nhằm đưa ra giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
hòa giải ở cơ sở địa bàn tỉnh Long An.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp: Tác giả đã đưa ra những quy
định của pháp luật trên cơ sở đó phân tích những điểm phù hợp,
những điểm chưa phù hợp với thực tế áp dụng địa bàn tỉnh Long An.
Phương pháp thống kê: Thông qua thống kê các số liệu về
giáo dục pháp luật và hòa giải trên địa bàn tỉnh Long An.
Phương pháp so sánh: trên cơ sở những phân tích, thống kê số
liệu qua các giai đoạn về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, luận
văn đánh giá, so sánh, đối chiếu giữa quy định pháp luật với nội
dung vấn đề tranh chấp.
Phương pháp lịch sử: Được trình bày đa phần trong Chương 1
và Chương 2 của luận văn. Việc sử dụng phương pháp này nhằm nêu
lên quá trình hình thành và phát triển của hòa giải cơ sở; đường lối,
cách thức, quy trình thực hiện hòa giải cơ sở qua các giai đoạn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về khoa học: Có giá trị tham khảo đ61i với nghiên cứu giảng
dạy về Hòa giải ở cơ sở

3


Về thực tiễn: Giải pháp có ý nghĩa đối với các cơ quan thực

hiện hoạt động Hòa giải tại cơ sở

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục và mục lục, nội dung luận văn được nghiên cứu gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Long An
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở
“Hòa giải ở cơ sở là việc Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích
hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm, làng, bản, ấp, tổ dân phố và các
cụm dân cư khác để hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh
chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc
vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong
nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.[19].

1.1.1.2. Đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
- Hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp
đỡ các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa
thuận để xóa bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm
giềng, góp phần giữ gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
- Hòa giải ở cơ sở được tiến hành bởi hòa giải viên của tổ hòa
giải.
- Phạm vi hòa giải là những tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm
pháp luật được giới hạn theo quy định của pháp luật hòa giải ở cơ sở.
- Hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết
hợp vận dụng quy định của pháp luật với phong tục tập quán truyền
thống, kinh nghiệm của dân gian, hiệu quả là có tính thuyết phục cao,
mang lại kết quả ổn thỏa, lâu bền.

5


- Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật đã và đang ngày càng phát huy vai trò quan trọng
của nó trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống.
- Hòa giải ở cơ sở là một phương thức thực hiện dân chủ ở
làng xã.
- Hòa giải cơ sở thể hiện nét văn hóa của dân tộc.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật hòa giải
ở cơ sở
1.1.2.1.Khái niệm thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
Thực hiện pháp luật HGCS là hoạt động có mục đích nhằm
thực hiện những yêu cầu của pháp luật HGCS làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống góp phần
giải quyết nhanh chóng, kịp thời những tranh chấp nhỏ, những hành

vi vi phạm pháp luật nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân
dân góp phần phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, đảm bảo trật
tự an toàn xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
- Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở vừa mang tính quyền
lực nhà nước vừa mang tính xã hội.
- Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở có phạm vi rộng, chủ
thể thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở đa dạng phong phú.
- Thực hiện pháp luật hòa giải phản ánh các chuẩn mực đạo
đức vận dụng trong đời sống dân cư:
1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
1.2.1. Vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trong
hệ thống cácphương thức giải quyết tranh chấp và sự cần thiết giải
quyết các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng bằng hòa giải
Hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng đều đóng vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Hòa giải ở cơ sở là một trong
6


hình thức hòa giải có vai trò rất tích cực, thiết thực để giúp các bên
tự nguyện, giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp có hiệu quả, một cách
nhẹ nhàng, có lý, có tình vừa hạn chế khắc phục được hậu quả, vừa
giữ gìn được tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái
trong cộng đồng.
Hòa giải ở cơ sở còn trực tiếp tác động đến việc nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Khi hòa giải (dù là hình thức
nào), hòa giải viên đứng ra hòa giải đều phải vận dụng các quy định
pháp luật để giải thích, hướng dẫn các bên tranh chấp, giúp họ hiểu
được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó xử sự phù hợp với quy
định pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội.

1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở đối
với công dân
Thực hiện pháp luật là cơ sở để đảm bảo an toàn xã hội, trong
đó con người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, nghỉ ngơi, tài
sản, bí mật đời tư...không bị xâm hại.
Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở là phương tiện bảo đảm
và bảo vệ quyền con người.
Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở có vai trò giáo dục pháp
luật cho các chủ thể tham gia, đó là giữ vai trò định hướng tư tưởng
cho các chủ thể, là cơ sở hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, thái độ
tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật,.
Hòa giải góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân.
Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống tốt
đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
1.2.3.Vai trò thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở đối với
Nhà nước
7


Pháp luật là công cụ sắc bén để nhà nước bảo vệ mình, bảo vệ
an toàn, tính tôn nghiêm của chính quyền được nâng cao.
Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của tổ
chứchoạt động hòa giải ở cơ sở.
Pháp luật là công cụ kiểm soát quyền lực nhà khai, minh bạch
trong hoạt động hòa giải
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
1.3.1. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Một là, mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm

sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử
dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công
trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do
khác);
Hai là, tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp
về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền
sử dụng đất;
Ba là, tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình
như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa
cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa
anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng;
xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;
Bốn là, vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật
những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, xử lý vi phạm hành chính;
Năm là, vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau
đây:
Không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ luật
tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;
8


Sáu là, vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐCP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm
hành chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật xử lý
vi phạm hành chính;
Bảy là, những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.

1.3.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
+ Thực hiện pháp luật hòa giải phải phù hợp với đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và
phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân.
+ Thực hiện pháp luật hòa giải phải tôn trọng sự tự nguyện của
các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành
hòa giải.
+ Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở phải đảm bảo tính
khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của
các bên tranh chấp.
+ Đảm bảo tính kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi
phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt
được kết quả hòa giải.
1.3.3. Hình thức thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở.
+ Tuân thủ pháp luật hòa giải cơ sở: Là hình thức thực hiện
pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình, không
tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm trong quá trình hòa giải
cơ sở.
+ Chấp hành pháp luật về HGCS: Là hình thức thực hiện pháp
luật mà trong đó các chủ thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý
của mình trong quá trình HGCS với một thái độ tích cực.
9


+ Sử dụng pháp luật về HGCS: Là hình thức thực hiện pháp
luật mà trong đó các chủ thể sử dụng các quyền theo quy định pháp
luật hòa giải để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
quá trình tham gia HGCS
+ Áp dụng pháp luật về HGCS: Là hình thức thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở là hình thức thực hiện pháp luật

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật hòa
giải ở cơ sở
- Yếu tố kinh tế: Ý thức hòa giải, đoàn kết cộng đồng nảy sinh
từ buổi sơ khai của những tộc người Việt và có nguồn gốc từ nền
kinh tế nông nghiệp lúa nước.
- Truyền thống đoàn kết dân tộc và đồng thuận xã hội: Truyền
thống hòa giải, đồng thuận trong xã hội Việt Nam được hình thành
trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
- Ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo đối với việc thực hiện
pháp luật về HGCS. Ở đây bàn đến triết lý hòa giải của Phật giáo.
Mặc dù Việt nam là nước tôn trọng tự do tôn giáo nên có nhiều tôn
giáo cùng tồn tại và phát triển trong đời sống của nhân dân nhưng
ảnh hưởng sâu sắc nhất là Phật giáo - tôn giáo luôn đồng hành cùng
dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.
- Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý: Ý thức pháp luật là một
bộ phận của hình thái ý thức xã hội.

10


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ
SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hòa giải ở cơ
sở tại Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1998 – đến tháng 6/2013
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hoà giải, từ tình
hình tổ chức và hoạt động hoà giải trong thời gian qua và từ thực
trạng pháp luật hiện hành về lĩnh vực này, ngày 25/12/1998, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động

hoà giải ở cơ sở (viết tắt là Pháp lệnh về hòa giải), có hiệu lực từ
ngày 08/01/1999. Ngày 18/10/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh
về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở (viết tắt là Nghị định số
160/1999/NĐ-CP), có hiệu lực từ ngày 01/11/1999.
2.1.2.Giai đoạn từ tháng 6/2013 đến nay
Hoạt động hòa giải ở cơ sở đã ngày càng khẳng định được vị
trí, vai trò của nó trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trong thời gian qua đã bộc lộ
một số tồn tại hạn chế cần được hoàn thiện như: Pháp lênh về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 và Nghị định số
160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Pháp lệnh này chưa quy định cụ thể, đầy
đủ về cơ chế, chính sách cho công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó có
quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, năng lực của đội ngũ hòa giải
viên nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến kết quả
hòa giải ở một số địa phương; việc khen thưởng, chế độ đãi ngộ, thù
11


lao đối với hòa giải viên chưa được ghi nhận; chính sách hỗ trợ về
kinh phí cho hoạt động của Tổ hòa giải chưa được quy định.
2.2. Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở từ thực tiễn
tỉnh Long An
Nhằm triển khai, thi hành những quy định của pháp luật hòa
giải ở cơ sở, đồng thời để thực hiện tốt công tác quản lý, chỉ đạo hoạt
động hòa giải tại địa phương, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Long
An đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác này,
tạo nên một hệ thống khá đồng bộ các văn bản pháp luật về tổ chức
và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Chẳng hạn, Nghị quyết số

156/2014/NQ-HĐND ngày 10/12/2014 về mức chi thực hiện công
tác hòa giải trên địa bàn tỉnh Long An; Quyết định số 06/2015/QĐUBND ngày 20/01/2015 về việc quy định lập dự toán, quản lý, sử
dụng, và quyết toán kinh phí ngân sách Nhà nước thực hiện công tác
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An;Chương trình phối hợp số
2519/CTPH-UBND-UBMTTQVN ngày 16/6/2015 giữa UBND tỉnh
và UBMTTQ Việt Nam tỉnh về việc thực hiện Nghị quyết liên tịch
số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính
phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc
hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật hòa giải
ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An;…
2.3.Tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở từ thực
tiễn tỉnh Long An
2.3.1.Về tổ chức hòa giải cơ cơ sở
- Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2013
Thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
năm 1998 và Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của
12


Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và
hoạt động hoà giải ở cơ sở. Theo Quy trình củng cố, kiện toàn tổ
chức hòa giải “Mặt trận Tổ quốc giới thiệu, nhân dân bầu, chính
quyền công nhận” đã được các địa phương thực hiện nghiêm túc,
chặt chẽ. trong toàn tỉnh có 1.039 Tổ hoà giải/1.024 ấp, khu phố; với
6.995 Hoà giải viên. So với trước khi có Pháp lệnh, số lượng Tổ hoà
giải tăng 2,08 lần (năm 1997 chỉ có 507 Tổ hòa giải), Hoà giải viên
tăng 3,6 lần (năm 1997 chỉ có 1.941 hòa giải viên); trong đó, hòa
giải viên nữ chiếm gần 21,8%, hòa giải viên nam chiếm trên 78,2%
(Phụ lục I kèm theo).
- Từ năm 2014 đến năm 2016:

Thực hiện Quyết định số 2611/QĐ-BTP ngày 04/11/2013 của
Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định
số 650/QĐ-UBND ngày 27/02/2014 ban hành Kế hoạch triển khai
thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật trên địa bàn tỉnh Long An.
2.3.2. Về kết quả hoạt động của thực hiện pháp luật hòa giải
ở cơ sở
- Từ năm 1998 đến năm 2013:
Tổng số vụ việc tiếp nhận hoà giải là: 60.936 vụviệc, trong đó:
tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự 42.210 vụ; tranh chấp phát
sinh từ quan hệ hôn nhân gia đình 2.399 vụ; tranh chấp mâu thuẫn,
xích mích khác 16.327 vụ) Số vụ việc hoà giải thành là 44.544 vụ
việc; chiếm tỷ lệ: 73,1%; Số vụ, việc hòa giải không thành 16.392 vụ
việc chiếm tỷ lệ 26,9% (phụ lục III kèm theo).
- Từ năm 2014 đến năm 2016:

13


Năm 2014: Số vụ việc tiếp nhận 3.261. Trong đó: Hòa giải
thành 2.747 vụ, hòa giải không thành 514 vụ, đạt tỷ lệ 84,24%;
Năm 2015: Số vụ việc tiếp nhận 2.386 vụ. Trong đó: Hòa giải
thành 2.036 vụ, hòa giải không thành 350 vụ, đạt tỷ lệ 85,3 % ;
Năm 2016: Số vụ việc tiếp nhận 2.482 vụ, trong đó: hòa giải
thành 2.180 vụ, hòa giải không thành là 302,m đạt tỷ lệ 87,83%. (Có
phụ lục IV kèm theo)
2.3.3. Về công tác phát huy vai trò của các đoàn thể trong
hòa giải cơ sở:
Điều 30 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: Ủy ban MTTQ Việt
Nam các cấp tham gia quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở; vận động

tổ chức, cá nhân chấp hành pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở; phối hợp kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen
thưởng về hòa giải ở cơ sở. Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
hướng dẫn Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp tham gia tổ chức thực
hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở. Các tổ chức thành viên của Mặt trận
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm thực hiện
hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
2.4. Nhận xét về thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An
2.4.1. Những thành tựu đã đạt được
Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Long An đã được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy Đảng, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể các cấp
trong việc triển khai, tập huấn, trang bị tài liệu, hỗ trợ kinh phí... từ
đó công tác tổ chức triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở và các

14


văn bản hướng dẫn thi hành luật được tiến hành kịp thời, hiệu quả và
tiết kiệm.
2.4.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp
luật hòa giải cơ sở ở tỉnh Long An
2.4.2.1. Những khó khăn, vướng mắc về thể chế:
Thứ nhất, Luật Hòa giải ở cơ sở chỉ điều chỉnh về tổ chức và
hoạt động của các Tổ hòa giải ở cơ sở mà không nói gì về Ban hòa
giải ở các xã, phường, thị trấn.
Thứ hai,về tiêu chuẩn hòa giải viên. Theo quy định tại Điều 7
Luật Hòa giải ở cơ sở, người được bầu làm hòa giải viên phải là công
dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động

hòa giải và có các tiêu chuẩn sau: “Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy
tín trong cộng đồng dân cư;Có khả năng thuyết phục, vận động nhân
dân; có hiểu biết pháp luật”. Có thể nói, nếu so với Pháp lệnh về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998, tiêu chuẩn hòa giải
viên trong Luật Hòa giải ở cơ sở đã có nhiều điểm mới, tiến bộ. Pháp
lệnh hòa giải năm 1998 chỉ quy định hòa giải viên là người:
Thứ ba, Khoản 2 Điều 20 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy
định “Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày được phân công, hòa giải
viên bắt đầu tiến hành hòa giải, trừ trường hợp cần thiết phải hòa giải
ngay khi chứng kiến vụ, việc hoặc các bên có thỏa thuận khác về thời
gian”. Đây là điểm mới so với Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở, nhưng điều Luật lại không quy định thời gian từ khi Tổ
trưởng Tổ hòa giải tiếp nhận yêu cầu của các bên tranh chấp đến khi
phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải là bao nhiêu ngày.
2.4.2.2. Những khó khăn, vướng mắc về tổ chức hòa giải

15


Thứ nhất, về kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải: Chế độ thù
lao cho hòa giải viên hiện nay còn thấp và rất khó thực hiện. Ngày
05/8/2005 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 63/2005/TT-BTC
hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó kinh phí chi cho hoạt động hòa
giải ở cơ sở bao gồm: Chi thù lao hòa giải viên; Sơ kết, tổng kết các
hoạt động hòa giải; Chi thi đua, khen thưởng, mua tài liệu, văn
phòng phẩm phục vụ cho hòa giải viên, in ấn các biểu mẫu, sổ sách
báo cáo. Mức chi thù lao hòa giải viên cơ sở là 50.000 - 100.000
đồng/01 vụ/Tổ hòa giải do ngân sách mỗi cấp thực hiện.
Thứ hai, về đầu tư nguồn nhân lực: Hệ thống cơ quan tư pháp

cơ sở (Phòng Tư pháp cấp huyện, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp
xã) tổ chức chưa ổn định, nhiệm vụ ngày càng nặng nề, phần lớn
phải kiêm nhiệm nhiều việc.
Thứ ba, về điều kiện vật chất: Trên cơ sở quy định về kinh phí
chi cho công tác hòa giải ở cơ sở của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp,
các tỉnh ĐBSCL đều đã quy định mức kinh phí hỗ trợ cho Tổ hòa
giải để mua tài liệu, sổ sách, văn phòng phẩm...phục vụ cho công tác
hòa giải ở cơ sở.
- Tính thiếu chuyên nghiệp của hoạt động Hòa giải cơ sở và
giá trị pháp lý của biên bản hòa giải
2.4.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan
+ Thứ nhất, pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
hiện hành còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, trong Luật Hòa giải ở cơ
sở và Nghị định số 15/CP có quy định còn chung chung, không rõ
ràng.
16


+ Thứ hai, do đặc điểm địa lý, dân cư của địa phương: Long
An là địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, địa bàn rộng, đường sá đi
lại khó khăn, dân cư phân bố rải rác, trong khi đó, số lượng Tổ hòa
giải ít, lực lượng hòa giải viên mỏng thì hoạt động của các Tổ hòa
giải và hòa giải viên thực sự khó khăn.
+ Thứ ba, sức ép của việc làm, nơi ăn chốn ở, mặt trái của
kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh… đã làm cho các mâu
thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân nhất là tranh chấp trong lĩnh
vực đất đai ngày càng gia tăng và phức tạp hơn, trong khi đó số
lượng cũng như trình độ của hòa giải viên còn hạn chế nên ảnh
hưởng đến hiệu quả hòa giải.

+ Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta thường xuyên
được bổ sung, sửa đổi, gây khó khăn cho các hòa giải viên trong việc
vận dụng pháp luật vào hoạt động hòa giải.
+ Thứ năm, nhiều người dân chưa nhận thức được đúng vị trí,
vai trò, nhiệm vụ của Tổ hòa giải hoặc không tin tưởng vào hoạt
động hòa giải nên có thái độ thiếu hợp tác với Tổ hòa giải, muốn đến
chính quyền để giải quyết.
+ Thứ sáu, nguồn ngân sách nhà nước ở các tỉnh, đặc biệt là ở
cấp huyện, xã còn rất khó khăn nên việc bố trí kinh phí cho công tác
hòa giải còn hạn chế, việc huy động kinh phí hỗ trợ của các tổ chức,
cá nhân cho công tác hòa giải rất ít.
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Yếu tố địa lý - kinh tế.
- Yếu tố tâm lý - xã hội
- Yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc

17


Tuy nhiên, bên cạnh đó, sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo, văn
hoá, kinh tế lại cũng có thể là nguyên nhân làm nảy sinh những xích
mích, mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, hơn nữa, quá trình đô thị
hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở Long An cũng tiềm ẩn những khả năng
phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn phức tạp, đa dạng, gây ra những
thách thức, khó khăn đối với công tác hòa giải, nhất là trong điều
kiện trình độ dân trí và trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế.
+ Thứ nhất, ở một số nơi, cấp ủy, chính quyền chưa thực sự
nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của công tác hòa giải đối với
đời sống xã hội nên thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh
phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải.

+ Thứ hai, cơ quan tư pháp các cấp ở nhiều nơi chưa thực sự
chủ động, làm tốt vai trò tham mưu giúp UBND cùng cấp trong quản
lý công tác hòa giải ở địa phương.
Kết luận chương 2
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, chỉ ra những hạn chế
trên các mặt từ tổ chức bộ máy đến hoạt động hòa giải thực tế, luận
văn đã làm rõ những nguyên nhân mang tính khách quan (trong đó
tập trung là sự thiếu hoàn thiện của pháp luật hòa giải cơ sở nói
chung) và những nguyên nhân chủ quan của tỉnh Long An (từ kinh
tế, văn hóa đến truyền thống đạo lý... và trình độ năng lực của đội
ngũ làm công tác hòa giải của Tỉnh). Những nguyên nhân cho thấy,
cần có các giải pháp tích cực để tăng cường thực hiện pháp luật hoa
giải cơ sở, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trên địa bàn
tỉnh Long An và góp phần bảo về quyền của công dân, giải quyết
hiệu quả các bất đồng mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư.

18


Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA
GIẢI CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
3.1. Quan điểm tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Long An
3.1.1. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các
đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở
3.1.2. Phát huy vai trò hòa giải ở cở sở là phương thức dân
chủ nhưng phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội
3.1.3. Thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở luôn lấy mục tiêu

hướng đến là tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện pháp luật hòa giải
cơ sở ở tỉnh Long An
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân dân về vai trò
của công tác hòa giải ở cơ sở, phát huy vai trò của các chủ thể
thực hiện pháp luật hòa giải.
Với đặc điểm truyền thống văn hóa bao đời nay của người dân
Long An và cơ sở, căn cứ để hòa giải khi có mâu thuẫn, tranh chấp
xảy ra, đã đặt ra vấn đề cần phải phát huy hơn nữa nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sức dân tộc để vận dụng trong HGCS. Hiện nay
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra cho nhà nước là cần thay đổi cách thức
quản lý xã hội. Nhà nước ngày càng phải hạn chế sự can thiệp vào
các quan hệ có tính chất “tư” giữa các chủ thể, tôn trọng quyền tự do
thỏa thuận, quyền tự định đoạt của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
19


Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Tổ hòa
giải vừa là yêu cầu cấp bách do thực tiễn khách quan đòi hỏi, vừa là
hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổ hòa giải.
Pháp luật hòa giải đã xây dựng các chuẩn mực pháp lý cho các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân thực hiện quản lý và tham
gia công tác hòa giải và là cơ sở pháp lý để củng cố, kiện toàn tổ
chức, tăng cường hoạt động của Tổ hòa giải, bảo đảm các vi phạm
pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân được phát hiện kịp thời
và được giải quyết ngay từ cơ sở.
3.2.3. Hoàn thiệnvề tổ chức bộ máy thực hiện hòa giải ở cơ
sở

Luật Hòa giải cần mở rộng thêm phạm vi điều chỉnh bao gồm
cả Ban hòa giải ở cơ sở, đồng thời quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức
của Ban hòa giải. Vì hiện nay, nhất là từ sau khi Luật Đất đai năm
2003 có hiệu lực thi hành thì ở nhiều địa phương trong cả nước có
mô hình Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) được thành lập ở xã,
phường, thị trấn. Ban hòa giải (Hội đồng hòa giải) cấp xã có trách
nhiệm giải quyết những vụ việc do Tổ hòa giải hòa giải không thành
chuyển lên hoặc đối với những vụ việc phức tạp thì Ban hòa giải
phối hợp cùng Tổ hòa giải để giải quyết.
3.2.4. Đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và
nghiệp vụ cho những người làm công tác hòa giải ở cơ sở
Hiện nay, do nhu cầu khách quan mà việc ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật của trung ương cũng như của địa phương
các cấp ngày càng nhiều nhằm thực hiện công tác quản lý nhà nước
và hướng dẫn, yêu cầu về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ. Vì vậy,

20


việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hòa giải
cho các hòa giải viên là hết sức cần thiết.
3.2.5. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra đối với công tác hòa
giải ở cơ sở
Thực tiễn hoạt động của công tác HGC ở tỉnh Long An cho
thấy, nơi nào được sự quan tâm theo dõi, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời từ
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp thì công tác hòa giải ở đó luôn đạt
hiệu quả cao. Với việc thực hiện đúng các chức năng nhiệm vụ được
giao như: ban hành Chỉ thị, Kế hoạch, Quy chế phối hợp...

21



KẾT LUẬN
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở,
phát huy vai trò trong đời sống cộng đồng, đáp ứng được những yêu
cầu, đòi hỏi của xã hội, những giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở cần được tiến hành, triển khai một cách đồng
bộ để công tác hòa giải ở tỉnh Long An nói riêng và cả nước nói
chung ngày một phát triển, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới./.

22



×