Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng Ngoại ngữ Tiếng Anh ở nước ta hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.19 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VÕ ANH TRƯỜNG

“VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
NGOẠI NGỮ - TIẾNG ANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY”

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Khắc Bình

Phản biện 1:

...................................................................
...................................................................

Phản biện 2:

...................................................................
...................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc


sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội ……… giờ …….. ngày …….
Tháng …….. năm….....

Có tể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực có
bước phát triển qua các thời kỳ Đại hội và ngày càng trở nên hoàn
thiện hơn, sâu sắc hơn. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ năm 1991, Đảng ta đã chỉ rõ con người chính là nguồn lực
quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng
thịnh của đất nước. Đảng ta luôn đưa ra những chiến lược phát triển
con người và khẳng định sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực
nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước.
Căn cứ những thực tế đó, Đảng và Chính Phủ đã có nhiều
chính sách để nhằm phát triển chất lượng hoạt động Đào tạo Ngoại
ngữ - Tiếng Anh (TA) tại Việt Nam. Theo đó tại Quyết định số
1400/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : Về việc phê duyệt Đề án
"Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn
2008 – 2020". Đề án đã được ban hành và thực hiện trong gần 10
năm, phần nào đã cải thiện được chất lượng giảng dạy và trình độ
ngoại ngữ - TA cho rất nhiều giáo viên, sinh viên, học sinh và rất
nhiều cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước. Tuy nhiên kết thúc
hơn phân nửa thời gian thực hiện, Đề án cũng đã bộc lộ nhiều khuyết
điểm, sai sót trong việc đặt vấn đề, mục tiêu, cách thức thực hiện,
nguồn lực và giám sát việc thực hiện Đề án. Những vấn đề bất cập
đó đã được nêu ra trong các Kết luận của Bộ Giáo dục, Hội thảo
khoa học chuyên đề và mới đây trong buổi Chất vấn của Quốc hội

khoá XIV, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ đã thừa nhận
không thực hiện được các mục tiêu của Đề án vào năm 2020. Theo
giải thích của Bộ trưởng và các chuyên gia về giáo dục là trong quá
1


trình hoạch định Đề án và thực hiện Đề án đã có nhiều thiếu sót. Đặc
biệt là trong quá trình xác định vấn đề, đặt mục tiêu của Đề án quá
cao, vượt quá tầm điều kiện giáo dục Việt Nam, kèm theo đó là
nhiều mục tiêu mơ hồ, thiếu cơ sở khoa học và kiểm chứng để có thể
đánh giá sự thành công hay thất bại của Đề án.
Từ những lý do cấp thiết nêu trên, Học viện mạnh dạn chọn
đề tài “Vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng Ngoại ngữ - Tiếng
Anh ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp
chương trình thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với mong muốn
góp phần nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng Ngoại ngữ - Tiếng Anh ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thực tế, có rất ít các nhà khoa học nghiên cứu đề tài
này dưới góc nhìn Khoa học Chính sách. Tuy nhiên, xét trên những
góc độ về “Khoa học chính sách”, “Đào tạo Ngoại ngữ”, nhiều nhà
khoa học đã có được những đề tài sau:
Đào Hồng Thu (1996) - “Dạy và học ngoại ngữ ở môi
trường không chuyên ngữ”, Tạp chí khoa học và công nghệ 4
trường đại học, số 12.
Trần Mai Ước (2016) - “Giáo dục Việt Nam với xu thế
toàn cầu hoá”, Đại học Ngân hàng Tp. HCM.
Văn Tất Thu (2012) - “Yêu cầu nâng cao chất lượng trình
độ, năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế” - Kỷ yếu

hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản - Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia tổ chức 8/2012 tại Hà Nội;
2


Văn Tất Thu (2017) - “Vấn đề Chính sách phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước – Chuyên
mục Nghiên cứu, trao đổi;
Văn Tất Thu (2016) - “Năng lực thực hiện chính sách công
- những vấn đề lý luận và thực tiễn” - Tạp chí Tổ chức Nhà Nước;
Tuy nhiên, như tác giả đã đề cập phía trên. Hiện nay, chưa
có đề tài nghiên cứu vấn đề Đào tạo ngoại ngữ - Tiếng Anh dưới góc
nhìn Khoa học Chính sách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
Ngoại ngữ-Tiếng Anh và khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức thực
hiện chính sách đào tạo Ngoại ngữ-Tiếng Anh hiện nay để đề xuất
giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo Ngoại ngữ - Tiếng
Anh tại Việt Nam trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách đào
tạo Ngoại ngữ - Tiếng Anh.
- Đánh giá việc tổ chức thực hiện các chính sách đào tạo
Ngoại ngữ - Tiếng Anh tại Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
Ngoại ngữ-Tiếng Anh ở Việt Nam trong giai đoạn mới của đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo Ngoại ngữ - Tiếng
Anh tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
3


- Về nội dung: Nghiên cứu tổ chức thực hiện chính sách đào
tạo Ngoại ngữ - Tiếng Anh tại Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng con người mới, nguồn nhân
lực chất lượng cao và hội nhập quốc tế. Để thực hiện đề tài, tác giả
thu thập số liệu, tham khảo các tài liệu, sách khoa học chuyên khảo,
tạp chí khoa học và chuyên ngành, những luận văn, đề tài nghiên cứu
khoa học của các nhà nghiên cứu trong nước về lĩnh vực quản lý nhà
nước và tài liệu trên mạng internet. Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp,
tổng kết thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên
quan đến vấn đề chính sách đào tạo Ngoại ngữ - Tiếng Anh tại Việt
Nam và ảnh hưởng của chính sách này đến việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, xác định đúng thực trạng, những vấn đề còn
tồn tại của chính sách hiện hành, xác định nguyên nhân của những
vấn đề này. Từ kết quả nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề của chính
sách đào tạo Ngoại ngữ - Tiếng Anh, minh chứng các học thuyết liên
quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất giải
pháp để hoàn thiện chính sách.

7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 03
phần chương:
4


Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG
ANH
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG
ANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chương 3: GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG ANH TẠI
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI

5


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG ANH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chính sách, chính sách công
Chính sách công là những quyết sách mang tính chính trị của
nhà nước mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung và riêng để
dẫn dắt sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu xã hội của người
dân. Chính sách công có thể chi phối chung, song có những chính
sách chi phối cụ thể riêng biệt đối với từng ngành, từng lĩnh vực của
đời sống xã hội.

1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện chính sách công:
Tổ chức thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu
trình chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực. Tổ chức thực hiện chính sách có vị trí
đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hoá chính sách vào đời sống
xã hội.
1.1.3. Khái niệm Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội
thông qua những khả năng về thể lực, trí lực và tâm lực của người
lao động.
1.1.4. Một số khái niệm chuyên môn Ngoại ngữ - Tiếng Anh:
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (sau
đây gọi là Khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam, viết tắt:
KNLNNVN) áp dụng cho các chương trình đào tạo ngoại ngữ, các
6


cơ sở đào tạo ngoại ngữ và người học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
VSTEP là từ viết tắt của tiếng Anh Vietnamese Standardized
Test of English Proficiency là kỳ thi đánh giá năng lực tiếng Anh
theo Khung năng lực ngoại ngữ (NLNN) 6 bậc dùng cho Việt Nam
(tương đương với trình độ A1, A2, B1, B2, C1,C2).
CEFR là một cách để mô tả khả năng nói và hiểu một ngoại
ngữ của bạn. Có một vài khung tham chiếu với mục đích tương tự
bao gồm Quy Tắc Thành Thạo của Hội đồng Giảng dạy Ngoại ngữ
Hoa Kỳ (ACTFL), Tiêu Chuẩn Ngôn Ngữ Canada (CLB), và thang
đánh giá của Hội Bàn Tròn Các Tổ Chức Ngôn Ngữ (ILR). CEFR
không gắn với bất kỳ bài kiểm tra ngôn ngữ cụ thể nào.
IELTS là viết tắt của từ International English Language

Testing System (tạm dịch: Hệ thống kiểm tra tiếng Anh quốc tế)
được sáng lấp bởi 3 tổ chức ESOL thuộc Đại học Cambridge, Hội
đồng Anh và tổ chức giáo dục IDP (Úc) vào năm 1989.
1.2. Vị trí và vai trò của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng Ngoại ngữ
- Tiếng Anh đối với việc phát triển nguồn nhân lực cao và hội
nhập kinh tế thế giới.
Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Tiếng Anh được xem
là ngôn ngữ sử dụng phổ biến nhất thế giới khi mà có gần 60 quốc
gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng mẹ đẻ và
gần 100 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Vì vậy,
ngoại ngữ này có vai trò rất quan trọng trong thời kỳ hội nhập toàn
cầu hóa hiện nay. Mối quan hệ của con người cũng như sự hợp tác,
đầu tư trong bất kỳ lĩnh vực nào từ kinh doanh, thương mại, giao
thông, công nghệ, truyền thông, du lịch…đến những cơ hội trong học
7


tập, làm việc, mở rộng các mối quan hệ để hợp tác đều không chỉ bó
hẹp ở Việt Nam mà còn mở rộng ra các nước khác trên thế giới.
Tiếng Anh chính là một trong những công cụ hữu hiệu, đóng vai trò
to lớn trong việc giúp bạn bè năm châu hiểu được tiếng nói của Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
1.3. Quan điểm của Đảng về Đổi mới Giáo dục và Xây dựng con
người phát triển toàn diện
Điểm mới trong quan điểm của Đại hội Đảng XII về giáo
dục đào tạo chủ yếu thể hiện ở các giải pháp cụ thể phát triển giáo
dục, đào tạo được nêu trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020, trong
đó có một số điểm mới cần lưu ý.

Một là, Nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, Báo cáo
chỉ rõ, cần: "Đổi mới khung chương trình, quan tâm hơn đến yêu cầu
tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ
thông; nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp
trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu
ở bậc đại học".
Hai là, đối với giáo dục đại học, cần: "Phát triển giáo dục
đại học theo hướng hình thành cơ sở giáo dục đại học định hướng
nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở
đại học định hướng thực hành".
Ba là, đối với chính sách về giáo dục, Báo cáo khẳng định
"Phát triển hợp lý và bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và
giáo dục ngoài công lập. Ngân sách nhà nước bảo đảm cho giáo dục
phổ cập; tiếp tục kiên cố hóa trường, lớp học công lập. Khuyến khích
8


xã hội hóa đầu tư phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các
cấp học và trình độ đào tạo. Thí điểm chuyển mô hình trường công
lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu
tư phát triển. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh
nghiệp".
1.4. Tổ chức thực hiện Đề án Ngoại ngữ Quốc gia đến năm 2020
Ngày 30 tháng 09 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định ban hành Quyết định số 1400/QĐ – TTg về phê duyệt Đề
án “Dạy và học Ngoại ngữ trong hệ thống Giáo dục Quốc dân giai
đoạn 2008 – 2020”
ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐỀ ÁN:
- Giáo viên các môn – đặc biệt giáo viên Ngoại ngữ - TA,
học sinh, cán bộ viên chức quản lý giáo dục trong hệ thống giáo dục

phổ thông các cấp Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học
phổ thông.
- Giảng viên, sinh viên các trường thuộc hệ thống đào tạo
Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, dạy nghề.
- Học viên các khoá Đào tạo Sau Đại học, chuyên gia nghiên
cứu,…
Nội dung chính của đề án gồm 3 phần:
MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
giáo dục quốc dân, triển khai chương trình dạy và học ngoại ngữ mới
ở các cấp học, trình độ đào tạo, nhằm đến năm 2015 đạt được một
bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn
nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số
9


thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ
năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập,
làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa; biến
ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Triển khai thực hiện chương trình giáo dục 10 năm, bắt
đầu từ lớp 3 môn ngoại ngữ bắt buộc ở các cấp học phổ thông;
b) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại
ngữ đối với giáo dục nghề nghiệp cho khoảng 10% số lượng học sinh
dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp vào năm học 2010 - 2011, 60%
vào năm 2015 - 2016 và đạt 100% vào năm học 2019 - 2020;
c) Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại

ngữ đối với giáo dục đại học (cả các cơ sở đào tạo chuyên ngữ và
không chuyên ngữ) cho khoảng 10% số lượng sinh viên cao đẳng,
đại học vào năm học 2010 - 2011; 60% vào năm học 2015 - 2016 và
100% vào năm 2019 - 2020;
d) Đổi mới việc dạy và học ngoại ngữ trong chương trình
giáo dục thường xuyên với nội dung, chương trình đào tạo phù hợp
với các cấp học, trình độ đào tạo góp phần tích cực vào công tác bồi
dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực, đội ngũ cán
bộ, viên chức; thực hiện đa dạng hóa các hình thức học tập, đáp ứng
nhu cầu người học.
Phấn đấu có 5% số cán bộ, công chức, viên chức trong các
cơ quan nhà nước có trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2015
và đạt 30% vào năm 2020.
10


NHIỆM VỤ
1. Quy định môn ngoại ngữ được dạy và học trong các cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân là tiếng Anh và một số
ngôn ngữ khác.
2. Xây dựng và ban hành khung trình độ năng lực ngoại ngữ
thống nhất, chi tiết gồm 6 bậc, tương thích với các bậc trình độ ngoại
ngữ quốc tế thông dụng để làm căn cứ biên soạn chương trình, giáo
trình, kế hoạch giảng dạy và xây dựng tiêu chí đánh giá ở từng cấp
học, trình độ đào tạo, bảo đảm sự liên thông trong đào tạo ngoại ngữ
giữa các cấp học.
3. Xây dựng và triển khai chương trình mới đào tạo ngoại
ngữ bắt buộc ở cấp học phổ thông đạt các bậc trình độ như sau: tốt
nghiệp tiểu học đạt trình độ bậc 1 theo KNLNN; tốt nghiệp trung học
đạt trình độ bậc 2 theo KNLNN; tốt nghiệp trung học phổ thông đạt

trình độ bậc 3 theo KNLNN.
4. Triển khai đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối
với giáo dục chuyên nghiệp (trung cấp và dạy nghề) với mức trình độ
tối thiểu đạt được bậc 2 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trường nghề
và bậc 3 theo KNLNN sau khi tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
5. Triển khai đào tạo theo chương trình ngoại ngữ mới đối
với giáo dục đại học. Nội dung chương trình đào tạo ngoại ngữ trong
các cơ sở giáo dục đại học có thể áp dụng cho hai nhóm đối tượng
chính: một nhóm dành cho các đối tượng người học đã học ngoại
ngữ theo chương trình 7 năm ở phổ thông và một nhóm dành cho các
đối tượng người học đã học theo chương trình ngoại ngữ 10 năm ở
phổ thông.
11


6. Thực hiện đổi mới chương trình đào tạo ngoại ngữ đối với
giáo dục thường xuyên.
7. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá trong đào tạo
ngoại ngữ; xây dựng các dữ liệu ngân hàng câu hỏi, phục vụ cho việc
kiểm tra, đánh giá trình độ ngoại ngữ của người học; tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong đào tạo môn ngoại ngữ; nâng cao
hiệu quả công tác khảo thí và kiểm định chất lượng đào tạo các môn
ngoại ngữ.
GIẢI PHÁP
1. Thành lập Ban Chỉ đạo ở Trung ương để chỉ đạo tổ
chức triển khai thực hiện Đề án này gồm đại diện lãnh đạo các Bộ,
cơ quan liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm
Trưởng ban.
2. Tổ chức rà soát, quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo,
đào tạo lại, bồi dưỡng, tuyển dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên

trong các cơ sở giáo dục và cả nước, bảo đảm đáp ứng nhu cầu về
số lượng, cơ cấu, trình độ đào tạo.
3. Nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các cơ
chế, chính sách chế độ cần thiết, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của
công tác giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ việc
dạy và học ngoại ngữ
5. Tăng cường hợp tác quốc tế trong dạy và học ngoại ngữ
6. Xây dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học
ngoại ngữ, tạo động cơ học tập ngoại ngữ của thế hệ trẻ Việt Nam.
Kết luận chương 1
12


Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG ANH Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Vấn đề chính sách đào tạo, bồi dưỡng Ngoại ngữ - Tiếng Anh
tại Việt Nam theo Đề án 2020.
Vấn đề chính sách Đào tạo Ngoại ngữ - TA theo Đề án 2020
bao gồm:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng các
tiêu chuẩn, chuẩn mực, chứng chỉ nghề nghiệp, quốc tế.
Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, tạo ra một đội
ngũ nhân lực có khả năng tiếp thu các công nghệ khoa học hiện đại,
đưa đi đào tạo nước ngoài sau đó trở về phục vụ quê hương.
Sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao, ngoại ngữ tốt để
giao lưu thương mại quốc tế, mang tầm vóc Việt Nam nâng cao trên

trường quốc tế. Giúp Việt Nam trở thành một trong những trọng tâm
phát triển kinh tế quốc tế.
2.2. Thực tiễn thực hiện Đề án 2020 và các vấn đề còn tồn tại
trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng Ngoại ngữ - Tiếng Anh tại
Việt Nam
2.2.1. Thành tựu của đề án đối với đời sống kinh tế - xã hội
- Đề án Giáo dục Ngoại ngữ 2020 đã được thực hiện hơn phân nửa
đoạn đường từ năm 2008 đến năm 2017. Đề án thật sự đã có nhiều
tác động đến đời sống kinh tế - xã hội đặc biệt là giáo dục và chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam.
Đề án đã tạo ra được bộ Khung năng lực ngoại ngữ dành cho
Việt Nam. Đây là kết quả qua nhiều năm nghiên của của đội ngũ
13


chuyên gia Bộ Giáo dục. KNLNN là một tiêu chuẩn đánh giá khả
năng sử dụng Ngoại ngữ (không chỉ tiếng Anh) dành cho Việt Nam
theo tiêu chuẩn quốc tế, được các tổ chức khảo thí quốc tế hỗ trợ xây
dựng và thừa nhận giá trị.
Sự đầu tư có định hướng của Bộ Giáo dục Đào tạo cơ bản đã
giúp cho Việt Nam hình thành các Trung tâm đào tạo và khảo thí có
chất lượng chuyên môn cấp Quốc gia. Bộ đã chỉ đạo các Trường Đại
học trọng điểm thực hiện việc hoàn thiện cở sở vật chất, chất lượng
giáo viên và bài giảng, công tác tổ chức thi, chấm thi và cấp chứng
chỉ. Từ đó hình thành các Trung tâm khảo thí năng lực ngoại ngữ
trên khắp cả nước, ngoài các tổ chức quốc tế được phân công thì còn
có rất nhiều trường Đại học công lập Việt Nam đủ tiêu chuẩn kiểm
tra đánh giá năng lực Ngoại ngữ như: - Trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế
- Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng - Trường Đại học
Hà Nội - Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM - Trường Đại học Thái

Nguyên - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Trường Đại học VinhTrường Đại học Cần Thơ (Thông báo Kết luận số 826/TB-BGDĐT
ngày 5/8/2011; số 896/TB-BGDĐT ngày 24/8/2011; số 42/TBBGDĐT ngày 11/1/2013).
Đối với các cấp học phổ thông. Đề án đã tạo được sự thống
nhất trong đào tạo ở các khối lớp trong 1 cấp và ở các cấp với nhau.
Số lượng học sinh cấp 1 được đào tạo Ngoại ngữ - Tiếng Anh đã có
sự cải thiện rõ rệt. Số lượng học sinh lớp 03 được đào tạo Ngoại ngữ
bắt buộc theo chương trình 10 năm đã đạt con số trên 50%. Số liệu
này tại các đô thị lớn như Hà Nội và Tp. HCM là trên 90%. Đặc biệt
tại Tp. HCM, các quận trung tâm đã và đang áp dụng việc dạy 6
14


ngoại ngữ trong các trường tiểu học điểm. Bao gồm Tiếng Anh,
Tiếng Nhật, Tiếng Pháp, Tiếng Hoa, Tiếng Hàn và tiếng Đức.
Đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đề án
ngoại ngữ 2020 là tiền đề cần thiết để Chính phủ ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn ngoại ngữ đối với
việc xây dựng đội ngũ CBCC trong cơ quan nhà nước. Đề án là tiền
đề, cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý để Bộ Giáo dục và Đào tạo xây
dựng, ban hành và thực hiện Thông tư 01: “Ban hành khung năng
lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam”.
2.1.2. Hạn chế của đề án đối với kinh tế - xã hội
Sau hơn 8 năm thực hiện đề án, cả nước có khoảng 1,6 triệu
học sinh lớp 3, 4, 5 trên tổng số gần 7,8 triệu học sinh được học tiếng
Anh 4 tiết/tuần. Trong khi đó, mục tiêu đặt ra là đến năm 2020,
100% học sinh lớp 3 học chương trình tiếng Anh 10 năm và tiến tới
phổ cập tiếng Anh tại các trường phổ thông vào năm 2025.
Đặc biệt, kết quả thi môn ngoại ngữ trong kỳ thi tốt nghiệp
và THPT quốc gia những năm gần đây một lần nữa chứng minh việc
"phổ cập tiếng Anh trong trường phổ thông các cấp" vào năm 2025

như đề án đặt ra là không tưởng.
Năm 2015, phổ điểm môn ngoại ngữ tập trung ở 2,5 đến 3
điểm, hơn 70% thí sinh đạt điểm dưới trung bình. Năm 2016, gần
90% thí sinh đạt điểm ngoại ngữ dưới trung bình.
Năm 2015, đội ngũ giáo viên đạt chuẩn của nhiều tỉnh chỉ
chiếm chưa đến 1/5 như ở Hà Giang, Tuyên Quang, Bạc Liêu.. 25%
các trường đại học cũng chưa xác định chuẩn đầu ra ngoại ngữ phù
hợp với mục tiêu của Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020.
15


Các chương trình đào tạo chậm đổi mới. Chương trình bồi
dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực còn chưa
kịp thời. Đề án tỏ ra lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch, lộ trình
bồi dưỡng giáo viên, sinh viên để đạt chuẩn và nâng cao năng lực
ngôn ngữ. Việc sử dụng, khai thác trang thiết bị sẵn có hoặc do đề án
cung cấp bị hạn chế.
Đề án chưa có cơ chế cho các trường tự chọn chương trình,
sách giáo khoa phù hợp với đối tượng học sinh. Chương trình, sách
giáo khoa, việc tổ chức kiểm tra đánh giá môn ngoại ngữ ở cấp phổ
thông còn nhiều bất cập.
Phân bổ kinh phí không cân đối giữa các hạng mục chi; sử
dụng ngân sách lãng phí, đặc biệt ở khâu mua sắm thiết bị dạy học
(mua sắm thiết bị mới mà không rà soát, kiểm kê thiết bị đã có, mua
các thiết bị công nghệ thông tin chỉ có phần cứng, không có các phần
mềm ứng dụng đi kèm nên không sử dụng được hoặc không khai
thác hết được tính năng của thiết bị).
Lạm dụng việc tổ chức bồi dưỡng giáo viên theo hình thức
vừa học vừa làm; không giám sát chặt chẽ việc đánh giá kết quả bồi
dưỡng, dẫn đến chất lượng bồi dưỡng giáo viên không đạt yêu cầu.

Chưa tổ chức kiểm tra, thanh tra việc triển khai thực hiện Đề án tại
địa phương để kịp thời phát hiện và khắc phục những hạn chế, thiếu
sót trong quá trình triển khai thực hiện Đề án.
Quá trình thực hiện Đề án, khi gặp phải khó khăn trong việc
chuyển đổi giữa hệ thống chứng chỉ cũ và mới. Bộ Giáo dục đã có
công văn trả lời số 6089 “Về việc quy đổi chứng chỉ Ngoại ngữ”.
Theo đó chứng chỉ Ngoại ngữ mới được quy đổi giá trị ngang bằng
hệ thống chứng chỉ cũ (Quy định theo Quyết định số 177/QĐ –
16


TCBT của Bộ Giáo dục năm 1997). Theo đó chứng chỉ A1 tương
đương chứng chỉ A cũ, chứng chỉ A2 tương đương B cũ, chứng chỉ
B1 tương đương C cũ. Theo người viết đây là một bước lùi về mặt lý
luận của Ban quản lý đề án. Bởi vì hệ thống chứng chỉ cũ đã được áp
dụng từ năm 1997. Dù đã có nhiều lần cập nhật theo chương trình
mới, nhưng tư duy tổ chức, giảng dạy đã cũ, không thể sửa đổi.
Trong khi đó Đề án 2020 là đề án mới, được soạn thảo dựa theo
những tư duy mới về đào tạo ngoại ngữ, theo tiêu chuẩn mới của
quốc tế. Việc quy đổi ngang bằng giữa hai hệ thống này là hết sức vô
lý. Tạo điều kiện cho hệ thống chứng chỉ cũ vẫn tiếp tục tồn tại, ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện Đề án 2020.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đề án đã có dấu hiệu xảy
ra tiêu cực tại các Trung tâm khảo thí được Bộ Giáo dục giao trách
nhiệm đào tạo, tổ chức thi và cấp chứng chỉ Ngoại ngữ - TA cho các
đối tượng của Đề án. Lợi dụng việc chưa có quy định cụ thể về công
tác đào tạo, khảo thí và đảm bảo chất lượng. Một số đơn vị vì lợi ích
kinh tế đã có sự phối hợp với các đối tượng bên ngoài, “móc nối”,
“tạo nguồn” học viên cho các Trung tâm Khảo thí. Đáng nói hơn là
một số đơn vị này có sự liên hệ với các đơn vị quản lý cán bộ, công

chức, viên chức địa phương. Ban hành các văn bản “ép buộc” các đối
tượng thuộc đề án 2020 bắt buộc phải có chứng chỉ để bổ sung hồ sơ
hoàn thành tiêu chuẩn nghề nghiệp. Lợi dụng nhu cầu ngày càng cao
của các đối tượng cán bộ, công chức, viên chức, các Trung tâm Khảo
thí nhằm mục tiêu kinh tế đã để lỏng việc tổ chức ôn tập và khảo thí,
cố tình làm ngơ để cho học viên dễ dàng đạt được các tiêu chuẩn
này. Theo nhiều báo cáo của các cuộc điều tra của phóng viên thì chi
phí để thi các chứng chỉ này luôn từ mức 4.000.000 – 6.000.000
17


VNĐ trở lên. Trong khi chi phí thi thực tế chỉ từ 1.500.000 –
2.000.000. Đây rõ ràng là việc lợi dụng chính sách để trục lợi cá
nhân, “kinh doanh giáo dục siêu lợi nhuận”. Bộ Giáo dục đã nhiều
lần thanh tra và xử lý sai phạm. Tuy nhiên do lợi nhuận khủng khiếp
và cơ chế quản lý còn lỏng lẻo nên sự việc không thể xử lý đến nơi
đến chốn. Làm mất lòng tin của nhân dân vào chính sách của Đảng
và Nhà nước, làm hư hỏng cán bộ quản lý giáo dục, tạo lợi ích nhóm
trong hoạt động Giáo dục. Hạn chế việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực do việc học giả - thi thật, tạo tâm lý “mua – bán” trong việc
thi cử, làm mất đi bản chất trí tuệ và nhân văn của Giáo dục, khiến
cho quá trình đánh giá chính sách bị sai lệch vì số liệu ảo. Các đối
tượng của chính sách thực tế không hưởng được những lợi ích của
chính sách mà còn bị gây khó khăn, bị ép buộc phải hoàn thành chỉ
tiêu,…
Một trong những mâu thuẫn xuất hiện từ việc ban hành và
thực hiện Đề án mà người viết, trong quá trình công tá của bản thân
nhận ra. Đó là khi Đề án giáo dục ngoại ngữ là cơ sở của các văn bản
quy phạm pháp luật như thông tư 01 quy định về “Khung năng lực
ngoại ngữ cho Việt Nam” và các thông tư, thông tư liên tịch của các

Bộ Giáo dục, Bộ Y tế và Bộ Nội vụ quy định về tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp các ngành nghề Giáo viên, Y tế và Hành chính.
Điều đó không những không giúp cho nhân sự các ngành nghề này
nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. Mà thực tế là một gánh nặng. Bởi
vì 3 lĩnh vực này là 03 lĩnh vực có đông nhân lực nhất trong cơ quan
nhà nước (theo thống kê không chính thức của Bộ Nội vụ năm 2015
là khoảng hơn 3 triệu người). Độ tuổi của họ từ dưới 55 đến trên 20
tuổi. Trong đó có rất nhiều vị trí, thực tế trong quá trình công tác
18


không sử dụng ngoại ngữ làm phương tiện làm việc chính như giáo
viên mầm non, y tế cộng đồng, công chức hành chính,…Việc đặt ra
các tiêu chuẩn này vốn dĩ chỉ phù hợp cho đối tượng sinh viên nay
lại được áp dụng cho đối tượng nghề nghiệp. Trong thực tế hầu như
những người này không có thời gian để cập nhật kiến thức theo tiêu
chuẩn. Việc đặt ra các tiêu chuẩn Ngoại ngữ - Tin học một cách bất
hợp lý khiến họ phải “gồng mình” thay đổi, hạn chế khả năng nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ và hạn chế sự phát triển cơ hội nghề
nghiệp của họ.
2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế
- Về nhận thức: Mặc dù Đảng và Chính phủ đã có sự quan
tâm đến việc phát triển chính sách ngoại ngữ. Tuy nhiên về thực tế
đây không phải là một trong những chính sách trọng điểm của quốc
gia. Bộ Giáo dục gần như có toàn quyền quyết định trong việc soạn
thảo, ban hành và thực hiện chính sách này, thiếu sự tham khảo ý
kiến từ các chuyên gia, từ các bộ ngành và trong nhân dân. Khi đặt ra
chính sách, vì nóng vội và mang tư duy “chủ quan”, “duy ý chí” nên
các mục tiêu chính sách thường là vượt quá khả năng của đội ngũ
thực hiện chính sách, nhiều mục tiêu không thực tế chưa có sự khảo

sát kết quả thực hiện quốc tế, không có công tác dự phòng những
trường hợp có thể xảy ra khi ban hành chính sách, chính sách tác
động đến nhiều bộ phận người dân ở nhiều độ tuổi và hoàn cảnh
khác nhau tuy nhiên giải pháp cho chính sách lại khá chung chung,
thiếu những giải pháp trọng tâm cho từng vấn đề, từng nhóm cư dân,
thiếu giám sát thực tế

19


- Về thực hiện: Quá trình thực hiện chính sách thiếu sự đồng bộ từ
các cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương. Có nhiều
pháp thực hiện theo hình thức rồi thôi, không tổ chức đánh giá, rút
kinh nghiệm. Ngân sách đầu tư cho đề án tại địa phương được sử
dụng không hiểu quả, sử dụng sai mục đích, có dấu hiệu lợi ích
nhóm, quá trình thực hiện thiếu sự giám sát liên tục, thiếu cơ chế báo
cáo, đánh giá báo cáo, các địa phương chủ yếu chạy theo chỉ tiêu,
không đánh giá thực chất chất lượng của việc thực hiện đề án.
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng –
Tiếng Anh theo Đề án 2020 từ năm 2011 đến nay
Theo Quyết định 1400 của Thủ tướng Chính phủ thì Đề án
được triển khai thực hiện theo ba giai đoạn như sau:
a) Giai đoạn 2008 – 2010;
b) Giai đoạn 2011 – 2015;
c) Giai đoạn 2016 – 2020;
Kinh phí để thực hiện đề án:
- Kinh phí dự toán để thực hiện dự án giai đoạn 2008 – 2010
là 1.060 tỷ đồng, giai đoạn 2011 – 2015 là 4.378 tỷ đồng, giai đoạn
2016 – 2020 là 4.300 tỷ đồng, tổng cộng là 9.378 tỷ đồng.
- Vốn từ ngân sách nhà nước được bố trí trong chương trình

mục tiêu quốc gia và dự toán chi thường xuyên hàng năm theo phân
cấp quản lý quy định tại Luật Ngân sách hiện hành;
- Các nguồn vốn vay, tài trợ và các nguồn vốn hợp pháp
khác.
Đánh giá qua gần 10 năm thực hiện đề án. Các chuyên
gia và người viết đều có những ý kiến thống nhất như sau:
20


- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại
diễn đàn Quốc hội ngày 16/11 đã thừa nhận khẳng định đến năm
2020, nước ta chưa thể thực hiện các mục tiêu đặt ra trong đề án.
Theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo và các chuyên gia thì
mặc Dù Đề án 2020 đã tạo ra được một số thành tựu như thế hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc học ngoại ngữ, thay
đổi nhận thức của xã hội về việc học ngoại ngữ phải là một trong
những hoạt động giáo dục chính, đã có sự đầu tư thật sự nghiêm túc
về chương trình, cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo đội ngũ giáo viên
theo tiêu chuẩn, xây dựng Khung năng lực trình độ ngoại ngữ, xây
dựng chương trình đào tạo cho tất cả các cấp học trong hệ thống giáo
dục Quốc dân. Tuy nhiên, đề án cũng đã bộc lộ rất nhiều tồn tại và
thiếu sót, do việc đặt vấn đề còn mông lung, mơ hồ, nhiều mục tiêu
quá tham vọng không sát thực tế, nhiệm vụ nhiều nhưng thiếu trọng
tâm, thực hiện thiếu đồng bộ trên phạm vị cả nước, chưa có sự chỉ
đạo, phối hợp thực hiện giữa các cơ quan Trung Ương, các cơ quan
chuyên môn địa phương và các đơn vị cơ sở, giải pháp nhiều nhưng
thiếu giải pháp trọng tâm có thể giải quyết được vấn đề.
Kết luận chương 2


21


Chương 3
GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG NGOẠI NGỮ - TIẾNG ANH TẠI VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI
3.1. Xác định một số vấn đề căn bản của chính sách đào tạo, bồi
dưỡng Ngoại ngữ - Tiếng Anh làm căn cứ xây dựng giải pháp
Từ những vấn đề đã phân tích ở trên, người viết cho rằng Đề
án Ngoại ngữ 2020 chắc chắn sẽ không đạt được những hiệu quả đã
đề ra. Do vậy, cần thiết phải có góc nhìn mới, tầm nhìn mới đối với
việc giáo dục Ngoại ngữ tại Việt Nam phù hợp với nhu cầu hiện tại
và tương lai. Từ những thiếu sót đã thấy trong quá trình phân tích Đề
án 2020, dưới góc nhìn chính sách công, người viết cho rằng cần
phải xác định lại vấn đề và mục tiêu của chính sách giáo dục Ngoại
ngữ.
“ Giáo dục Ngoại ngữ phải có vị trí hàng đầu trong chính sách
giáo dục quốc dân. Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam”
“Dạy ngoại ngữ theo mô hình quốc tế”
“Giáo dục ngoại ngữ nên bắt đầu từ những cấp học thấp nhất”
“Xã hội hoá giáo dục đào tạo ngoại ngữ”
3.2. Một số giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng ngoại ngữ - Tiếng Anh tại Việt Nam trong những năm tới
Từ những vấn đề đã được đặt ra ở trên, người viết cho rằng
Đề án ngoại ngữ mới cần có những nhiệm vụ sau:
1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý, văn bản chỉ đạo thực hiện Đề
án Ngoại ngữ 2020, xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc tổ chức thực
hiện Đề án 2020.
22



2. Hoàn thiện chương trình, tài liệu, sách giáo khoa, hệ
thống học liệu ngoại ngữ (trực tiếp và trực tuyến) đáp ứng mục tiêu
đào tạo; tiếp tục triển khai chương trình ngoại ngữ mới của các cấp
học và trình độ đào tạo. Tập trung vào cấp tiểu học và Trung học cơ
sở.
3. Tiếp tục bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng
viên ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện dạy và học ngoại
ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân trong giai đoạn mới.
4. Ban hành các chính sách, các chế độ đãi ngộ cho các đối
tượng chịu ảnh hưởng bởi chính sách
5. Triển khai đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra,
đánh giá năng lực ngoại ngữ của học sinh theo chuẩn đầu ra ngay
trong quá trình và kết quả từng giai đoạn giáo dục, đào tạo đáp ứng
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và tiêu chuẩn
Quốc tế.
6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học thiết
yếu; ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới học liệu dạy học ngoại
ngữ.
7. Xây dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học
ngoại ngữ, tạo điều kiện xã hội hóa việc dạy-học ngoại ngữ, tạo
động cơ học tập ngoại ngữ của thế hệ trẻ Việt Nam.
8. Đẩy mạnh vận động tuyên truyền Đề án và tiếp tục đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, xã hội hoá giáo dục trong quá trình triển khai
các nhiệm vụ của Đề án NNQG 2020 trong giai đoạn mới.
9. Kiểm tra, giám sát công tác triển khai thực hiện các nhiệm
vụ của Đề án NNQG 2020.
23



×