Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vai trò của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.37 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ CHUẨN

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ CHUẨN

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM .......... 10
1.1. Đặc điểm hoạt động của tòa án.............................................................. 10
1.2. Vai trò của tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm ....... 15
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................... 37
2.1. Thành phố Hồ Chí Minh và công tác phòng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn ...................................................................................................... 37
2.2. Thực trạng hoạt động của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình
tội phạm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .............................................. 43
Chương 3: NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ

VÀ CÁC GIẢI PHÁP

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM ................................................................ 61
3.1. Những bất cập, hạn chế trong hoạt động của Tòa án nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội phạm ....................................................................... 61
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm .................................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCTP

: Cải cách tư pháp

HĐXX

: Hội đồng xét xử

NN

: Nhà nước

NNPQ

: Nhà nước pháp quyền

PNTP

: Phòng ngừa tội phạm

QLNN

: Quản lý nhà nước

TAND

: Tòa án nhân dân


VAHS

: Vụ án hình sự

XX

: Xét xử


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Số liệu tình hình xét xử các VAHS tại thành phố hồ chí minh giai
đoạn 2012 – 2016 ............................................................................................ 46
Bảng 2.2: Số liệu vụ án dân sự, hôn nhân – gia đình, kinh kế, lao động qua
các năm của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh ............................................ 49
Bảng 2.3: Số liệu các vụ án hành chính qua các năm của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh.................................................................................................... 51
Bảng 2.4: Số liệu thi hành án hình sự qua các năm của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh.................................................................................................... 52

Biểu đồ 2.1: Thể hiện tình hình xét xử án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn từ 2011 -2016 .................................................................................. 47
Biểu đồ 2.2: Thể hiện hoạt động xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình
tại tòa án nhân dân thành phố hồ chí minh giai đoạn 2012 -2016 .................. 50
Biểu đồ 2.3: Thể hiện hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 -2016 ........................................ 51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của để tài

Trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, công tác
phòng ngừa tình hình tội phạm đã và đang có những bước tiến quan trọng cụ
thể thông qua những kết quả đã đạt được. Tuy nhiên tình hình tội phạm thực
tế đang có những biến động phức tạp, khó lường, cho nên việc phòng ngừa
tình hình tội phạm đang được Đảng và Nhà nước hết sức lưu tâm và chủ
trương bằng mọi phương pháp, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để cải
thiện tình hình. Trong các chủ thể của công tác đấu tranh phòng ngừa tình
hình tội phạm thì vai trò của cơ quan xét xử là Tòa án nhân dân có vai trò vô
cùng lớn. Thông qua việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình thì Tòa
án nhân dân giữ vai trò giáo dục, cảm hóa và xử lý các hành vi vi phạm cụ thể
của các đối tượng phạm tội. Vai trò của Tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện
nay và thời gian tới là chức năng riêng biệt không thể thay thế bằng một cơ
quan nào. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và nâng cao chất lượng
của hoạt động cải cách tư pháp hiện nay cần thiết có sự đảm bảo quyền lực
nhà nước thống nhất có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện công cuộc đổi
mới hệ thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua nghị quyết 111/2015/NQ13 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội
13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của
Viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016
và các năm tiếp theo [18] đã chỉ ra rõ: Tòa án nhân dân có giải pháp tiếp tục
nâng cao chất lượng xét xử, thực hiện tốt việc bảo đảm tranh tụng trong xét
xử theo quy định; hạn chế tối đa bản án, quyết định bị huỷ, sửa do vi phạm
quy định của pháp luật, bảo đảm tỷ lệ bản án, quyết định bị huỷ, sửa do
nguyên nhân chủ quan hằng năm không vượt quá 1,5%; không để xảy ra tình
1


trạng vi phạm thời hạn tạm giam bị cáo trong giai đoạn xét xử, phấn đấu
không để xảy ra việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; nâng cao

chất lượng, tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính, giải quyết đơn đề nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm; kịp thời hướng dẫn, giải thích hoặc kháng nghị giám đốc
thẩm đối với các bản án tuyên có sai sót khi có kiến nghị của cơ quan có thẩm
quyền; bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án phải được chuyển đến
người bị kết án, đương sự, Viện kiểm sát theo đúng thời hạn luật định; kịp
thời chuyển các hồ sơ vụ án theo đề nghị của Viện kiểm sát để phục vụ việc
giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Từ đó, khẳng
định Tòa án nhân dân là nơi tập trung nhất của quyền tư pháp, và thông qua
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thì hoạt động Tòa án cũng
chính là thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp
và toàn thể bộ máy nhà nước.
Với ý nghĩa đó, công tác phòng ngừa tình hình tội phạm đã khẳng định
vai trò của Tòa án nhân dân ở nước ta phải được xây dựng trên cơ sở những
quan điểm đúng đắn và đầy đủ trong hệ thống cơ quan nhà nước, trong bộ
máy nhà nước, đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội
phạm thì vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân thông qua thực tiễn họat động của
Tòa án cho thấy rằng, họat động xét xử, thực hiện các chức năng của Tòa án
nhằm đáp ứng với công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trong cả nước nói
chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong thời gian qua còn tồn tại
một số hạn chế nhất định, mặc dù đã đạt được một số thành quả đáng ghi
nhận. Từ thực tiễn thì vị trí, vai trò của Tòa án trong nhận thức, tâm thức của
người dân đã và đang dần được cải thiện. Cùng với sự phát triển của đất nước
trong giai đoạn hội nhập và phát triển thì vị trí, vai trò của TAND cần được có
2


những quy định và đưa ra những nhiệm vụ, chức năng cụ thể nhằm góp phần
quan trọng hoàn thiện cơ chế, chính sách về phòng ngừa tội phạm, đáp ứng

với yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Việc khẳng định vai trò của
Tòa án nhân dân cần thiết phải đưa ra những luận điểm nhằm đáp ứng với sự
thay đổi nhanh chóng của tình hình xã hội. Đây là một hoạt động rất nhạy
cảm vì nó liên quan đến tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp của quốc gia.
Do vậy, hoạt động này luôn được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước khi
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm càng trở nên cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm là sự thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta. Mục đích là hoàn thiện hơn nữa việc tổ chức, hoạt động xét xử của
cơ quan tư pháp, cơ quan xét xử cửa nước ta đáp ứng yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc quy định vai trò, trách nhiệm của
TAND trong hoạt động này là một bước tiến lớn trong công tác đấu tranh
phòng ngừa tình hình tội phạm và thực tế đã đạt được nhiều thành tích đáng
kể cũng như phát huy được hiệu quả trong thực tiễn áp dụng.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm trong giai đoạn hiện nay của TAND trên
thực tế chưa chưa đạt được kết quả mong muốn. Tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, thông qua công tác thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao từ đó
góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm
về cơ bản đã đạt được nhiều hiệu quả tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập và gặp những khó khăn, vướng mắc. Tình hình tội phạm trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong những năm trở lại đây ngày càng tăng,
đó cũng là thách thức lớn đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và
Tòa án nhân dân nói riêng. Cơ quan thực hiện chức năng xét xử là Tòa án
3


phải thể hiện vai trò, vị trí của mình một cách tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa
trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn nhằm đáp ứng với

yêu cầu đề ra của Thành phố trong tình hình mới. Để đối phó với tình hình tội
phạm diễn biến phức tạp hiện nay cũng như thời gian tới thì của ngành Tòa án
nói riêng và các chủ thể trong công tác này nói chung cần thiết phải luôn đề ra
những chương trình hành động, các đối sách, chính sách, sách lược kịp thời
và có tính dự báo để đối phó kịp thời với tình hình tội phạm. Tuy nhiên công
tác trong hoạt động nhằm góp phần trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung còn chưa chặt
chẽ. Việc phối hợp giữa Tòa án với cơ quan chính quyền thành phố chỉ mang
tính hình thức, chưa thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình theo
pháp luật, dẫn tới việc công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm chưa
đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, người viết lựa chọn đề tài: Vai trò
của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh làm luận văn thạc sỹ là một việc làm cần thiết và
cấp bách góp phần phát hiện những hạn chế trong hoạt động này của Tòa án
nhân dân. Đồng thời thông qua việc áp dụng các quy định về vai trò của
TAND để tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên cả
nước nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với hoạt động nghiên cứu về vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân
trỏng giai đoạn hiện nay đã được đề cập trong các văn kiện chính thức của
Đảng. Toà án đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa
học ở nước ta, có thể kể đến đề tài vấn đề này như đề tài: “Cải cách cơ quan
tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử
4


của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”; luận
án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền giải quyết của Toà án

nhân dân trong giải quyết khiếu kiện hành chính”; luận án tiến sĩ của TS. Tô
Văn Hoà “Tính độc lập của Toà án- nghiên cứu pháp lý về khía cạnh lý luận,
thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam”.
Ngoài ra, TAND còn là đối tượng nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực đổi mới cải
cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, như Luận án tiến sĩ của TS. Trần
Huy Liệu “Đổi mới và tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”; Lê Văn Quyền – Luận án
tiến sĩ luật học, 2017, Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án
nhân dân cấp tỉnh tại miền Đông Nam Bộ - Việt Nam hiện nay….
Ngoài ra có rất nhiều bài viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp lý, sách,
tạp chí, báo… đã được xuất bản như: Vai trò của Tòa án trong việc phòng
ngừa tội phạm của Thạc sỹ Lý Văn Quyền – đăng trên tạp chí luật học số 6
năm 2005; công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của ngành TAND: Vai trò
của tòa án nhân dân trong việc đấu tranh phòng và chống các tội phạm về
tình dục năm 2001…. Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu
về công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, người viết chọn đề tài: Vai trò
của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh làm luận văn thạc sỹ để thể hiện tâm huyết và đóng
góp của bản thân đối với vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua hoạt động nghiên cứu, tác giả mong muốn cung cấp cho
người đọc một cách tổng thể các quy định về vai trò của TAND trong công
tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực
trạng về việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thì Tòa án nhân
5


dân giữ vị trí như thế nào trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội
phạm để có thể đánh giá được mức độ tham gia trong hoạt động này của

TAND. Ngoài ra, thực tế vai trò của TAND tại thành phố Hồ Chí Minh giữ vị
trí như thế nào trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm trên
địa bàn thành phố. Đồng thời dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu về nguyên
nhân từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi đề tài
phải giải quyết các vấn đề sau:
Đề tài có nhiệm vụ phân tích, làm rõ các khái niệm, vai trò, vị trí cũng
như tổ chức của TAND trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, ý
nghĩa của vai trò TAND trong công tác này thông qua những hoạt động cơ
bản của TAND trong giai đoạn hiện nay theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Đề tài phân tích những kết quả và hạn chế trong thực trạng vai trò, vị trí
của TAND trong quá trình phòng chống tình hình tội phạm trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016, nguyên nhân và những giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Pháp luật về vai trò của Tòa án nhân dân trong công tác đấu tranh
phòng ngừa tình hình tội phạm là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp
thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ
đề tài, tác giả không có tham vọng giải quyết toàn bộ và trọn vẹn các vấn đề
pháp lý về vấn đề này mà đi sâu vào nội dung này ở một số khía cạnh sau:
Vấn đề khẳng định vai trò của TAND trong các quy định trong pháp luật hình
sự và dân sự nói chung, cũng như các quy định có liên quan chức năng, nhiệm
6


vụ của ngành tòa án từ đó đánh giá vai trò của ngành Tòa án nhân dân trong
công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm. Trong đó, đi sâu phân tích

vai trò của TAND thông qua các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, dân
sự được quy định trong bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự và có
sự so sánh, đối chiếu với các quy định trong giai đoạn trước đây. Thực tế áp
dụng về phòng ngừa tình hình tội phạm của ngành tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh nhằm đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và khó khăn
trong quá trình áp dụng. Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật về nâng cao vai trò của ngành tòa án trong phòng ngừa tình hình tội phạm
của ngành TAND thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung
trước yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các văn bản pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ của ngành Tòa án nhân dân như: Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Tòa
án nhân dân 2014, Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật tố tụng hình sự 2015,
Bộ luật tố tụng dân sự 2015, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện.
Nội dung đề tài chỉ giới hạn trong những vấn đề lý luận về vai trò của Tòa án
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm và các quy định của pháp luật
về lĩnh vực này. Giới hạn khảo sát của đề tài là quá trình thực thi pháp luật về
phòng ngừa tình hình tội phạm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
từ 2012 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng cho toàn đề tài là tác giả sử dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác –
Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:

7


- Kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội
dung cần nghiên cứu trong vấn đề nghiên cứu về vị trí, vai trò của TAND

trong công tác đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua các quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam được ghi nhận tại chương 1 cũng như
thực tiễn áp dụng tại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và chương 2 của đề
tài.
- So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các
quan điểm khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các
giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế. Các phương pháp này được áp dụng
trong chương 2 và chương 3 của đề tài. Thông qua đó, tác giả muốn đưa ra
một bức tranh toàn cảnh về vị trí vai trò của Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh trong hoạt động phòng ngừa tình hình trên địa bàn cũng như một số
biện pháp nhằm hoàn thiện yêu cầu đề ra của công tác này, đáp ứng với yêu
cầu hội nhập và phát triển đất nước. Phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp
ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn, tạo một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về vị trí, vai trò của TAND trong
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên phương diện lý luận và thực
tiễn.
Đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà ban hành pháp luật, các
cơ quan thực thi pháp luật, phát hiện của đề tài của những tồn tại của pháp
luật, những vướng mắc trong quá trình thực thi cũng như các kiến nghị nêu ra
có thể được xem là sự đánh giá, là ý kiến đóng góp được cân nhắc kĩ lưỡng,
góp phần không nhỏ tạo điều kiện cho họ trong công tác chuyên môn trong
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

8


Đặc biệt, đối với sinh viên nghiên cứu, kết quả của đề tài là nguồn tài
liệu có giá trị tham khảo khi học tập, nghiên cứu, nhất là khi hoàn thành các

báo cáo khoa học cấp khoa, cấp trường trong công tác nghiên cứu về đấu
tranh phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng khác quan
tâm đến lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của tòa án nhân dân trong
phòng ngừa tình hình tội phạm
Chương 2: Thực trạng hoạt động của tòa án nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Những bất cập, hạn chế và giải pháp nâng cao vai trò của
Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tội phạm

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1. Đặc điểm hoạt động của tòa án
Trong quá trình xây dựng và phát triển Nhà nước ta, mô hình tổ chức
bộ máy nhà nước đã có những thay đổi phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Hiện nay tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được thực hiện theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Việc thực hiện quyền tư pháp là một trong những chức
năng rất quan trọng của Nhà nước, được giao cho Tòa án nhân dân. Xét về
mối tương quan giữa các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, có thể thấy trong
khi hoạt động chủ yếu của lập pháp và hành pháp là ban hành và tổ chức thực

hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong giới hạn tự do
mà pháp luật xác lập, thì tư pháp lại được thể hiện thông qua nội dung chính
đó là bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm hại thông qua hoạt
động của tòa án. Tòa án là một chủ thể quyền lực nhà nước, được nhà nước
trao và thực hiện quyền tư pháp. Điều đó sẽ phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ
và các dạng hoạt động đặc thù của tòa án với cơ quan lập pháp và hành pháp,
tránh sự nhầm lẫn, thậm chí có thể chồng chéo hoạt động giữa các cơ quan
nhà nước.
Về cách thức tổ chức và hoạt động, Tòa án khác với cơ quan lập pháp
và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch
định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ
thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. So với hai cơ
quan nói trên, Tòa án "thụ động" hơn, phải "chờ" có việc thì mới xét xử. Tòa
án không phải là phương tiện duy nhất nhưng là phương tiện chủ yếu trong
10


việc giải quyết các trường hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật. Về mặt
hiến định, tòa án là chủ thể duy nhất, có quyền lực cao nhất khi xem xét,
quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động tư pháp. Trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ được Hiến pháp quy định, các tòa án nhân danh danh nhà nước,
nhân danh công lý để giải quyết các vụ án, các tranh chấp, việc kiện tụng
được đưa ra tòa theo các luật tố tụng. Các quyết định của tòa án về các vụ,
việc đó là quyết định tư pháp, có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành. Không
những thế, với vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, tòa án có nhiệm vụ
giám sát các chủ thể tham gia hoạt động tư pháp có liên quan như điều tra,
truy tố, hổ trợ tư pháp... Việc giám sát đó nhằm bảo đảm công lý, mặt khác,
giúp cho tòa án tránh khỏi những sai sót của các cơ quan và những chủ thể
tham gia vào hoạt động tư pháp trước giai đoạn xét xử.
Việc giao cho tòa án là cơ quan duy nhất nắm quyền tư pháp có ưu

điểm là sẽ bảo đảm đảm cho tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các hoạt
động một cách độc lập. Là cơ quan duy nhất nắm quyền tư pháp, tòa án cũng
sẽ không bị can thiệp hoặc tác động tiêu cực vào quá trình xét xử. Bên cạnh
đó, những người làm công tác xét xử phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
pháp lý rất cao, đủ khả năng để giải quyết các vấn đề rất phức tạp như xác
định tội phạm và người phạm tội và áp dụng hình phạt, phán quyết các tranh
chấp, các sự kiện liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức. Bởi lao động xét xử là lao động sáng tạo trong áp dụng pháp luật, đòi
hỏi tư duy ở trình độ cao của người Thẩm phán. Thẩm phán, Hội thẩm phải
tiếp cận với một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kể
cả pháp luật của các quốc gia khác khi có liên quan và cả pháp luật quốc tế.
Hoạt động xét xử còn luôn luôn bị giới hạn bởi những quy định khắt khe của
pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án, quyết
định; về việc phải tuân thủ các nguyên tắc Hiến định về tổ chức tư pháp và về
11


tố tụng. Vì vậy tòa án có những phương thức hoạt động riêng, đặc trưng cho
quyền tư pháp. Vì toà án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ
máy nhà nước và việc thực thi quyền này lại ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu
và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam[19];
toà án cũng là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý
của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống
tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [9].
Không chỉ giới hạn bởi chức năng xét xử, tòa án còn có chức năng rất
quan trọng nữa là phòng ngừa tội phạm. Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền xô viết", V.I. Lênin đã chỉ rõ cần phải có một tòa
án mới, trước hết để chống lại bọn bóc lột, tước bỏ hết đặc quyền, đặc lợi và
ngăn chặn âm mưu khôi phục lại nền thống trị của chúng. Một tác dụng quan
trọng hơn là, tòa án bảo đảm cho mọi người lao động chấp hành một cách

nghiêm ngặt nhất kỷ luật tự giác. Tòa án phải gánh nhiệm vụ to lớn là giáo
dục nhân dân theo kỷ luật lao động đó. Đồng thời, tòa án cũng là cơ quan thực
hiện sự cưỡng bức tất yếu phải có trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội [7]. V.I. Lênin cũng từng chỉ rõ, giành chính quyền đã khó, giữ chính
quyền còn khó hơn nhiều. Cái "khó" mà V. I. Lênin nêu ra trong việc giữ
chính quyền không chỉ là ở chỗ đánh bại kẻ thù giai cấp mà còn là ở chỗ tạo
ra nguồn lực to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, ý thức mới của
hàng chục triệu con người để đưa xã hội tiến lên nhờ kỷ luật và lao động tự
giác của họ, phòng ngừa mọi hành vi phạm tội phương hại đến chế độ mới.
Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin về tòa án của chế độ mới: “Cách
mạng tháng Mười đã hoàn thành và hoàn thành thắng lợi. Để thay đổi Tòa án
cũ, cuộc cách mạng đã thiết lập Tòa án mới có tính chất nhân dân... Xây
dựng trên nguyên tắc là các giai cấp bị bóc lột, và chỉ có các giai cấp ấy thôi
tham gia quản lý Nhà nước” [6], ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
12


cộng hòa ra đời (2-9-1945), ngày 13-9-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban
hành Sắc lệnh 33C/SL về thiết lập các Tòa án quân sự. Sau đó, ngày 24-011946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 13/SL quy định về tổ
chức các tòa án và các ngạch thẩm phán, về cơ bản đã thiết lập được một hệ
thống tòa án của chế độ dân chủ nhân dân. Một nhà nước kiểu mới trong đó
có nền tư pháp của dân, do dân, vì dân là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, từ khi ra đi tìm
đường cứu nước đến khi lãnh đạo nhân dân ta đứng lên lật đổ chính quyền
thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước dân chủ nhân dân. Cách mạng thành
công, ý tưởng cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư pháp, về một nền công
lý tiến bộ đã được hiện thực hoá. Các nguyên tắc dân chủ của nền tư pháp
được ghi nhận như: Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; việc xét xử được
tiến hành công khai; khi xét xử, Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, cơ quan
hành chính không được can thiệp; đại diện nhân dân (phụ thẩm) tham gia xét

xử... Những nguyên tắc cơ bản này sau đó được thể hiện trong bản Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946. Đây là những quy định tiến bộ, phù hợp
với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Vai trò của tòa án cũng
được xác định rõ là ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm chống lại chính quyền
dân chủ nhân dân (tội phạm quốc sự) và các tội phạm khác (tội phạm hình sự
thường).
Hiện nay, công công cuộc cải cách tư pháp đã thu được những kết quả
bước đầu rất quan trọng, thúc đẩy nền tư pháp phát triển thêm một bước, nâng
cao vai trò và vị thế của tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động tư pháp
còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết 49/NQ ngày 2/6/2005 của về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (dưới đây gọi tắt là Nghị quyết số
13


49/NQ-TW) đề ra nhiệm vụ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân”. Thể chế hóa chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi,
bổ sung quan trọng về hệ thống tư pháp và bộ máy nhà nước. Một số tư duy
mới về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước đã thể hiện rõ trong Hiến
pháp. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp được ghi nhận. Hiến pháp xác định rõ Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp; Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Việc đổi mới tư duy về tư
pháp đã xác định được mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử
nhằm đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử. Đồng thời, xác định được mô hình
tố tụng mới cho Việt Nam theo hướng kết hợp giữa mô hình tố tụng thẩm vấn

(tồn tại nhiều năm qua ở Việt Nam) với tố tụng tranh tụng. Coi tranh tụng
trong xét xử là khâu đột phá trong cải cách hoạt động tư pháp. Lần đầu tiên,
Hiến pháp năm 2013 quy định về tòa án nhân dân rất rõ ràng và đầy đủ tại
Điều 102 và Điều 103: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm”. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được ghi
nhận và đảm bảo… Có thể thấy dấu ấn của cải cách tư pháp được thể hiện rất
rõ trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
14


Trong đó khẳng định “Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục
công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội
phạm, các vi phạm pháp luật khác; Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác
theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài
liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả
tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc
không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ
về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 13
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về trách nhiệm của tòa án: “Tòa án có

nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân”. Như vậy, từ những đặc điểm hoạt động của tòa án
được hiểu như là một sứ mệnh đặc thù mà lịch sử đã giao phó; kết hợp với các
quy định của Hiến pháp và pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử nhất định đã
hình thành nên những đặc điểm hoạt động cụ thể của tòa án. Từ những đặc
điểm hoạt động này sẽ tạo nên vai trò của tòa án nói chung và trong hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm.
1.2. Đặc điểm và các hình thức hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm của Tòa án
1.2.1. Đặc điểm về phòng ngừa tình hình tội phạm của Tòa án
Các nhà nghiên cứu tội phạm học cơ thống nhất quan điểm cho rằng
phòng ngừa tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ
15


chức xã hội và của mọi công dân áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp
khác nhau hướng vào việc loại trừ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
từng bước hạn chế, ngăn chặn và đẩy tội phạm, loại bỏ chúng ra khỏi đời
sống xã hội. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là
hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện
pháp tác động trực tiếp vào các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm
soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những nhóm nguyên nhân này…” [4].
Còn theo Từ điển Luật học thì phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm
và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện
pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành.
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với thực tiễn
đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa qua có thể
được định nghĩa cơ bản về phòng ngừa tình hình tội phạm như sau: Phòng
ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật

và Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân
trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng
vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các
yếu tố tiêu cực của tội phạm trong khoảng không gian và thời gian cụ thể.
Qua đó, từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tình hình tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội.
Về nguyên tắc, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm không phải là
nhiệm vụ của một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào mà bản thân của hoạt động
này về cơ bản chính là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Dựa trên đặc điểm
này thì việc tham gia của các chủ thể là các tổ chức nhà nước, xã hội, cá nhân
về cơ bản phải có phạm vi rộng và sức điều chỉnh rộng rãi. Việc xác định
những cơ sở, nguyên tắc, chủ thể phòng ngừa, lập và xây dựng kế hoạch một
cách đầy đủ, khoa học và có hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm để
16


đạt hiệu quả cao. Do đó, nếu thực hiện tốt chức năng này mới có thể từng
bước ngăn chặn tội phạm và tình hình tội phạm trong xã hội, không cho tội
phạm phát triển, qua đó từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội. Khẳng định vai trò, vị trí của các chủ thể trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm là rất quan trọng và cần thiết.
Việc áp dụng các biện pháp về phòng ngừa tội phạm sẽ góp phần cho
công tác quản lý nhà nước về xã hội đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt, xét về
khía cạnh kinh tế thì việc thực hiện công tác phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ
giúp tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí và sức lực cho Nhà nước, cho xã
hội trong việc điều tra, truy tố, xét xử; trong việc khắc phục hậu quả của tội
phạm gây ra. Góp phần thúc đẩy hoạt động của công tác cải tạo, giáo dục và
thi hành án đối với người phạm tội đạt hiệu quả nhằm ổn định xã hội để xây
dựng và phát triển đất nước.
Phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ chung của toàn thể các cấp các ngành

từ trung ương đến địa phương, của toàn bộ cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên
vai trò chính vẫn là các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án là những cơ quan đứng trên tuyến đầu đấu tranh phòng chống tội
phạm…. Về phần mình, Tòa án nhân dân là cơ quan trực tiếp tổ chức, triển
khai các hoạt động phòng ngừa tội phạm đã được pháp luật quy định, thông
qua hoạt động xét xử và các hoạt động khác ngoài việc xét xử, cụ thể tại Điều
6 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp khắc phục và phòng ngừa” Như vậy, có thể thấy, Tòa án là một
chủ thể phòng ngừa đặc biệt. Hoạt động phòng ngừa tội phạm của tòa án
mang tính chất liên ngành, bao gồm các biện pháp phòng ngừa mang tính chất

17


pháp luật tố tụng và các biện pháp phòng ngừa khác. Hướng phòng ngừa tội
phạm chủ yếu của tòa án là kết hợp giữa hai loại biện pháp này.
Các biện pháp phòng ngừa mang tính chất pháp luật tố tụng bao gồm:
- Thông qua xét xử (Sự tác động về mặt pháp luật và đạo đức đối với
những người tham gia tố tụng và những người tham dự hoặc quan tâm đến
phiên tòa thông qua nguyên tắc xét xử công khai, xét xử khách quan, toàn
diện và đầy đủ vụ án; thông qua việc tòa án ra bản án nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật);
- Thông qua phiên tòa lưu động (Tuyên truyền giáo dục pháp luật;
tuyên truyền đề phòng các hành vi, động cơ, nguyên nhân, điều kiện phạm
tội);
- Thông qua thi hành án hình sự (Giám sát, theo dõi chặt chẽ tình hình
thi hành án, đưa ra quyết định phù hợp).
Các biện pháp phòng ngừa khác của tòa án gồm:

- Thống kê xét xử và phân tích số liệu thống kê xét xử, tổng kết thực
tiễn xét xử. Thông qua hoạt động xét xử, phát hiện và kiến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật
trái với Hiến pháp, luật nhằm ngăn chặn từ xa những kẽ hở của pháp luật có
thể bị lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội;
- Phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội và đưa ra các yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng
ngừa tội phạm;
- Tham gia công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cán bộ, nhân
dân;
- Phối hợp hành động với các chủ thể phòng ngừa khác trong công tác
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

18


- Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phù hợp để hạn chế tình hình
tội phạm phát sinh.
1.2.2. Các hình thức phòng ngừa tình hình tội phạm của Tòa án
1.2.2.1. Phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua xét xử các vụ án
hình sự
Hoạt động phòng ngừa tội phạm của tòa án trước hết là thông qua việc
xét xử trực tiếp các vụ án hình sự, áp dụng chính sách hình sự để xét xử các
hành vi phạm tội, quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Trong quá
trình xét xử, tòa án có nhiệm vụ làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
đưa ra các yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; thống kê xét xử hình sự, tổng kết
thực thực tiễn xét xử; tham gia công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
thông qua các vụ án hình sự cụ thể để giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân
dân đề cao ý thức phòng ngừa tội phạm trong mỗi thành viên của xã hội.

Đồng thời phối hợp hành động vối các cơ quan, tổ chức khác trong công tác
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự thì bản án và quyết định
của Tòa án phải thực sự là kết quả của việc xem xét, thẩm tra, đối chiếu, đánh
giá các chứng cứ tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ và qua tranh tụng tại
phiên tòa công khai; trong hoạt động tư pháp phải bảo đảm không để lọt tội
phạm nhưng không được làm oan người vô tội.
Hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án có vai trò to lớn trong
việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những hành vi vi phạm
pháp luật đều đảm bảo được xử lý một cách nghiêm khắc, đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật khi các hành vi đó xâm phạm nghiêm trọng đến
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hoạt động xét xử của Tòa án có vai
trò khắc phục và chấm dứt những hành vi vi phạm pháp luật, khôi phục lại trật
19


tự pháp luật trong các lĩnh vực bị hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm, truy
cứu trách nhiệm pháp lý các chủ thể đã có hành vi vi phạm theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng. Hoạt động xét xử của Tòa án còn có vai trò quan
trọng trong việc hướng chủ thể của các quan hệ pháp luật thực hiện hành vi
hợp pháp luật, bảo đảm lợi ích chính đáng của mình và tôn trọng lợi ích chính
đáng của người khác.
Việc xét xử các vụ án hình sự có vai tác dụng quan trọng trong việc góp
phần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân bằng những vụ việc cụ thể, đặc biệt là thông qua các phiên tòa
xét xử công khai, phiên tòa lưu động. Từ những sự kiện này, không những tác
động trực tiếp tới các bị can, bị cáo, những người tham dự trực tiếp phiên tòa
mà nó có có sự lan tỏa, ảnh hưởng trong dân chúng bằng hình thức này hay
hình thức khác, từ đó sẽ tác động lên ý thức của người dân về các hành vi vi
phạm pháp luật và các hình phạt được áp dụng; rằng mọi hành vi vi phạm

pháp luật đều bị xử lý, bị xét xử một cách nghiêm minh, nhanh chóng, kịp
thời. Thông qua đó, quyết định các bản án phù hợp với tính chất và mức độ
hành vi phạm tội mà một người đã thực hiện, đồng thời tiến hành tổng thể các
biện pháp, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan nhằm tiến tới việc
ngăn chặn, hạn chế, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội
phạm.
Mặt khác, xét xử các vụ án hình sự là việc tòa án xem xét, kết luận các
hành vi mà trước đó các cơ quan tố tụng khác như công an, viện kiểm sát cho
rằng có vi phạm pháp luật hình sự. Như vậy chỉ có tòa án mới có quyền đưa
ra phán quyết cuối cùng về những hành vi này, tuy nhiên trước khi đưa ra
quyết định cuối cùng thì tòa án phải xem xét tổng thể các căn cứ liên quan,
đồng thời giải thích cho bị can, bị cáo biết về các hậu quả mà hành vi của họ
đã gây ra cho xã hội để họ nhận biết rằng những hành vi họ gây ra sẽ bị xử lý
20


×