Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM VĂN TIẾN

NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM VĂN TIẾN

NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã ngành: 638.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI – năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lâm Văn Tiến


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NẠN NHÂN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM........................................................................................... 7
1.1. Nạn nhân của tội phạm............................................................................... 7
1.2. Nạn nhân của tình hình tội phạm ............................................................. 13
1.3. Vai trò của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội ............................... 21
1.4. Nguyên nhân trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm ........................ 25
1.5. Cơ chế bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm ....................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................. 33
2.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng............................... 33
2.2. Thực trạng nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.. 40
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA NGUY CƠ TRỞ
THÀNH NẠN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM ............................. 52
3.1. Hạn chế, loại trừ những yếu tố thuộc về nguyên nhân chủ quan ............. 52
3.2. Hạn chế những yếu tố thuộc về nguyên nhân khách quan ....................... 58

3.3. Tiếp thu kinh nghiệm bảo vệ nạn nhân của một số nước ........................ 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT

:

An ninh trật tự

CAND

:

Công an nhân dân

TAND

:

Tòa án nhân dân

TTHS

:


Tố tụng hình sự

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp,
có sự gia tăng cả về số lượng và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó không loại trừ những nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm.
Một cơ chế thực hiện hành vi phạm tội đầy đủ và toàn diện (đối với các tội
phạm có nạn nhân) là sự tác động qua lại giữa người thực hiện hành vi phạm
tội và nạn nhân của tội phạm; hành vi phạm tội gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác của nạn
nhân; ngược lại, nạn nhân trong nhiều trường hợp cũng có ảnh hưởng
quyết định tới việc hình thành ý định phạm tội cũng như việc thực hiện
hành vi phạm tội, nạn nhân có thể làm hạn chế hoặc triệt tiêu ý định
phạm tội. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, nạn nhân
(người liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội) là mắt xích quan trọng giúp

cho quá trình tiến hành tố tụng được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác.
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, phía Bắc giáp với tỉnh Thừa thiên
- Huế, phía Đông giáp với biển Đông, phía Tây và Nam giáp với tỉnh Quảng
Nam. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng là một trong
những cửa ngõ quan trọng ra biển của các tỉnh Tây Nguyên, các nước Lào,
Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua
hành lang kinh tế Đông – Tây. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển
của nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đã có những
bước phát triển đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng cao. Chính quyền thành phố đẩy mạnh tốc độ quy hoạch đô thị, mở
rộng, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo nên diện mạo mới cho thành phố, điều này

1


dẫn đến việc di dời, giải tỏa làm cho dân cư có sự biến động; số người ở địa
phương khác đến thành phố học tập, tìm việc làm tăng, tạo áp lực về việc
làm, chỗ ở, gây không ít khó khăn cho công tác bảo đảm ANTT. Bên cạnh
đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực đối
với xã hội, đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, nạn thất nghiệp… Đây
chính là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỉ lệ tội phạm đồng thời
ảnh hưởng đến nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố.
Dưới góc độ tội phạm học, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, việc nghiên cứu,
phân tích, làm rõ vấn đề nạn nhân của tình hình tội phạm có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Mặc dù vậy, đến nay chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về vấn đề nạn
nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với tư cách là
một đề tài độc lập. Bởi các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Nạn nhân

của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn
thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nạn nhân của tình hình tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng,
phong phú và phức tạp của tội phạm học, từ trước đến nay đã có một số nhà
luật học, tội phạm học quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh và mức độ khác
nhau, cụ thể:
- Luận án tiến sĩ “Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Đinh Thị Mai, năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ “Nạn nhân học trong tội phạm học Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trần Hữu Tráng, năm 2000.
- Đề tài nghiên cứu cấp trường “Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích
của nạn nhân của tội phạm”, Trần Hữu Tráng, năm 2010.

2


- Bài báo khoa học “Cơ chế quốc tế, khu vực và quốc gia về bảo vệ
quyền của người bị hại”, Đinh Thị Mai, năm 2012.
- Bài báo khoa học “Nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm”, Trần
Hữu Tráng, năm 2011.
- Bài báo khoa học “Trợ giúp nạn nhân của tội phạm ở Hoa Kỳ”, Dương
Tuyết Miên, năm 2011.
- Bài báo khoa học “Trợ giúp nạn nhân của tội phạm ở Hàn Quốc và
liên hệ với thực tế ở Việt Nam”, Dương Tuyết Miên, năm 2011.
Những công trình khoa học nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về
nạn nhân của tội phạm hoặc quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về nạn nhân của tình
hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, đề tài luận văn có tính
độc lập và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nạn nhân của tình hình
tội phạm dưới góc độ tội phạm học và khảo sát thực tiễn nạn nhân của tình
hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đề tài luận văn đề ra những
giải pháp khắc phục những yếu tố đóng vai trò là nguy cơ trở thành nạn nhân
của tội phạm và xây dựng cơ chế bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tình hình tội
phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nạn nhân của tình hình
tội phạm dưới góc độ tội phạm học; phân tích chỉ ra vai trò của nạn nhân
trong cơ chế làm phát sinh hành vi phạm.

3


- Khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình tội phạm và thực trạng nạn
nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu đề ra hệ thống các giải pháp nhằm phòng ngừa nguy cơ trở
thành nạn nhân của tội phạm; xây dựng cơ chế bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của
tình hình tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận về nạn nhân của tình hình tội phạm dưới góc độ tội phạm học;
- Thực tiễn nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài luận văn nghiên cứu nạn nhân của tình hình tội
phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

- Về địa bàn: Thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ
quyền của bị hại trong tố tụng hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả đã nghiên cứu nhiều loại tài
liệu tại Thư viện của Học viện KHXH, tại Công an, Tòa án Thành phố Đà
Nẵng... Qua đó đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận, tập hợp các số liệu nhằm
giải quyết các vấn đề được đề cập trong luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng để phân tích các
tài liệu, số liệu, các công trình khoa học liên quan đến nạn nhân của tình hình

4


tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; qua đó tổng hợp làm rõ nhận thức
lý luận và đánh giá thực trạng của vấn đề trên.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Tác giả tập trung nghiên cứu các bài
viết, các báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình nạn nhân của tình hình tội phạm,
trên cơ sở đó rút ra những nhận xét, đánh giá, đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong tình hình hiện nay.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Trên cơ sở các số liệu thu được về
thực trạng tình hình tội phạm, nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, tác giả tiến hành thống kê, đối chiếu, so sánh làm cơ sở
đánh giá, nhận xét và minh chứng làm rõ hơn các các vấn đề nghiên cứu của
luận văn.

- Phương pháp chuyên gia: Tác giả chú trọng tranh thủ ý kiến của những
người có trình độ cao, am hiểu sâu về lý luận, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử thông qua việc xin ý kiến đánh giá,
nhận xét của các nhà khoa học về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu toàn diện
có hệ thống về vấn đề nạn nhân của tình hình tội phạm. Những kết quả nghiên
cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng sau:
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp nhất định vào
phát triển khoa học chuyên ngành nạn nhân học.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào
thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm cũng như bảo vệ, trợ giúp nạn nhân
của tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và trong phạm vi cả
nước. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở nước ta.

5


Những điểm mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn đã xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý luận về nạn
nhân của tình hình tội phạm, bao gồm: Nạn nhân của tội phạm; nạn nhân của
tình hình tội phạm; vai trò của nạn nhân trong tình hình tội phạm; nguyên
nhân trở thành nạn nhân của tình hình tội phạm; cơ chế bảo vệ, trợ giúp nạn
nhân của tội phạm.
Thứ hai, luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng nạn nhân của
tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đây là cơ sở để đề ra các
giải pháp nhằm phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm.
Thứ ba, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm phòng ngừa nguy cơ trở

thành nạn nhân của tội phạm, xây dựng cơ chế bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của
tình hình tội phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nạn nhân của tình hình tội phạm.
Chương 2: Thực trạng nạn nhân của tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm và cơ
chế bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tình hình tội phạm.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NẠN NHÂN CỦA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1. Nạn nhân của tội phạm
1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ nạn nhân đã được sử dụng từ xa xưa, thời đó, do quan niệm
con người phụ thuộc vào chúa trời, thần thánh nên để đảm bảo cuộc sống bình
yên, mùa màng ổn định, con người hàng năm thường phải đem giết những
phụ nữ trẻ đẹp hay súc vật để làm lễ vật tế thần thánh, chúa trời; những phụ
nữ hay súc vật này được gọi là nạn nhân. Ngày nay, thuật ngữ nạn nhân đã
được sử dụng với nghĩa khác hơn nhiều. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Nạn
nhân là người bị tai nạn hoặc người, tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài
đưa đến” [1, tr.814]. Theo cách định nghĩa trên thì thuật ngữ nạn nhân được
hiểu là những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản.
Nạn nhân là cá nhân, tổ chức gánh chịu hậu quả bên ngoài đưa đến, họ có thể
là: Nạn nhân của chiến tranh, nạn nhân của thiên tai, nạn nhân của tai nạn lao

động, nạn nhân của tai nạn giao thông, nạn nhân của tội phạm...
Nạn nhân của tội phạm là một vấn đề luôn được các nhà khoa học đặt
ra nghiên cứu và được các nhà lập pháp đề cập đến trong các văn bản luật.
Mặc dù vậy, hiện nay chưa có quan điểm thống nhất về nạn nhân của tội
phạm, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất, xác định nạn nhân của tội phạm theo nghĩa hẹp:
Theo đó, nạn nhân của tội phạm được xác định là những cá nhân bị
hành vi phạm tội xâm phạm gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần,
tài sản. Quan điểm này đã được Hans von Hentig, một trong những người tiên
phong trong lĩnh vực nghiên cứu nạn nhân, sử dụng từ những năm 1962. Theo
ông, nạn nhân của tội phạm là những người bị hành vi phạm tội gây thiệt hại

7


đối với các quyền và lợi ích hợp pháp và trên thực tế phải chịu đựng những
tổn hại về vật chất hoặc sức khoẻ, tính mạng, tinh thần [42]. Theo quan điểm
của Haiz Zipf thì nạn nhân của tội phạm trong tội phạm học là tất cả những
người bị hành vi phạm tội xâm hại, bất kể người phạm tội có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hay không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trong những
trường hợp người bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án) [42]. Điều 1, Hiệp định
khung về địa vị của nạn nhân trong tố tụng hình sự ở châu Âu đã định nghĩa:
“Nạn nhân được hiểu theo nghĩa là thực thể tự nhiên đã bị xâm phạm gây tổn
thất về thể chất, tinh thần, tình cảm hoặc về kinh tế có nguyên nhân trực tiếp
từ hành vi vi phạm luật hình sự của một nước thành viên” [56, tr.2].
Từ các quan điểm và định nghĩa nêu trên, có thể định nghĩa nạn nhân
của tội phạm theo nghĩa hẹp như sau:
“Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân chịu thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp
khác do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra”.

Quan điểm thứ hai, xác định nạn nhân của tội phạm theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng, nạn nhân của tội phạm không chỉ bao gồm thể nhân
mà còn bao gồm cả pháp nhân bị hành vi phạm tội xâm hại. Người đầu tiên
xác định nạn nhân của tội phạm bao gồm cả các tổ chức đó là Fritz R. Paasch
khi ông bàn đến nạn nhân của các tội phạm về kinh tế. Theo ông, nạn nhân
của các tội phạm về kinh tế là các cá nhân con người (thể nhân) và các pháp
nhân bị xâm hại các quyền và lợi ích được pháp luật ghi nhận [42]. Văn bản
quan trọng làm cơ sở cho việc định nghĩa nạn nhân của tội phạm theo nghĩa
rộng là Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản về tư pháp đối với nạn nhân của
tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng sức mạnh của Liên hợp quốc ban hành
ngày 29/11/1985. Điều 1 của Tuyên bố xác định: “Nạn nhân của tội phạm là
những cá nhân hay tổ chức bị hành vi phạm tội (theo quy định của luật hình

8


sự của các nước thành viên) xâm phạm, gây thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tình cảm, kinh tế hoặc những thiệt hại đáng kể về các quyền cơ bản”
[57, tr.3]. Theo quy định này thì nạn nhân của tội phạm không chỉ bao gồm
các cá nhân mà bao gồm cả các tổ chức. Ngoài ra, khoản 2 của Tuyên bố xác
định: “Nạn nhân của tôi phạm không chỉ bao gồm những người trực tiếp bị
hành vi phạm tội xâm hại mà còn bao gồm cả những người thân trong gia
đình, những người phụ thuộc vào nạn nhân và cả những người chịu thiệt hại
trong quá trình trợ giúp nạn nhân” [57, tr.4]. Theo đó, nội hàm khái niệm
nạn nhân của tội phạm đã được mở rộng không chỉ những người bị hành vi
phạm tội trực tiếp xâm hại (nạn nhân trực tiếp) mà còn bao gồm cả những nạn
nhân gián tiếp (những người chịu thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra). Với
quan điểm này, khái niệm nạn nhân của tội phạm không chỉ được mở rộng ra
các tổ chức mà còn được mở rộng ra cả những nạn nhân gián tiếp.
Việc xác định nạn nhân của tội phạm bao gồm cả nạn nhân trực tiếp và

nạn nhân gián tiếp có ý nghĩa quan trọng, giúp cho việc đánh giá chính xác
hậu quả thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra từ đó xác định chính xác tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ngoài ra, việc xác định nạn
nhân gián tiếp còn có ý nghĩa trong việc xác định về bồi thường và trợ giúp
cho nạn nhân của tội phạm.
Từ sự phân tích ở trên, có thể hiểu nạn nhân của tội phạm theo nghĩa
rộng như sau: “Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức đã chịu
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền
và lợi ích hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây ra”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Tráng, một trong những người tiên phong
trong lĩnh vực nghiên cứu nạn nhân của tội phạm tại Việt Nam, trên cơ sở
nghiên cứu, tìm hiểu các quan điểm về nạn nhân của tội phạm của các nhà
nghiên cứu, đã đưa ra định nghĩa nạn nhân của tội phạm như sau: “Nạn nhân

9


của tội phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những thiệt hại trực tiếp về
tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích
hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây ra” [42, tr.50].
Theo tác giả, định nghĩa nạn nhân của tội phạm theo quan điểm của nhà
nghiên cứu Nguyễn Hữu Tráng là định nghĩa cơ bản, tổng hợp và toàn diện
nhất. Theo đó nạn nhân của tội phạm bao gồm hai nét đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nạn nhân của tội phạm có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Cá nhân là nạn nhân của tội phạm phải là những người đang tồn tại vào
thời điểm hành vi phạm tội xảy ra, nghĩa là hành vi phạm tội phải xâm hại đến
một người đang tồn tại trong thế giới khách quan để gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại. Còn đối với nạn nhân là tổ chức phải là những tổ chức hợp pháp
có tài sản, còn tồn tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra.
Hai là, cá nhân, tổ chức đó phải chịu những thiệt hại trực tiếp về tính

mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp
pháp khác do hành vi phạm tội gây ra.
1.1.2 Phân loại
Trong tội phạm học, có nhiều cách phân loại nạn nhân của tội phạm.
Tùy vào mục đích nghiên cứu khác nhau mà có các căn cứ phân loại khác
nhau, cho ra những cách phân loại khác nhau. Trong đó, có những cách phân
loại phổ biến sau:
Thứ nhất, căn cứ vào địa vị pháp lý của nạn nhân, có thể chia nạn nhân
của tội phạm thành 02 nhóm:
- Nhóm nạn nhân là cá nhân: Đây là nhóm nạn nhân phổ biến của tội
phạm. Nhóm nạn nhân này có thể bị hành vi phạm tội xâm hại về cả tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tinh thần, tình cảm, tài sản và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác. Nhóm nạn nhân là cá nhân không chỉ bao gồm
những nạn nhân trực tiếp mà bao gồm cả những nạn nhân gián tiếp.

10


- Nhóm nạn nhân là tổ chức: Đây là nhóm nạn nhân chỉ có thể bị hành
vi phạm tội xâm hại về mặt kinh tế. Chính vì vậy nhóm nạn nhân này chỉ có
các nạn nhân trực tiếp chứ không có các nạn nhân gián tiếp. Nhóm nạn nhân
là tổ chức phải là những tổ chức hợp pháp có tài sản, còn tồn tại vào thời điểm
hành vi phạm tội xảy ra.
Thứ hai, căn cứ vào cơ chế tác động của hành vi phạm tội đến nạn
nhân, có thể chia nạn nhân của tội phạm thành 03 nhóm:
- Nhóm nạn nhân trực tiếp: Là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm
tội gây thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh thần, tài sản hay các quyền và lợi
ích hợp pháp khác.
- Nhóm nạn nhân thứ cấp (nạn nhân gián tiếp): Nạn nhân thứ cấp là
những cá nhân mặc dù hành vi phạm tội không trực tiếp tác động đến họ

nhưng do họ có mối quan hệ đặc biệt đối với nạn nhân trực tiếp nên hành vi
phạm tội đã gián tiếp tác động đến họ, gây ra những tổn hại về tinh thần, tình
cảm, sức khoẻ và thậm chí là những thiệt hại về kinh tế.
- Nhóm nạn nhân mở rộng (nạn nhân thứ ba): Nhóm nạn nhân này chỉ
phạm vi rộng hơn những người chịu ảnh hưởng tác động sâu sắc của hành vi
phạm tội. Đây là những người mặc dù không phải là những người thân thích
của nạn nhân nhưng sự kiện phạm tội đã tác động trực tiếp đến những người
này và gây ra những tổn thất lớn về tinh thần, tình cảm cho họ. Những người
này có thể là những người chứng kiến hành vi phạm tội, bạn bè, đồng nghiệp,
hàng xóm, những người tham gia cứu hộ, cứu chữa...
Thứ ba, căn cứ vai trò của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội, có
thể chia nạn nhân của tội phạm thành 02 nhóm:
- Nạn nhân có lỗi: Là những nạn nhân đã có các hành vi xử sự không
đúng chuẩn mực đạo đức, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hoặc thúc đẩy
hành vi phạm tội thực hiện. Những hành vi không đúng chuẩn mực có thể là

11


những hành vi như mất cảnh giác, coi thường sự bảo vệ tính mạng, tài sản,
hành vi không phù hợp với các chuẩn mực, thuần phong, mỹ tục thậm chí là
các hành vi trái pháp luật, hành vi phạm tội ... Nhiều nhà tội phạm học còn
chia nhóm này thành hai nhóm: Nhóm nạn nhân có lỗi nhỏ và nhóm nạn nhân
có lỗi nghiêm trọng. Nạn nhân có lỗi nhỏ là những nạn nhân có lỗi trong việc
bảo vệ tính mạng, sức khỏe hay tài sản của mình và của người thân trong gia
đình. Nạn nhân có lỗi nghiêm trọng là những người có hành vi trái đạo đức,
trái thuần phong, mỹ tục thậm chí là những hành vi khiêu khích, gây gổ hoặc
tấn công người khác.
- Nạn nhân không có lỗi: Là những nạn nhân hoàn toàn xử sự đúng
những chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Hành vi của họ hoàn toàn không tạo

điều kiện thuận lợi hay thúc đẩy hành vi phạm tội thực hiện. Nguyên nhân trở
thành nạn nhân của tội phạm hoàn toàn nằm ngoài phạm vi xử sự của họ.
Ngoài việc phân loại nạn nhân của tội phạm thành các nhóm nhất định
theo từng tiêu chí nêu trên, tội phạm học còn có nhiều sự phân loại nạn nhân
của tội phạm theo các căn cứ khác nhau, cụ thể:
Căn cứ vào khách thể của tội phạm có thể phân loại nạn nhân của tội
phạm thành: Nạn nhân của các tội xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm con người; nạn nhân của các tội phạm xâm phạm sở hữu; nạn
nhân của các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nạn nhân của các tội
phạm về ma túy…
Căn cứ vào giới tính có thể phân loại nạn nhân của tội phạm thành: Nạn
nhân là nữ giới, nạn nhân là nam giới.
Căn cứ vào độ tuổi có thể phân loại nạn nhân của tội phạm thành: Nạn
nhân là trẻ em; nạn nhân là người đã thành niên (trường hợp không thuộc đối
tượng là người già); nạn nhân là người già.
Căn cứ vào quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội có thể phân loại

12


nạn nhân của tội phạm thành: Nạn nhân có quen biết với người phạm tội, nạn
nhân có quan hệ họ hàng ruột thịt với người phạm tội và nạn nhân không quen
biết với người phạm tội.
Căn cứ vào đặc thù về thể chất có thể phân loại nạn nhân của tội phạm
thành: Nạn nhân là người khuyết tật, nạn nhân là người bình thường…
1.2. Nạn nhân của tình hình tội phạm
1.2.1 Tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản, chủ đạo của tội phạm học, đó
là một thuật ngữ khoa học nhưng đồng thời cũng là một thuật ngữ thường
được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn ngữ đời thường.

Tình hình tội phạm đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các góc
độ và khía cạnh khác nhau, hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về tình
hình tội phạm, như:
- Tình hình tội phạm là hành vi lệch chuẩn, có tính nguy hiểm cho xã hội.
- Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội phổ biến, tương đối ổn định
về thống kê, là một loại lệch chuẩn nguy hiểm cho xã hội được nhà làm luật
quy định trong đạo luật hình sự.
- Tình hình tội phạm là trạng thái xã hội thể hiện các mâu thuẩn xã hội
nhất định trong sự phát triển các bộ phận cấu thành của mình.
- Tình hình tội phạm không chỉ là tổng thể các hành vi nguy hiểm cho
xã hội đơn lẽ mà còn là một quá trình xã hội tuân theo các quy luật chung của
sự phát triển các hiện tượng xã hội…
Các quan niệm trên chỉ phản ánh được một hoặc một vài khía cạnh, góc
độ của tình hình tội phạm; các dấu hiệu khác của tình hình tội phạm như:
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử; tình hình tội
phạm là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp; tình hình tội phạm tồn tại
trong một không gian và thời gian nhất định… thì khái niệm chưa đề cập đến.

13


Nhà nghiên cứu Võ Khánh Vinh cho rằng: Phương pháp nhận thức khái
niệm tình hình tội phạm phải được hình thành bằng tư duy chuyển mức độ
nhận thức từ sự kiện, hành vi và khái niệm tội phạm đơn nhất đến một khái
niệm chung hơn, khái quát hơn, phức tạp hơn – tình hình tội phạm, tức là đi
từ nhận thức cụ thể đến nhận thức cao hơn, khái quát hơn những nhận thức đã
đạt được [72, tr.2]. Theo đó, tình hình tội phạm phải có các dấu hiệu sau:

(1)


Tình hình tội phạm là một thuộc tính của xã hội tái sản xuất ra nhiều hành vi
nguy hiểm cho con người, xã hội và Nhà nước;

(2)

Tình hình tội phạm là một

hiện tượng xã hội được thay đổi về mặt lịch sử;

(3)

Tình hình tội phạm là một

hiện tượng pháp luật;

(4)

Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội mang

tính giai cấp; (5) Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực;

(6)

Tình

hình tội phạm là một tổng thể thống nhất các tội phạm đã được thực hiện
trong xã hội, được đặc trưng bởi các chỉ số về lượng và chất;

(7)


Tình hình tội

phạm tồn tại trong một không gian và thời gian nhất định [72, tr.2-4].
Khái quát các dấu hiệu nêu trên có thể hiểu: Tình hình tội phạm là một
thuộc tính của xã hội tái sản xuất ra các hành vi nguy hiểm đối với con người,
xã hội và Nhà nước, là một hiện tượng pháp luật – xã hội, được thay đổi về
mặt lịch sử, tiêu cực, phổ biến, bao gồm tổng thể các tội phạm được thực hiện
ở một không gian và giai đoạn nhất định, được đặc trưng bởi các chỉ số về
lượng và chất [72, tr.4].
Nghiên cứu khái niệm tình hình tội phạm trong tội phạm học có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, cụ thể:
Một là, để làm sáng tỏ được dấu hiệu tình hình tội phạm là một hiện
tượng xã hội, khi nghiên cứu phải dựa vào các điều kiện của đời sống xã hội,
các quá trình, hiện tượng xã hội khác mà đánh giá, nhận xét, giải thích; phải
nghiên cứu tình hình tội phạm trong mối liên hệ với thực tại khách quan, với
các hiện tượng và quá trình xã hội khác để có một nhận thức đúng đắn về hiện

14


tượng đó, giúp cho người nghiên cứu có cơ sở đề ra các biện pháp tác động
đến “nó” (một hiện tượng xã hội phức tạp chứ không phải như một sự kiện
đơn nhất).
Hai là, khi làm rõ được dấu hiệu tình hình tội phạm là hiện tượng được
thay đổi về mặt lịch sử sẽ cho người nghiên cứu thấy được hiện tượng đó xuất
hiện trong lịch sử như thế nào, nó trải qua các giai đoạn phát triển nào, hiện
nay tồn tại ra sao và cả sự phát triển, tồn tại của tình hình tội phạm trong
tương lai; đồng thời, trang bị cho người nghiên cứu những hiểu biết về quy
luật hình thành và phát triển của hiện tượng xã hội đó, biết được mối liên hệ
biện chứng giữa sự thay đổi về nội dung của tình hình tội phạm với những

thay đổi khác diễn ra trong xã hội và dự báo được sự phát triển của tình hình
tội phạm trong tương lai, thông qua đó để đề ra các biện pháp, giải pháp tổng
thể tác động đến tình hình tội phạm.
Ba là, việc làm sáng tỏ dấu hiệu tình hình tội phạm là một hiện tượng
xã hội gắn liền với xã hội có giai cấp, giúp cho người nghiên cứu hiểu được
bản chất giai cấp của hiện tượng đó.
Bốn là, việc làm sáng tỏ tình hình tội phạm là một hiện tượng pháp lý
hình sự và là một hiện tượng tiêu cực gây nguy hiểm lớn cho xã hội, giúp cho
người nghiên cứu hiểu được những hậu quả do tình hình tội phạm gây ra đối
với quá trình phát triển của xã hội, hiểu được các thiệt hại về mọi mặt mà xã
hội, con người, tổ chức phải gánh chịu, từ đó có thái độ nghiêm túc, tăng
cường sự quan tâm, chú ý đặc biệt đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tình
hình tội phạm.
Năm là, làm rõ dấu hiệu tình hình tội phạm là một tổng thể thống nhất
biện chứng các dấu hiệu, các đặc điểm của nó giúp người nghiên cứu hiểu
được muốn tác động đến nó, muốn khắc phục dần tình hình tội phạm trong xã
hội, một mặt phải tác động đến từng mặt, từng đặc điểm riêng của tình hình

15


tội phạm, nhưng mặt khác cũng phải có những biện pháp tác động tổng thể
đến toàn bộ tình hình tội phạm nói chung.
Sáu là, việc làm sáng tỏ dấu hiệu về không gian và thời gian của tình
hình tội phạm giúp cho người nghiên cứu có cơ sở trong việc đề ra các giải
pháp góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm sát thực tế của địa phương cụ
thể và gắn với từng thòi điểm nhất định, cũng như góp phần vào đấu tranh
phòng, chống tội phạm trên phạm vi toàn quốc.
Ngoài ra, khi nghiên cứu tình hình tội phạm, nhà nghiên cứu Võ Khánh
Vinh đã đề cập đến vấn đề địa lý học tình hình tội phạm. Theo đó, địa lý học

tình hình tội phạm là sự phân bố các tội phạm theo không gian – thời gian
(theo mức độ, cơ cấu, diễn biến) gắn liền với các đặc điểm của các vùng trên
thế giới, của các quốc gia hoặc các đơn vị lãnh thổ hành chính khác nhau của
một quốc gia, với số lượng, cơ cấu và sự cư trú của dân cư ở các lãnh thổ
được nghiên cứu, với các hình thức tổ chức đời sống đặc thù của mọi người,
các điều kiện lao động, lối sống, nghỉ ngơi của họ, với văn hóa, các truyền
thông dân tộc và với các đặc điểm khác [72, tr.22].
Nghiên cứu địa lý học tình hình tội phạm cho thấy, những khác nhau
chỉ ra trong mức độ, cơ cấu và diễn biến của tình hình tội phạm không phải là
ngẫu nhiên; chúng gắn liền với các đặc điểm nhân chủng học, kinh tế, xã hội,
văn hóa, tổ chức, dân tộc, sinh thái, pháp luật, thống kê và các đặc điểm khác
của quốc gia này hay quốc gia khác, của địa phương này hay của địa phương
khác. Trong trường hợp này, các đặc điểm đó được gắn kết với nhau về mặt
địa lý học của chúng. Do đó, nghiên cứu địa lý học tình hình tội phạm có ý
nghĩa đặc biệt đối với tội phạm học nói chung và nghiên cứu nạn nhân của
tình hình tội phạm gắn với địa bàn cụ thể nói riêng; là cơ sở để đề xuất các
giải pháp phòng ngừa nguy cơ trở thành nạn nhân của tội phạm hiệu quả, tối
ưu theo đơn vị lãnh thổ hành chính cụ thể.

16


1.2.2. Nạn nhân của tình hình tội phạm
1.2.2.1. Khái niệm
Khái niệm nạn nhân của tình hình tội phạm được xây dựng trên cơ sở
những nhận thức cơ bản về nạn nhân của tội phạm và tình hình tội phạm.
Từ những phân tích ở trên về nạn nhân của tội phạm và tình hình tội
phạm, tác giả đưa ra định nghĩa nạn nhân của tình hình tội phạm như sau:
“Nạn nhân của tình hình tội phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những
thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc

các quyền và lợi ích hợp pháp khác do tổng thể các hành vi phạm tội gây ra
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định”.
Như vậy, nạn nhân của tình hình tội phạm được hiểu là:
Thứ nhất, nạn nhân của tình hình tội phạm có thể là cá nhân hoặc tổ
chức. Cũng như nạn nhân của tội phạm, cá nhân là nạn nhân của tình hình tội
phạm phải là những người đang tồn tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra,
nghĩa là hành vi phạm tội phải xâm hại đến một người đang tồn tại trong thế
giới khách quan để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại; tổ chức là nạn nhân
của tình hình tội phạm phải là những tổ chức hợp pháp có tài sản, còn tồn tại
vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra.
Thứ hai, cá nhân, tổ chức là nạn nhân của tình hình tội phạm phải chịu
những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản
hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác do tổng thể các hành vi phạm tội gây
ra. Khác với nạn nhân của tội phạm, những thiệt hại do tình hình tội phạm gây
ra đối với nạn nhân phải do tổng thể các hành vi phạm tội gây ra. Tổng thể
các hành vi phạm tội ở đây có thể được hiểu là toàn bộ các hành vi của tất cả
các loại tội phạm.
Thứ ba, tổng thể các hành vi phạm tội gây ra cho nạn nhân được xác
định trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Xuất phát từ các

17


dấu hiệu của tình hình tội phạm như: Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã
hội được thay đổi về mặt lịch sử; tình hình tội phạm tồn tại trong một không
gian và thời gian nhất định… nên những thiệt hại do tổng thể các hành vi
phạm tội gây ra cho nạn nhân cũng phải được xác định trong một khoảng thời
gian và không gian nhất định. Thời gian ở đây được tính trong từng giai đoạn:
6 tháng, 1 năm, 2 năm, 5 năm, 10 năm… Không gian thường được giới hạn
bởi địa giới hành chính: 1 xã, 1 huyện, 1 tỉnh, 1 vùng, 1 quốc gia…

Nghiên cứu nạn nhân của tình hình tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Trước hết, nghiên cứu nạn nhân của tình hình tội phạm giúp cho việc
đánh giá tính chất, mức độ của tình hình tội phạm cũng như những hậu quả
thiệt hại do tình hình tội phạm gây ra cho nạn nhân trong một khoảng thời
gian và không gian nhất định. Tiếp đến, nghiên cứu nạn nhân của tình hình tội
phạm giúp ngăn ngừa rủi ro và nguy cơ trở thành nạn nhân của tình hình tội
phạm, làm giảm các nguyên nhân phát sinh tội phạm xuất phát từ phía nạn
nhân. Bên cạnh đó, nghiên cứu nạn nhân của tội phạm còn giúp cho việc xây
dựng các chính sách hình sự, chính sách xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh nhất định, từ đó tổ chức thực hiện có hiệu quả.
1.2.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể:
Nạn nhân của tình hình tội phạm có thể là các nhân hoặc tổ chức:
Cá nhân là nạn nhân của tội phạm phải là những người đang tồn tại vào
thời điểm hành vi phạm tội xảy ra. Nghĩa là hành vi phạm tội phải xâm hại
đến một người đang tồn tại trong thế giới khách quan để gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại.
Nạn nhân là tổ chức phải là những tổ chức hợp pháp có tài sản và vẫn
còn tồn tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra. Những tổ chức bất hợp

18


pháp không thể là nạn nhân của tình hình tội phạm vì bản thân sự tồn tại của
tổ chức đó đã bất hợp pháp vì vậy không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bị hại là cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”
[23, tr.32]. Theo quy định này, bị hại (một dạng nạn nhân của tình hình tội
phạm) có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Ở đây, cần mở rộng nội hàm của khái niệm nạn nhân của tình hình tội
phạm (bị hại) bao gồm cả loại “nạn nhân trừu tượng”, bao gồm: Nhóm người,
một cộng đồng hay một tôn giáo, một sắc tộc. Chẳng hạn, tổng thể các hành
vi phạm tội về môi trường hay tổng thể các hành vi phạm tội sử dụng công
nghệ cao có thể gây thiệt hại cho các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, cả hệ
thống kinh tế, tiền tệ đa quốc gia, khu vực.
Thứ hai, đặc điểm về thiệt hại:
Nạn nhân của tình hình tội phạm có thể bị thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác do
hành vi phạm tội gây ra. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại trực tiếp hoặc
thiệt hại gián tiếp nhưng đầu tiên và tối thiểu là nạn nhân có một thiệt hại trực
tiếp từ hành vi phạm tội gây ra.
Ví dụ: Trong các vụ cố ý gây thương tích, nạn nhân không những bị
thiệt hại trực tiếp về sức khỏe, mà còn bị mất việc làm do không đủ sức khỏe,
dẫn đến mất thu nhập, gây ra thiệt hại gián tiếp (tài sản). Thiệt hại về tài sản
không phải do hành vi cố ý gây thương tích trực tiếp gây ra mà gián tiếp gây
ra. Chính sự kiện “mất việc làm” mới là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại
tài sản. Vì vậy, nạn nhân có thể cùng bị hai loại thiệt hại: Thiệt hại trực tiếp
(thể chất) và thiệt hại gián tiếp (tài sản) do tội phạm cố ý gây thương tích gây
ra. Trong trường hợp này không thể xem nạn nhân chỉ có thiệt hại thể chất

19


mà không có thiệt hại về tài sản. Nói chính xác hơn, nạn nhân ít nhất cũng có
một thiệt hại do tội phạm trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra, ngoài ra còn có
thể có một hoặc nhiều thiệt hại gián tiếp.
Thứ ba, đặc điểm về nguồn gốc gây ra thiệt hại:
Tổng thể các hành vi phạm tội có thể gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián
tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, tinh thần, tình cảm, tài sản hoặc các quyền và

lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức. Những thiệt hại đó, phải do chính
hành vi bị coi là tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, điều này có nghĩa là giữa
hành vi phạm tội với hậu quả thiệt hại mà nạn nhân gánh chịu phải có mối
quan hệ nhân quả. Nếu không tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
phạm tội và hậu quả thiệt hại thì không thể được coi là nạn nhân của tình hình
tội phạm.
Thứ tư, đặc điểm về hình thức pháp lý:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tội phạm có thể được xác định
bằng các bản án kết tội (trước đó là quyết định khởi tố bị can, bị cáo…). Còn
đối với nạn nhân của tình hình tội phạm thì không có một văn bản pháp lý cụ
thể nhằm xác định nạn nhân của tình hình tội phạm. Nạn nhân của tình hình
tội phạm chỉ trở thành bị hại trong tố tụng hình sự khi họ được Cơ quan tiến
hành tố tụng công nhận là bị hại thể hiện trong các quyết định, biên bản.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các văn bản tố tụng đã đề cập đến nạn
nhân của tình hình tội phạm (hoặc bị hại), cụ thể: (1) Trong giai đoạn khởi tố,
điều tra gồm: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, biên bản ghi lời khai, giấy
triệu tập, biên bản đối chất, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản hỏi
cung, bản kết luận điều tra; (2) Trong giai đoạn truy tố gồm: Cáo trạng, Quyết
định truy tố, danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa được lập
bởi Viện kiểm sát;

(3)

Trong giai đoạn xét xử gồm: Quyết định đưa vụ án ra

xét xử; giấy triệu tập tham gia phiên tòa, bản án.

20



×