Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho thanh niên ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.1 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRẦN NGUYỄN HOÀNG CHƯƠNG

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO CHO THANH NIÊN Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Đà Nẵng – Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRẦN NGUYỄN HOÀNG CHƯƠNG

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO CHO THANH NIÊN Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM HUY THÀNH

Đà Nẵng – Năm 2017




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................4
5. Bố cục của đề tài..................................................................................4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .............................................................4
CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊN HIỆN NAY..............................12
1.1. LÝ LUẬN VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO, GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO
VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO ........................................................................12
1.1.1. Khái niệm chủ quyền biển đảo.....................................................12
1.1.2. Ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo...............................................16
1.2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO........20
1.2.1. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo, làm cho thanh niên
có tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc....................................................................21
1.2.2. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo giúp cho thanh niên ý
thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc. .......................22
1.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo giúp cho thanh niên
nhận thức đầy đủ về “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch ................23
1.2.4. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo là trang bị cho thanh
niên có ý thức giải quyết các tranh chấp chủ quyền theo luật pháp quốc tế....24
1.3. BỐI CẢNH GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO
THANH NIÊN .................................................................................................25
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
quyền biển đảo cho thanh niên hiện nay ..........................................................25



1.3.2. Những yêu cầu cơ bản trong việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
quyền biển đảo .................................................................................................31
Kết luận chương 1 ............................................................................................35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO
THANH NIÊN TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY ......................................38
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH THANH NIÊN TỈNH QUẢNG NGÃI 38
2.1.1. Tổng quan về tỉnh Quảng Ngãi...................................................38
2.1.2. Tình hình thanh niên tỉnh Quảng Ngãi ........................................40
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊN TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN
NAY .................................................................................................................42
2.2.1. Một số kết quả đạt được ................................................................42
2.2.2. Hạn chế.........................................................................................56
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ý THỨC
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊN TỈNH QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY.......................................................................................................64
Kết luận chương 2 ............................................................................................68
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
ĐỂ NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊNTỈNH QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY .................................................................................................... 70
3.1. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO
THANH NIÊN TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY........................................70


3.1.1. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, chủ
quyền dân tộc cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi ...............................................70

3.1.2. Tăng cường công tác tuyên truyền quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển đảo cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
hiện nay.............................................................................................................74
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊN
TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY ................................................................79
3.2.1. Khắc phục những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị
trường và quá trình toàn cầu hoá để giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo
cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi........................................................................79
3.2.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục ý thức chính trị nhằm
nâng cao nhận thức và hành động cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi trong việc
bảo vệ chủ quyền biển đảo ...............................................................................84
3.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong việc
giáo dục ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền biển đảo cho thanh niên tỉnh
Quảng Ngãi hiện nay.........................................................................................87
3.2.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của thanh niên tỉnh
Quảng Ngãi trong việc học tập, rèn luyện ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo 93
3.2.5. Kế thừa truyền thống Hải đội Hoàng Sa – Giữ vững ngư trường
“Hoàng Sa” .......................................................................................................95
Kết luận chương 3 ..........................................................................................101
KẾT LUẬN ...................................................................................................103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định:

“Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia” [26, tr. 234]. Theo đó,
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm và tình yêu
biển đảo, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của hệ thống chính trị
các cấp và lực lượng vũ trang nhân dân.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, tinh thần yêu nước, yêu biển đảo cùng
với ý thức tự tôn dân tộc đã hun đúc tạo thành nền tảng tinh thần vững chắc,
xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Về quân sự, quốc
phòng, biển đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành một khối liên hoàn, vững
chắc; sự liên kết giữa các đảo, cụm đảo, quần đảo tạo thành hệ thống cứ điểm
tiền tiêu, lá chắn quan trọng, bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Lịch sử
dân tộc ta ghi nhận đã có 2/3 các cuộc tiến công xâm lược, kẻ thù sử dụng
đường biển để mở đầu. Do đó, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý
thức, trách nhiệm và tình yêu biển đảo, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng,
thiết thực.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển đảo trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc (BVTQ), Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đối với biển đảo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá X) Về Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định rõ quan điểm, định hướng mục
tiêu cơ bản để phấn đấu: đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển,
giàu lên từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia


2
trên biển. Những năm gần đây, công tác tuyên truyền, giáo dục về biển đảo có
sự đổi mới; các hoạt động từ đất liền hướng về biển đảo được tổ chức thường
xuyên. Nổi bật là “Tuần lễ Biển và hải đảo Việt Nam” diễn ra sôi nổi ở nhiều
địa phương, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, tình yêu biển đảo của các

tầng lớp nhân dân. Thông qua các phong trào, như: “Cả nước vì Trường Sa –
Trường Sa vì cả nước”, “Chung tay thắp sáng nhà giàn DK1”, các dự án và
các công trình phục vụ đời sống sinh hoạt trên các đảo đã tạo thêm điều kiện
để bộ đội và nhân dân trên đảo thêm gắn bó với biển đảo “vững vàng nơi đầu
sóng, ngọn gió”. Bộ đội Hải quân với vai trò là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ
quyền biển đảo của Tổ quốc đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng về
biển đảo, đạt hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức, trách
nhiệm của mỗi người đối với nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển đảo
của Tổ quốc.
Nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, tỉnh Quảng Ngãi có vị
trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển đảo, tăng cường quốc
phòng và an ninh của khu vực và cả nước. Quán triệt sâu sắc các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, nghị định của Chính phủ, Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi
đã tích cực khắc phục khó khăn, phát huy nội lực, chủ động, sáng tạo, tự lực
tự cường, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đảo, gắn với bảo vệ chủ quyền
quốc gia và đạt được những thành tựu quan trọng.
Thanh niên ở tỉnh Quảng Ngãi đa số là ưu tú, giàu tâm huyết, nhiệt tình
và say mê với lý tưởng cách mạng. Họ là những người rất nhạy cảm với cái
mới, thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh sống.
Tuy nhiên, do tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, làm cho thanh
niên rất dễ bị tác động bởi những yếu tố tiêu cực từ các kênh thông tin khác
nhau. Vấn đề chủ quyền biển đảo trên biển Đông trong những năm gần đây


3
đang tác động rất lớn tới thanh niên tỉnh Quảng Ngãi từ nhiều góc độ khác
nhau. Sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981, xây
dựng các đảo đá nhằm tạo ra đường băng sân bay, gây hấn với ngư dân trên
biển. Những hành động đó đang ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của thanh

niên, đến niềm tin của thanh niên đối với các chủ trương, giải pháp của Đảng,
Nhà nước trong vấn đề bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước.
Thực trạng niềm tin của thanh niên tỉnh Quảng Ngãi trên có nhiều
nguyên nhân, một trong số đó là do chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc
giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo các tầng lớp thanh niên. Để củng
cố và tiếp tục xây dựng niềm tin cho thanh niên vào sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, đồng thời gắn trách nhiệm,
nghĩa vụ của thanh niên với vấn đề này. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Giáo
dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho thanh niên ở tỉnh Quảng Ngãi
hiện nay” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và từ thực trạng giáo dục ý thức chủ quyền
biển đảo cho thanh niên ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay; đề tài đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền
biển đảo cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
Với mục tiêu đó, đề tài có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích vai trò và những yêu cầu cơ bản của việc giáo dục ý
thức bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Thứ hai, Phân tích thực trạng vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền
biển đảo cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi hiện nay và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho thanh niên
tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền
biển đảo cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thanh niên tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2010 cho đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật; luận văn sử
dụng các phương pháp logic và lịch sử; phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
đối chiếu... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
6.1. Các công trình nghiên cứu về chủ quyền biển đảo Tổ quốc
Vấn đề chủ quyền biển đảo đã có nhiều công trình nghiên cứu và biên
soạn.
Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành trung ương
Đảng (khoá X), được sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương và Quân
chủng Hải quân, Trung tâm thông tin công tác tư tưởng phối hợp với Cục
chính trị Quân chủng Hải quân biên soạn cuốn Biển và hải đảo Việt Nam
xuất bản tại Hà Nội, năm 2007. Tài liệu đã cung cấp những nội dung cơ
bản về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các tư
liệu, tài liệu về biển đảo Việt Nam và quốc tế. Tài liệu đã nhấn mạnh:
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng đối với khu vực và trên thế giới. Trong
lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển


5
luôn gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và
con người Việt Nam [8, tr. 3].
Tài liệu đã khẳng định:
Biển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của

các nước có biển nói riêng và của thế giới nói chung. Một số nước
và vùng lãnh thổ đã lợi dụng thế mạnh về biển đạt trình độ phát
triển kinh tế rất cao. Do tầm quan trọng của biển, từ lâu cuộc chạy
đua trong sự phát triển kinh tế biển cũng như triển khai lực lượng
quân sự trên biển và sự tranh chấp trên biển diễn ra rất gay gắt [8,
tr. 41].
Vì vậy việc xây dựng, quản lý, phát triển và bảo vệ quyền lợi biển là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với việc gìn giữ toàn vẹn chủ quyền quốc
gia, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
trong thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Cuốn sách Biển Đông yêu dấu của tác giả Trần Ngọc Toản (2011) giới
thiệu một số kiến thức về khoa học biển, về tài nguyên phong phú của biển
Đông, lịch sử hào hùng của dân tộc ta, và các thách thức trong sự nghiệp làm
chủ, khai thác và bảo vệ phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Cuốn sách
là chặng đường dài hấp dẫn với những câu chuyện ly kỳ, thú vị. Với tinh thần
học hỏi, tình yêu thiên nhiên đất nước chúng ta thấy phần lãnh thổ, lãnh hải
Việt Nam vô cùng tươi đẹp, tràn đầy sức sống qua miêu tả của tác giả.
Các tác giả biên soạn Tài liệu tập huấn giáo viên cốt cán giáo dục
quốc phòng – an ninh do Vụ giáo dục quốc phòng và chương trình phát triển
Giáo dục phổ thông ban hành cho rằng để thực hiện thắng lợi mục tiêu của
chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 theo Nghị quyết số 09NQ/TƯ ngày 09/02/2007 tại Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X) đã khẳng định:


6
Chúng ta phải tiến hành xây dựng và phát triển đồng bộ trên tất cả
các lĩnh vực của đất nước, củng cố tiềm lực quốc phòng - an ninh,
nhằm bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, trong đó có
vùng biển đảo của Tổ quốc. Thường xuyên tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc phòng – an ninh, chủ quyền

lãnh thổ, biển đảo Việt Nam cho toàn dân, nhất là học sinh, sinh
viên là rất quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện nay [94, tr.
5].
Tài liệu nêu khái quát chung về biển, đại dương thế giới; trong chương
II, tài liệu đi sâu nghiên cứu về biển đảo Việt Nam trong quá trình dựng
nước và giữ nước, trong sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế đất nước. Đặc
biệt, trong chương IV khẳng định về chủ quyền biển đảo của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở những văn bản của Đảng và Nhà nước
về biển đảo; các chứng cứ lịch sử chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, nhất là đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một vấn đề thiêng liêng nhưng
cũng hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi có sự đóng góp
về công sức, trí tuệ của nhân dân, của nhiều thế hệ người Việt
Nam; bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước là trách nhiệm của
toàn dân và phải được tiến hành trên nhiều lĩnh vực và tổ chức
tuyên truyền sâu rộng cho mọi tầng lớp nhân dân để mỗi người
dân nâng cao nhận thức, xác định tốt nghĩa vụ, trách nhiệm đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa [96, tr. 129].
Tác giả Trần Công Trục (2011) trong Dấu Ấn Việt Nam trên biển
Đông đã nhấn mạnh về vị trí vai trò của biển Đông trong lịch sử dân tộc,


7
đồng thời tác giả đã giới thiệu rõ những định nghĩa mang tính chuyên ngành
về nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa và chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Theo đó,
một quốc gia ven biển như Việt Nam không chỉ có chủ quyền trên đất liền
mà còn giữ chủ quyền trên “lãnh hải” hay còn gọi là “vùng nước lãnh thổ” –

một dải biển ven bờ nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ đất liền hoặc nội thủy
của quốc gia ven biển, có một chiều rộng nhất định (không quá 12 hải lý)
được tính từ đường cơ sở của quốc gia và thuộc chủ quyền hoàn toàn của
quốc gia ven biển. Chủ quyền này được mở rộng và áp dụng đối với cả vùng
trời trên lãnh hải, cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy của lãnh
hải.
Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc là cuốn sách của nhiều
tác giả (2013), do Thiếu tá, nhà báo Trần Hoàng Tiến – phóng viên Báo Quân
đội nhân dân biên soạn, thông qua các câu chuyện sinh động đã khắc họa về
con người, sự kiện gắn liền với những phần lãnh hải cơ bản thiêng liêng của
Tổ quốc từ “Thuở hồng hoang cha ông ta xuống biển” đến ngày nay. Trong
đó nổi bật là hình ảnh người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vững vàng
nơi đầu sóng ngọn gió, ngày đêm canh giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng
của Tổ quốc, cùng với đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của đất liền
với quân dân trên các đảo, là niềm tin yêu son sắt qua những câu chuyện cảm
động về tình quân dân cá nước...
Tiếp tục khẳng định về chủ quyền biển đảo Việt Nam, Người Việt với
biển của tác giả Nguyễn Văn Kim (2011) đã tập trung khai thác và lý
giải mối quan hệ giữa đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam với thế giới bên
ngoài qua con đường biển.
Thế hệ nối tiếp thế hệ, các cộng đồng dân cư sinh sống trên lãnh
thổ Việt Nam đã khai phá đất đai, chinh phục biển cả, xác lập


8
chủ quyền, mở rộng giao thương, viết tiếp những trang sử hào hùng
của cha ông để lại. Cùng với quá trình “mở nước” về phương Nam,
là những hành trình giương buồm ra khơi làm chủ nhiều quần
đảo, nhiều vùng biển [36, tr. 10].
Từ đó, tài liệu nhấn mạnh “chủ quyền và an ninh biển là chủ đề

được quan tâm xuyên suốt theo dòng chảy của lịch sử đất nước…việc bảo
vệ chủ quyền giữ gìn an ninh phát triển kinh tế biển là nhiệm vụ mang tính
chiến lược lâu dài” [37, tr. 11].
Trong Dọc Đường cơ sở biển Tổ quốc tôi do tác giả Hà Minh Hồng
(2012) chủ biên có một cụm từ mới gần đây thôi đã trở thành chữ thường
dùng của mỗi quốc gia ven biển, ấy là Đường cơ sở. Chẳng phải để đi, chỉ vẽ
lên hải đồ, nhưng giá trị lại hiện lên bằng những con số rõ ràng định lượng.
Đường cơ sở là ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thuỷ,
do quốc gia có biển định ra, làm cơ sở để xác định phạm vi của các vùng biển
thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Đường cơ sở biển Việt Nam đã
định hình trong đời sống pháp luật quốc gia và quốc tế từ năm 1982. Kể từ đó,
mỗi người dân yêu nước Việt Nam được thấy rõ trên bản đồ Tổ quốc cả biên
giới đất liền và hải đảo, đầy đủ cương vực lãnh thổ với biển, trời, đất nước
yêu thương.
Trong Những điều cần biết về Đất – Biển – Trời Việt Nam của tác giả
Lưu Văn Lợi (2010) đã khẳng định rằng:
Trên chặng đường bốn mươi thế kỉ, dân tộc ta đã kiên trì và từng
bước mở rộng ra biển Đông, từ ven bờ tiến ra biển gần, rồi biển xa,
từ đất liền tiến vào các đảo ven bờ rồi các đảo xa hơn. Biển có ý
nghĩa chiến lược đối với nước ta về cả hai mặt an ninh và phát
triển [49, tr. 49].


9
Theo tác giả, đối với tất cả các quốc gia dù là Nhà nước – dân tộc
có lịch sử lâu đời hay Nhà nước mới giành được được độc lập và
đang phải xây dựng dân tộc, lãnh thổ và toàn vẹn lãnh thổ là vấn
đề thiêng liêng, trong đó có cả vấn đề về chủ quyền biển đảo Tổ
quốc [49, tr. 59].
Trong bài viết Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kết hợp

phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo (1986-2007), tác giả Vũ
Quang Hiển đã nhấn mạnh đến những giá trị chiến lược của biển đảo Việt
Nam:
Biển đảo có vị trí rất quan trọng, không chỉ với phát triển kinh tế xã hội, mà cả với quốc phòng - an ninh. Bảo vệ chủ quyền biển đảo
không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ một địa bàn sống, địa bàn phát triển
kinh tế, mà còn là bảo vệ một địa bàn chiến lược lợi hại, nằm trong
thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
[36, tr. 3].
Tác giả đưa ra những chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam về
việc tổ chức tốt việc bảo vệ chủ quyền, và giữ vững an ninh các tuyến biên giới,
vùng trời, vùng biển và hải đảo.
Địa lý biển Đông với Hoàng Sa – Trường Sa của tác giả Vũ Hữu San
(2014). Tác giả là một người từng gắn bó với biển đảo Việt Nam, tác giả Vũ
Hữu San có một lợi thế đặc biệt trong việc trải nghiệm cuộc sống nơi đây.
Nhờ đó ông đã dành nhiều thời gian cho công sức trong việc tập hợp, phân
tích các tư liệu trong và ngoài nước nhằm cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn
toàn diện về địa lý biển đảo có tính liên ngành, có mối quan hệ tới thành quả
của nhiều môn khoa học khác nhau. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ được
tiếp cận nhiều thông tin quý giá về địa chất, thời tiết, động vật, thực vật, tài


10
nguyên, con người... mà ít tác giả nào có thể tổng hợp được. Đây là một
nguồn tài liệu rất đặc biệt và bổ ích cho mọi độc giả.
6.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục ý thức chính trị, ý thức
bảo vệ tổ quốc
Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc XHCN,
đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đề cập dưới các góc
độ khác nhau về bảo vệ Tổ quốc XHCN như: “Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện khoa học xã hội nhân văn quân

sự, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003; “Nâng cao chất lượng quán triệt
tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc cho học viên đào tạo cán bộ chính trị
cấp trung đoàn ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay”, đề tài khoa học cấp
Học viện do Tiến sỹ Đặng Bá Minh chủ nhiệm đề tài, Học viện Chính trị quân
sự 2004.
Về ý thức chính trị XHCN, có một số công trình khoa học như: “Phát
triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi
mới” của PGS - TS Lê Văn Quang, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2001;
“Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Hồng Anh, Luận văn thạc sỹ Triết học,
Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 1995; “Phát huy vai trò của tổ chức công
đoàn trong nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của công nhân các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay”
của Nguyễn Ngọc Liệu, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị quân
sự, Hà Nội, 2004. Đinh Quốc Triệu (2005), “Vai trò của gia đình trong giáo
dục ý thức BVTQ XHCN cho thanh niên ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn
văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Hà Công Chờ
(2007), “Phát triển ý thức quốc phòng của học viên bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng ở Trường Quân sự Quân khu 7 hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học,


11
Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Các công trình khoa học, bài viết của các
tác giả đã đề cập tương đối toàn diện và có hệ thống về bảo vệ Tổ quốc
XHCN; về ý thức xã hội và ý thức chính trị XHCN; về gia đình, vị trí vai trò,
chức năng, mối quan hệ của gia đình. Đồng thời nêu lên một số phương
hướng, giải pháp nhằm xây dựng, nâng cao nhận thức về bảo vệ Tổ quốc
XHCN trong tình hình mới, nâng cao ý thức chính trị XHCN, ý thức bảo vệ
Tổ quốc XHCN cho nhân dân nói chung, trong quân đội nói riêng.
Vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo đã có một số công trình

nghiên cứu và biên soạn. Tuy nhiên những công trình khoa học trên chỉ mới
nghiên cứu về vấn đề chủ quyền biển đảo trên cơ sở lịch sử dân tộc. Các
hướng nghiên cứu chỉ mới luận chứng chủ quyền biển đảo dựa trên luật pháp
quốc tế và vai trò của nó đối với vấn đề độc lập của dân tộc. Chưa có công
trình nào nghiên cứu về giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo nói chung,
đặc biệt là tầng lớp thanh niên mà cụ thể ở đây là thanh niên ở tỉnh Quảng
Ngãi. Những công trình khoa học trên là những cơ sở lý luận và thực tiễn để
luận văn kế thừa và phát triển.


12
CHƯƠNG 1

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO CHO THANH NIÊN HIỆN NAY
1.1. LÝ LUẬN VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO, GIÁO DỤC Ý THỨC
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
1.1.1. Khái niệm chủ quyền biển đảo
Khái niệm chủ quyền biển đảo nằm trong khái niệm chủ quyền lãnh
thổ quốc gia.
Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông:
Chủ quyền quốc gia là quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc
gia độc lập, tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định
vận mệnh của mình. Những nội dung này được khẳng định trong
pháp luật mỗi nước, trong văn bản pháp lý quốc tế, là nguyên tắc
cơ bản cần tuân theo [47, tr. 104].
Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn toàn
và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của
mình. Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết
định mọi vấn đề của quốc gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng

liêng, bất khả xâm phạm. Quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp lí
đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt
động của các cơ quan nhà nước như các hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp [11, tr. 30].
Theo Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ


13
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng
biển và vùng trời” [11, tr. 30].
Theo công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (thường được
gọi tắt là Công ước Luật Biển năm 1982) được thông qua tại thành phố Môntê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Công ước đã có hiệu lực và
hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là
Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và
Bru-nây. Công ước quy định chủ quyền của các quốc gia ven biển có các
vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ
đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển. Công ước Luật Biển
năm 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển.
* Nội thủy (Internal Waters): Điều 8 của Công ước Luật Biển năm
1982 quy định, nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm
phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Tại nội thủy,
quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ
đất liền của mình.
* Lãnh hải (Territorial Sea): Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài
đường cơ sở. Theo luật biển quốc tế cho đến những năm 60 của thế kỷ 20,
chiều rộng của lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ có 03 hải lý (mỗi hải lý
bằng 1.852m). Theo luật biển quốc tế hiện đại, cụ thể là điều 3 của Công ước

Luật Biển năm 1982 thì chiều rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý. Lãnh hải
Việt Nam bao gồm lãnh hải đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải quần đảo.
Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình. Chủ
quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải là tuyệt đối.
Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lãnh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên,
chủ quyền đối với vùng nước lãnh hải không được tuyệt đối như trong nội


14
thủy bởi vì ở lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác
được quyền qua lại không gây hại.
Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và
giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong
một số vấn đề (an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; bảo vệ các
thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống
dẫn ở biển; bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; ngăn ngừa vi phạm pháp luật của
quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển;
nghiên cứu khoa học biển; và ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa,
nhập cư, y tế) và quy định hành lang để tàu thuyền đi qua .
* Vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone): Vùng tiếp giáp lãnh hải
là vùng biển nằm ngoài và sát với lãnh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp
lãnh hải cũng không quá 12 hải lý. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự
kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải
quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết trong vùng
tiếp giáp lãnh hải để trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên
xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
* Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone): Đó là vùng biển
nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì
lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Đây là

một chế định pháp lý hoàn toàn mới vì theo luật biển quốc tế cho đến những
năm 50 của thế kỷ 20, các quốc gia ven biển không có vùng biển này.
Theo điều 56 của Công ước Luật Biển năm 1982, trong vùng đặc quyền
kinh tế của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó. Cho đến
nay, tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven


15
biển đang khai thác chủ yếu là tôm, cá.
Quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khác
như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ
gìn môi trường biển. Công ước Luật Biển năm 1982 quy định các quốc gia
khác, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, được hưởng một số quyền
nhất định ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển như quyền tự
do hàng hải, quyền tự do hàng không.
* Thềm lục địa (Continental Shelf): Thềm lục địa của quốc gia ven
biển là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của
quốc gia ven biển. Trên thực tế, rìa ngoài của thềm lục địa ở các khu vực có
khác nhau: Có nơi hẹp, không đến 200 hải lý; nhưng có nơi rộng đến hàng
trăm hải lý. Điều 76 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định rất rõ ràng.
Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm
lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải
lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350
hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Tuy nhiên, để
mở rộng thềm lục địa quá 200 hải lý thì quốc gia ven biển liên quan phải trình
cho Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ
bằng chứng khoa học về địa chất và địa mạo của vùng đó. Sau đó, Ủy ban

Thềm lục địa của Liên hợp quốc sẽ xem xét và ra khuyến nghị.
Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa
của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò,
khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Hiện
nay, các nước ven biển đang khai thác dầu và khí để phục vụ phát triển đất
nước. Sau này, khi các nguồn tài nguyên ở trên đất liền khan hiếm thì các


16
quốc gia ven biển sẽ khai thác các tài nguyên khác ở thềm lục địa của mình.
Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ
nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai
thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Điều cần nhấn mạnh là, một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các
quyền tương ứng như đã nêu trên đối với các vùng biển của mình, nhưng mặt
khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.
1.1.2. Ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản
ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ánh ý thức là hình ảnh chủ quan
vì nó không có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh thần, nó cải biến cái vật chất
được di truyền vào trong bộ não của con người thành cái tinh thần. Ở đây
không phải sự phản ánh tùy tiện, xuyên tạc hiện thực khách quan và cũng
không phải là sự phản ánh thụ động giản đơn mà là sự phản ánh sáng tạo hiện
thực khách quan. Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm
những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Giáo dục ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua quá
trình giáo dục. Ví dụ như giáo dục về chủ quyền lãnh thổ, Tổ Quốc, ý thức về

chủ quyền biển đảo Tổ Quốc. Chính vì vậy, giáo dục ý thức chính trị là quá
trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực khách quan cho con
người. Đây là quá trình tương tác giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Con người tham gia vào hoạt động chính trị để đạt được những giá trị nhất
định trong xã hội có giai cấp, dân tộc với vấn đề độc lập dân tộc. Nhân tố thúc


17
đẩy con người đi đến hành động bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ
là ví sự sinh tồn vong của dân tộc, giai cấp, vì độc lập, tự do. Chính vì vậy khi
Tổ quốc cần mọi con người đều thể hiện tình yêu đất nước ở những góc độ khác
nhau, nhưng tất cả vì sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Điều đó tạo
nên động lực của cả một dân tộc sẵn sàng “chết đứng còn hơn sống quỳ”, “cuộc
đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”.
Trong thời đại Hồ Chí Minh: Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của
các dân tộc thuộc địa “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là
tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [84, tr.52]. Chính
vì vậy, cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã thể hiện khát vọng
độc lập, tự do và sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập đó “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [52, tr. 496]
Đối với vấn đề chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh luôn quan tâm và nhấn
mạnh đối với cộng đồng quốc tế. Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp
quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí
Minh tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng
nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước” [52,
tr.496]. Chính vì vậy, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân ta

đã thể hiện quyết tâm bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc “không có gì quý
hơn độc lập, tự do”.
Độc lập tự do là khát vọng, là mục tiêu chiến đấu, cũng là cuội nguồn sức
mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Trong điều
kiện hiện nay, ý thức bảo vệ chủ quyền càng phải được nhận thức mới hơn, cần
phải được làm rõ hơn phù hợp với sự vận động phát triển của đất nước và thế


18
giới. Ý thức chủ quyền là một bộ phận của ý thức chính trị, nó không chỉ là ý
thức của một người mà là ý thức của cả cộng đồng, thể hiện khát vọng, vị thế
của cả một đất nước; ngược lại ý thức chính trị bao giờ cũng định hướng cho ý
thức chủ quyền quốc gia.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh về thức chính trị, thực chất đó là ý
thức chi phối các quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các
quốc gia dân tộc. Trong đó, trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế. C.Mác Ph.Ăngghen viết: “... tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai
cấp và tất cả cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu
của chúng là thế nào đi nữa,... xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải quyết
về kinh tế” [64, tr. 185]. Như vậy, cả C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều
khẳng định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức chính trị là trên cơ
sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của sự liên quan những
lợi ích kinh tế cơ bản của các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Các giai cấp, các
tầng lớp trong xã hội thông qua hoạt động chính trị với các tổ chức chính trị
của mình để giải quyết những vấn đề kinh tế; tạo điều kiện môi trường và bảo
hộ cho hoạt động kinh tế.
Ý thức chính trị là thái độ đối với các thể chế chính trị (Nhà nước, đảng
phái); là nhận thức về những nội dung chính trị quan trọng (chế độ chính trị,
đường lối, chính sách…); là sự hiểu biết của mình với tính cách là một giai
cấp trong mối quan hệ với các giai cấp - tầng lớp cơ bản (kẻ thù, bạn đồng
minh…), dân tộc… nảy sinh từ quá trình xây dựng một chế độ chính trị của

một đất nước.
Từ cách tiếp cận của ý thức chính trị, theo chúng tôi ý thức bảo vệ chủ
quyền quốc gia là thái độ của con người trong xã hội đối với các vấn đề chủ
quyền quốc gia: độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, tự quyết định lấy vận mệnh của
mình. Thể hiện ý chí, trách nhiệm của con người trước yêu cầu của Tổ quốc


19
và nhân dân “sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho độc lập dân tộc”, thực hiện
khát vọng “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Ý thức bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là một hình thái ý thức xã
hội xuất hiện và tồn tại trong xã hội có giai cấp và Nhà nước. Nó phản ánh
các quan hệ với các nước có cùng chung lãnh thổ và những nước thực hiện
các âm mưu xâm lược. Do đó, ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia thể hiện chủ
nghĩa yêu nước, khát vọng của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Đặc biệt như quốc gia Việt Nam, đã anh dũng, bất khuất đứng lên chống lại
mọi kẻ thù xâm lược.
Ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia là một nhân tố quan trọng để thể hiện
khát vọng của mọi tầng lớp nhân dân trước yêu cầu của Tổ quốc. Trong đó có
tầng lớp thanh niên, họ là chủ nhân tương lai của nước nhà. Tầng lớp thanh
niên phải được giáo dục và rèn luyện ý thức bảo vệ chủ quyền trong tình hình
mới hiện nay, không chỉ sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc mà còn phải thể hiện khát
vọng làm giàu, khát vọng đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm
châu.
Ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo là nhiệm vụ, trách nhiệm của tất cả
mọi công dân Việt Nam ở trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài nhằm thực
thi chủ quyền ở các vùng biển, hải đảo của Tổ Quốc. Trong giai đoạn hiện nay
thanh niên Việt Nam luôn được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, điều đó
đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi để họ có điều kiện phát triển toàn diện,
nhưng cũng đặt ra trách nhiệm cho thanh niên cần tham gia tích cực hơn vào

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc quan điểm của
Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị… bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời…” [26, tr. 125],
với quyết tâm của toàn Đảng là “làm sao cho kinh tế phải vững, quốc phòng


×