Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.05 KB, 31 trang )

A. MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển hiện đại thì con người luôn phải sống gấp gáp, quay
cuồng vì mưu sinh, vì đồng tiền. Vô hình chung, điều đó đã khiến cho con người
ngày càng cách xa nhau và tạo nên một khoảng cách khó mà rút ngắn. Và khi đó,
con người ta sẽ cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời vội vã, để rồi những lúc
lắng lòng con người ta lại tìm đến với nhạc Trịnh như một sự chiêm nghiệm, như
tìm lại chính mình để suy ngẫm về kiếp người, về những nỗi khổ của đời người. Để
rồi thấu hiểu được căn nguyên của mọi khổ đau, bế tắc và tự tìm ra giải pháp cho
chính mình nhằm hướng đến hạnh phúc bình yên trong tâm hồn.
Nhạc Trịnh mang đậm dấu ấn hiện sinh thông qua ngôn từ, hình ảnh kỳ lạ, độc đáo.
Hiện sinh là phong trào triết học lớn, làm khuynh đảo tinh thần thế kỷ XX. Triết
học hiện sinh vẫn còn có tác động trong thế kỷ XXI và nếu như hiểu được triết học
hiện sinh sẽ giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận nhiều vấn đề trong các lĩnh vực nghệ
thuật khác nhau như văn học, âm nhạc, hội họa… Ở Việt Nam có thể kể đến Bướm
Trắng của Nhất Linh, thơ Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng với tác phẩm Em ơi đừng
tuyệt vọng và các truyện của Nguyễn Huy Thiệp, Nam Cao....
Chúng ta không thể không nhắc đến Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông từng nói từ khi
còn trẻ ông đã luôn ám ảnh bởi cái chết nên âm nhạc của ông mang trong đó một
[Type text]

Page 1


sự mất mát của những số phận con người. Nhạc Trịnh thấm đượm màu sắc hiện
sinh của các tác giả văn học phương Tây thập niên 60 như Jean Paul Sartre, Albert
Camus,… Tiêu biểu là các ca khúc Cát bụi, Đêm thấy ta là thác đổ, Chiếc lá thu
phai, Một cõi đi về, Phôi pha,… Trong đó nhiều bài mang hơi hướng thiền có một
chiều kích tâm linh sâu rộng như Một cõi đi về, Giọt nước cành sen,..
Ngay vừa khi ra đời, chủ nghĩa hiện sinh đã đem lại hiệu ứng sôi nổi và sâu rộng
trong nhiều lĩnh vực của đời sống và trong đó có âm nhạc. Nó lấy con người làm
trung tâm, làm đối tượng và mục tiêu để hướng đến. Chủ nghĩa hiện sinh luôn coi


con người là một nhân vị, có thể tự do lựa chọn cách sống của mình, thái độ sống
đối với cuộc sống. Ở Việt Nam ,chủ nghĩa hiện sinh đã mang đến một sức hút khó
cưỡng đối với những người sáng tác, đó là nền tảng để cho những tác giả phản ánh
trong tác phẩm của mình. Đó là những tư tưởng về nhân vị, tự do, về cuộc sống bất
an và âu lo, sự ê chề của kiếp người, sự hoài nghi thực tại và nỗi ám ảnh về sự đổ
vỡ đã hiện diện trong những sáng tác nghệ thuật cùng những đau khổ, dằn vặt, lo
âu trong cuộc kiếm tìm và lựa chọn tự do của con người.
Thế giới âm nhạc của ông là cuộc hành trình khám phá không biết mệt mỏi của
người nghệ sĩ đi tìm giá trị đích thực trong hiện thực cuộc sống. Đó là nỗi trăn trở
về thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, những trầm luân biến
đổi. Trong đó, dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh đã in đậm trong cuộc đời cũng như
hành trình sáng tác âm nhạc của ông. Nó làm nên một diện mạo âm nhạc mang
đậm dấu ấn hiện sinh. Với đề tài dấu ấn hiện sinh trong ca từ nhạc Trịnh, chúng tôi
muốn tìm ra cảm quan riêng của nhạc sĩ khi các ca khúc của ông mang một “chiều
kích tâm linh” sâu rộng và đi khai phá các lớp hình tượng tiêu biểu, nhằm thông
qua đó làm lộ rõ dấu ấn hiện sinh trong các ca khúc của ông.

[Type text]

Page 2


PHẦN 1: CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
1.1 Nguồn gốc, đặc trưng của chủ nghĩa hiện sinh
Theo dòng vận động của tiến trình lịch sử, chủ nghĩa tư bản phương Tây bước
vào thế kỷ XX, bước qua chủ nghĩa cổ điển để manh nha, tiến vào thời kỳ hiện đại.
Từ những bước tiến vào thời kỳ hiện đại với những cuộc cách mạng công nghiệp,
khoa học và công nghệ đã làm biến đổi nền sản xuất của xã hội. Với sự tiến bộ về
khoa học -kỹ thuật, xã hội phương Tây được miêu tả là thành quả của chủ nghĩa
duy lý. Chính vì vậy mà xã hội Phương Tây đã đạt đến giai đoạn cao nhất và nó bắt

đầu rơi vào những cuộc khủng hoảng trầm trọng về nhân vị. Từ đó, chủ nghĩa hiện
sinh được ra đời với tên Existentialisme – gốc chữ la tinh Existentia, có nghĩa sinh
tồn. Chủ nghĩa hiện sinh là phản ứng đối lập với chủ nghĩa duy lý của Phương Tây
hiện đại. Về nguồn gốc tư tưởng và triết lý của chủ nghĩa hiện sinh ta có thể tìm
thấy ở các tác phẩm của Paxcan, Kireepxki, Dostoepsky ,..Sự xuất hiện những tư
tưởng về triết học hiện sinh của Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche là hai
nhà triết học được xem là nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh. Họ chú trọng vào
những sự trải nghiệm chủ quan, sự hiện sinh của con người hơn là tin vào những lý
thuyết khoa học không để đi sâu vào bản thể con người. “Nhiệm vụ của triết học
theo Soren Kierkegaard, chỉ là “mô tả” cuộc sống con người như nó đang tồn tại
[Type text]

Page 3


(hiện sinh). Nhưng đây là con người duy nhất, cắt đứt với mọi quan hệ xã hội, bởi
vì mỗi con người là “hiện sinh độc đáo”. Hơn nữa đó là những con người huyền bí,
vì mỗi con người là một vũ trụ đóng kín không ai hiểu nổi và cũng không thể tự
thông báo cái nội tâm phức tạp của mình cho bất kỳ một ai”. Chủ nghĩa hiện sinh
đề cao giá trị, bản thể con người và những thể nghiệm trong đời sống “hiện sinh”
của họ.1 Nó chống lại sự nghèo nàn về tình cảm của con người mà đó là hậu quả
của chủ nghĩa duy lý. Thường xuyên đề cập đến các vấn đề như nỗi cô đơn, sự
buồn chán, lạc lõng giữa xã hội, cái phi lý, tự do và hư vô.
1.2 Sự hiện diện của chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam
Sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã dẫn đến sự đổ vỡ
về hệ tư tưởng duy linh nhân vị. Lúc đó, chủ nghĩa hiện sinh được người ta đưa
vào miền Nam, nhằm phục dựng lại những giá trị nhân bản của con người mà đã bị
quên lãng. “Gọi là đưa bên ngoài vào nhưng không hoàn toàn là sản phẩm ngoại
lai. Nó được cấu trúc lại bằng những yếu tố bản địa hòng đưa lại một bộ mặt không
chỉ là sự sao chụp đúng hệt như khi nó xuất hiện ở Phương Tây”. 2

Theo Nguyễn Tiến Dũng, ngay từ năm 1955, chủ nghĩa hiện sinh đã có mặt trong
chương trình của hệ thống giáo dục tiếng Pháp, tiếng Việt ở bộ môn “ Siêu hình
học” hoặc “Đạo đức học” ở các trường như: Đại học Vạn Hạnh, Đại học Văn khoa
Sài Gòn, Văn khoa Huế, Đại học Đà Lạt và chủ nghĩa hiện sinh cũng là đề tài
nghiên cứu của nhiều luận án tiến sĩ và cao học, đồng thời được xuất hiện trên
nhiều tờ báo. Tư tưởng hiện sinh đã giúp con người tìm về cái cá nhân của chính
mình, tôn vinh giá trị con người, thức tỉnh trước những điều vô lý trong đời sống
hiện sinh. Trong tôn giáo thì Phật giáo mang đậm những dấu ấn hiện sinh, trong
giáo lý của mình thì Phật giáo coi đời là bể khổ, con người trầm luân trong thảm
kịch bể khổ của kiếp người. Và trong kho tàng văn học Trung đại Việt Nam, ta có
thể bắt gặp nhiều tư tưởng thấm đẫm dấu ấn hiện sinh qua Nguyễn Du trong truyện
Kiều. Từ đây, ta có thể nhận thấy dấu ấn hiện sinh đã có sự manh nha từ trước vào
nền văn học Việt Nam chứ không phải mới xuất hiện từ sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm sụp đổ. Những người công giáo là những người đã mang chủ nghĩa hiện sinh
sớm nhất vào miền Nam Việt Nam và sự lan truyền của tư tưởng hiện sinh đã làm
cho các nhà hiện sinh vô thần như Heidegger, Simon de Beauvoir, đặc biệt là
Sartre đã hiện diện đậm nét trên diễn đàn tư tưởng của Sài Gòn lúc bấy giờ.
1.3 Vài nét về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn sinh tại cao nguyên Lạc Giao, tỉnh Đắk Lắk nhưng lúc nhỏ sống ở
làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế và ông
lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông học theo học các trường Lyceè Francais và
Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lyceé J.J
1 [Phương Lựu(Chủ biên), Nguyễn Trọng Nghĩa, Lê Lưu Oanh, Lý luận văn học tập 3, tiến trình văn học, NXB ĐHSP,
2008, tr310]
2 [Nguyễn Tiến Dũng, Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, NXB Tổng hợp TPHCM, 2005, tr134]

[Type text]

Page 4



Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây. Sau đó nên ông thi và theo học
ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp
ông dạy tại một trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Trước ngày 30 tháng 4 năm
1975, ông lên đài truyền thanh Sài Gòn hát bài Nối vòng tay lớn, bài hát nói về ước
mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam Bắc mà ông viết từ năm 1968. Những năm sau
1975, sau thời gian tập trung lao động, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố
Hồ Chí Minh ở tạp chí Sóng nhạc. Từ thập niên 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu
sáng tác lại, và có viết một số bài có nội dung ca ngợi chế độ mới như Thành phố
mùa xuân, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Sau đó nhà nước
Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục đóng góp nhiều bản tình ca
có giá trị. Ông cũng là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 ông thủ vai
chính trong phim Đất khổ. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 1 tháng
4 năm 2001. Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm.
Suốt đời, Trịnh Công Sơn yêu nhiều nhưng không chính thức kết hôn với ai, và
cũng chưa có con.
Có thể nói tên tuổi của Trịnh Công Sơn được nhiều người biết đến hơn từ khi ông
cùng ca sĩ Khánh Ly hát tại Quán Văn, một quán cà phê đơn sơ dựng trên bãi đất
cỏ sau Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn do nhóm sinh viên mang tên Khai Hóa
trong phong trào phục vụ thanh niên xã hội chủ trương vào cuối những năm 1966.
Những năm sau đó, Trịnh Công Sơn được công chúng biết đến và hưởng ứng nồng
nhiệt trong những sáng tác của ông. Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn
600 ca khúc, những tác phẩm không những mang đậm một phong cách riêng mà
còn gửi gắm một triết lý. Ông từng lý giải cho cái sự sáng tác của mình: "Tôi chỉ là
một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những
giấc mơ đời hư ảo..." Hai mảng đề tài lớn nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là
tình yêu và thân phận con người. Ngoài ra ông còn sáng tác ở đề tài nhạc phản
chiến ở những thể loại nhạc khác. Bên cạnh việc sáng tác ông còn tham gia ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như thơ ,hội họa, điện ảnh…
Tình yêu là đề tài lớn và ảnh hưởng nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn.

Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn bã, cô đơn
như trong Sương đêm,Ướt mi và những ca khúc nhạc tình vẫn mênh mang nỗi buồn
kiếp người như Diễm xưa, Biển nhớ, Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay
em đã quên, Hoa vàng mấy độ, Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa hồng,...Với
giai điệu gần gũi, ca từ có màu sắc trừu tượng và ý nghĩa sâu lắng, nhạc của ông dễ
dàng đi vào lòng công chúng. Trịnh Công Sơn từng nói, từ khi còn trẻ ông đã luôn
ám ảnh bởi cái chết nên âm nhạc của ông mang trong đó một sự mất mát của
những số phận con người. Âm nhạc ông đượm màu sắc Phật giáo và mang đậm
dấu ấn của triết học hiện sinh Phương Tây. Minh chứng cho điều đó là các ca khúc
Cát bụi, Bài ca trên những xác người, Chiếc lá thu phai, Một cõi đi về, Phôi pha,...
[Type text]

Page 5


Khi tên tuổi định hình bằng nhạc tình, thì vai trò xã hội của Trịnh Công Sơn lại gắn
liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, kêu gọi hòa bình mà
người ta thường gọi là nhạc phản chiến, hay còn gọi là Ca khúc da vàng theo tên
các tập nhạc của ông phát hành cuối thập niên 1960. Những ca khúc da vàng
thường nói lên thân phận của những người dân một nước nhỏ bị lôi kéo vào chiến
tranh và nằm trong vòng toan tính, giành giật ảnh hưởng của những nước lớn
(thường là khác màu da).
Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn còn để lại những tác
phẩm viết về quê hương: Chiều trên quê hương tôi viết cho trẻ em: Em là hoa
hồng nhỏ, Mẹ đi vắng và cả những bài nhạc đỏ: Huyền thoại mẹ, Em ở nông
trường - em ra biên giới, Nối vòng tay lớn, Ánh sáng Mạc Tư Khoa, Chưa mất
niềm tin, Huế - Sài Gòn - Hà Nội... Trong đó nổi tiếng hơn cả là các bài Em là hoa
hồng nhỏ và Nối vòng tay lớn - có thể nói rằng không một thanh thiếu niên Việt
Nam nào lại không biết đến hai bài hát này.
Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã cống hiến và dành một lòng nhiệt huyết cho

nghệ thuật. Với tài năng thiên bẩm về nghệ thuật của mình, ông đã cho ra những ca
khúc mang một màu sắc rất riêng, có bề sâu về nội hàm giá trị hòa cùng những
thanh âm ngọt ngào, sâu lắng, trữ tình. Chính vì vậy, các khúc nhạc trữ tình của
ông có một chỗ đứng vững chắc trong lòng người yêu nhạc qua bao thế hệ.

PHẦN 2. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG CA TỪ NHẠC TRỊNH
CÔNG SƠN
2.1 . Hình tượng mang tính biểu trưng về thân phận con người
Dấu ấn hiện sinh trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn đầu tiên phải nhắc đến những
biểu tượng về thân phận con người. Khó tìm thấy nhạc sĩ nào mà số lượng ca khúc
viết về kiếp người nhiều như nhạc sĩ họ Trịnh. Cuộc đời ông bị ám ảnh với hai chữ
“ kiếp người”. Bên cạnh tình yêu đây cũng là một mảng sáng tác lớn của Trịnh
Công Sơn. Để khắc họa về thân phận kiếp người với những hỷ, nộ, ái, ố thì Trịnh
Công Sơn đã gửi gắm điều đó qua các hình tượng như đá, núi, mặt trời, lửa, nắng.
Mỗi biểu tượng mang một ý nghĩa riêng, mỗi biểu tượng hiện lên để phản ánh chân
xác nhất thân phận về kiếp người trong cuộc hiện sinh đầy khắc nghiệt.
2.1.1. Đá- nỗi buồn của kiếp nhân sinh
Trong số các biểu tượng của nhạc Trịnh, thính giả không khó khăn khi nhận ra
“đá” là một hình ảnh xuất hiện dày đặc. Đá hiện lên như là sự trơ lì, câm lặng, cam
[Type text]

Page 6


chịu của kiếp người, hình tượng đá mang tính biểu trưng rất cao. Trong Diễm xưa
ông từng hai lần nhắc đến “đá” :
“Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau"

( Diễm xưa)
Bởi lẽ “đá” chính là đại diện cho nỗi buồn của kiếp nhân sinh. Những sỏi đá trong
cuộc đời cứ được mặc định sẽ mãi ở đó và như vậy. Nhưng qua ca từ của mình,
Trịnh Công Sơn đã thổi hồn vào “đá”, vào những vô tri trong đời để từ đó “đá”
cũng đầy những biến động và đau đớn. Như chính cuộc đời của mỗi con người
luôn đắm chìm trong nỗi buồn nhân thế. Hay chăng, trong Ngẫu nhiên, nhạc sĩ tài
hoa đã mượn “đá” để diễn tả kiếp người như “bóng câu qua cửa sổ” và sự vô
thường của cuộc đời đồng thời cất cao lên tiếng bi ai của loài người:
“Hòn đá lăn trên đồi
Hòn đá rớt xuống cành mai
Rụng cánh hoa mai gầy
Chim chóc hót tiếng qua đời”
( Ngẫu nhiên)
Thoát khỏi tiếng bi ai văng vẳng của kiếp người, Trịnh Công Sơn còn thổi một cái
hồn tươi vui, sự động viên ,an ủi đối với con người trước những nỗi buồn của thời
cuộc, để con người quên đi những ngày tháng u tối, quên đi bom rơi đạn lạc . Để từ
đó, hát lên những khúc ca của tình yêu, của niềm vui mới:
“Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người”
(Hãy yêu nhau đi)
Bên cạnh “đá”, những hình ảnh như “cát, bụi, đất” cũng được xuất hiện trong âm
nhạc của cố nhạc sĩ. Và cũng như “đá”, chúng cũng nhằm một mục đích mang đến
những ý nghĩa về nhân sinh buồn tủi. Điều này rõ nét nhất Cát bụi với những lời ca
sâu lắng ,buồn man mác:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để ngày mai tôi về làm cát bụi”
(Cát bụi)
Và trong lời ca:

“Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua
Chìm dưới đất kia một người sống thiên thu”
(Chìm dưới cơn mưa)
[Type text]

Page 7


Dù là “đá” hay “đất”, “cát”, “bụi” nhưng trong nó tất cả đều mang một ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với tâm thức luôn mang ám ảnh về đời
người đã thể hiện điều đó thật khéo léo qua các hình tượng tưởng chừng vô tri. Với
nhạc Trịnh, “đá” đã mang một màu sắc rất mới trong âm nhạc, đá hiện ra như một
biểu tượng với chức trách chuyển chở bao nỗi niềm của kiếp người trong cuộc hiện
sinh đầy giông bão này. Và chỉ có nhạc Trịnh thì “đá” mới có thể hoàn thành tốt sứ
mệnh mà Trịnh Công Sơn đã gửi gắm.
2.1.2 “Mặt trời”- biểu tượng về sự nhỏ bé của kiếp người
Bên cạnh “đá”, hình ảnh “mặt trời” cũng xuất hiện rất nhiều trong nhạc Trịnh.
“Mặt trời” luôn gợi nhắc về sự bao la và rộng lớn, điều đó đối lập với kiếp người
nhỏ bé như hạt “cát bụi”. Viết về “mặt trời” cũng là lúc Trịnh Công Sơn ý thức về
thân phận con người giữa cuộc đời, giữa vũ trụ.
“Chiều cuối trời nhiều mây
Đơn côi bàn tay quên lối”
(Nhìn những mùa thu đi)
Và trong lời ca:
“Còn lời ru mãi, vang vọng một trời
Mùa xanh lá vội, ru em miệt mài”
(Ru em từng ngón xuân nồng)
Chính sự đối lập rõ nét này đã giúp nhạc sĩ thể hiện được sự xót xa khi ngậm ngùi
nhận ra còn người vô cùng nhỏ bé. Những ám ảnh này chính là nét hiện sinh rõ rệt
trong âm nhạc Trịnh Công Sơn :

“Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”
(Một cõi đi về)
Mặt trời như luôn dõi theo từng số phận, từng con người trong cuộc đời. Mặt trời
luôn hiện hữu như một sự chứng giám cho kiếp người “ở trọ” nhỏ bé, vô thường:
“Em hãy ngủ đi
Mặt đất im, mặt trời cúi nhìn”
(Em hãy ngủ đi)
Hoặc như :
“Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi”
(Cát bụi)
Sự đối lập giữa “trời” và “ người” là một phạm trù dễ dàng tìm kiếm trong nhạc
Trịnh. Điều đó chứng tỏ trong ông luôn có những suy tư, trăn trở về cõi người vô
thường và nhỏ bé. Hơn ai hết Trịnh Công Sơn ý thức được đời người hữu hạn giữa
vũ trụ vô biên. Nhưng rồi đến cuối cùng, trong ông vẫn tha thiết yêu cuộc đời ngắn
ngủi đó :
“Xin trên những nụ cười
[Type text]

Page 8


Còn rạng rỡ mặt trời”
(Nghe tiếng muôn lòng)
2.1.3 “Nắng”- biểu tượng của cảm xúc con người
Cảm xúc con người có thể tìm thấy trong nhạc Trịnh với muôn hình vạn trạng. Và
“nắng” cũng xuất hiện với đầy đủ những cung bậc như vậy. Ông tâm sự: "Trước
kia mình tưởng mưa buồn, nhưng giờ mình thấy nắng thật sự buồn. Bởi dung nhan
của nắng luôn thay đổi và màu sắc của nó mới thật gần với đời sống của con người.

Nó có sớm mai,có trưa,có tàn phai, có một buổi chiều của một đời người. Còn mưa
chỉ ào xuống rồi thôi, và mưa chỉ có một màu" . Nếu lúc nhạc sĩ cảm thấy buồn thì:
“Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng”
Và lá rụng ngoài song
Nghe tên mình quên lãng”
(Nhìn những mùa thu đi)
Có khi lạc loài và bơ vơ trước số phận, trước cuộc đời rộng lớn thì tác giả tự hỏi:
“Đi về đâu hỡi em
Khi trong lòng không chút nắng”
(Đời gọi em biết bao lần)
Thế nhưng tự bản thân nhạc sĩ lại tìm cách thoát khỏi tuyệt vọng đó, lúc này
“nắng” mang một màu rất khác:
“Em vào mùa hạ nắng thắp trên cao
Và mùa xuân nào ngẩn ngơ tình mới”
(Tôi ru em ngủ)
Có khi “nắng” chiếu soi những sự yên bình, tìm về sự an nhiên tự tại trong tâm
hồn:
“Đời xin có nhau, dài cho mãi sau
Nắng không gọi sầu”
(Hạ trắng)
Nhưng cũng có lúc “nắng” lan tỏa nhiều sức sống mãnh liệt:
“Chiều đi như nắng
Vẫn cho đời lửa bếp hồng khơi”
(Chiều trên quê hương tôi).
Trong nhiều ca khúc, "nắng” là biểu tượng của niềm vui, niềm hi vọng của con
người giữa một thế giới nhỏ hẹp và có quá nhiều nỗi buồn này:
“Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời
Tôi chọn nắng đầy

Chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay “
(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui).
[Type text]

Page 9


Nắng với những ý nghĩa biểu trưng nói trên đã trở thành một biểu tượng đặc biệt
trong ca từ Trịnh Công Sơn. Nắng đã rọi vào, sưởi ấm và hong khô những tâm hồn
giá lạnh trong cuộc hiện sinh trần trụi của kiếp người. Nắng đã tạo được sức nóng,
thắp lên được ngọn lửa của sự hy vọng và xua tan đi bầu tử khí của thời cuộc bấy
giờ.
2.1.4 “Núi”- điểm tựa nâng đỡ kiếp người
Khi nhắc đến núi, ai cũng phải nghĩ đến sự lớn lao, vững chải và to lớn. Với tính
chất như vậy, “núi” trong nhạc Trịnh Công Sơn như là một điểm tựa vững chắc
nâng đỡ những kiếp người mong manh, nhỏ bé và hơn hết núi còn là điểm hẹn
trăm năm của đời người, nó mang một chiều kích tâm linh sâu thẳm.
Với những kiếpngười mong manh yếu đuối, họ chỉ mong tìm đến “non ngàn” để cư
ngụ về tâm hồn và thể xác hòng quên đi những nhọc nhằn, đau đớn:
“Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm một hồn giấy mới”
(Đóa hoa vô thường)
Núi còn như là điểm hẹn tâm linh của những kiếp người xấu số trong cõi nhân gian
mộng ảo này:
Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm, nhiều nghĩa địa buồn

Khi đất nước không còn chiến tranh
Mẹ già lên núi tìm xương con mình”
(Tôi sẽ đi thăm)
Những “núi”, “non” liên tiếp được nhắc đến và nằm trong ngữ cảnh trơ trọi, một
mình trước cuộc đời. “Núi” vốn dĩ đã “ cô đơn”, trong nhạc Trịnh nó còn cô đơn
hơn bao giờ hết:
“Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ phờ “
(Lời thiên thu gọi)
Bên cạnh làm điểm tựa nâng đỡ cho con người, núi có là biểu trưng của sự cô đơn,
lẻ loi. Tác giả mượn “núi” để diễn tả sự nhớ nhung, rồi từ nhớ nhung là sự chờ đợi,
trong chờ đợi vốn dĩ đã cô đơn:
“Ngày mai em đi
Đồi núi nghiêng vai đợi chờ”
(Biển nhớ)
Chính những ngọn núi đã mang đầy đủ tâm trạng của người nhạc sĩ luôn cảm thấy
cô đơn và bơ vơ trước cuộc đời. Dù “đi lên non cao, đi về biển rộng”, cũng chỉ mỗi
tâm hồn cô đơn đó, cô đơn đến khi rời xa cõi tạm này vẫn chưa một lần hạnh phúc.
[Type text]

Page 10


Chúng ta đã nhiều lần bắt gặp ngọn núi trong âm nhạc, nhưng để tạo thành hệ
thống như nhạc Trịnh thì chắc rất lâu nữa mới tìm thấy được. Núi hiện ra như là sự
nâng đỡ vững chắc cho những tâm hồn đổ vỡ về kiếp sống đồng thời núi còn là ám
thị của sự cô đơn, lẻ loi. Trịnh Công Sơn đã rất tài hoa khi thổi vào trong “núi” một
cái hồn riêng không lẫn khuất vào đâu được, cùng tâm hồn nhạy cảm và ám ảnh
hiện sinh tất cả đã tạo nên sự yêu mến trong lòng công chúng.
2.1.5 “Lửa” – hình tượng đa nghĩa

Khi nhắc đến “lửa” con người có thể suy nghĩ theo hai chiều hướng khác nhau, có
thể nó là sự gợi nhắc đến cảnh chiến tranh với bom rơi, đạn lạc, với sự bốc cháy dữ
dội của những làng mạc, đô thị trong thời chiến. Nhưng lửa còn có thể được hiểu là
ánh sáng của nguồn hy vọng, thắp lên niềm hy vọng cho những kiếp người khốn
khổ trong cuộc hiện sinh này.
Cái chết là một trong những chủ đề quen thuộc và xuyên suốt của nhạc Trịnh. Và
dường như mỗi lần cái chết xuất hiện, ta thấy ám ảnh của ngọn lửa. Ông đã từng
mơ ước:
“Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm, làng xóm thành đồng
Đi thăm từng khu rừng cháy nám”
( Tôi sẽ đi thăm)
“Lửa” và cháy cứ quanh đi quẩn lại trong trực diện của ông. Dòng nhạc tiền chiến
của Trịnh Công Sơn từng gây nhiều tranh cãi, nhưng hơn ai hết ông đã lột trần sự
thật về cái chết của kiếp người đau đớn đến tận cùng:
“Chết ngoài ruộng đồng
Chết rừng mịt mùng
Chết lạnh lùng mình cháy như than”
( Tình ca người mất trí)
Và trong:
“Ôi đêm dài hỏa châu đốt sáng
Cho dòng máu trong con tim phai mờ
Ôi đem dài Việt Nam buốt cóng
Xin cầm lấy con tim của nhau
Ôi da vàng Việt Nam cháy nóng”
(Đêm bây giờ đêm nay)
Không những biểu hiện cái chết, ngon lửa còn là sự hy vọng, sự khao khát hòa
bình của hơn ba mươi triệu đồng bào Việt Nam đang kháo khát hòa bình:
“Hãy sống giùm tôi hãy nói giùm tôi hãy thở giùm tôi
Qủa tim này dành cho lửa hồng

Cho hòa bình, cho con người còn chờ đấu tranh”
(Hãy sống giùm tôi)
[Type text]

Page 11


Lửa trong ca từ nhạc Trịnh còn biểu trưng cho sự soi sáng và lý trí và nỗi khắc
khoải đi tìm hòa bình, tìm về cội nguồn dân tộc:
“Đoàn người đi vào quê hương mình
Từng bó đuốc sáng trong tay mình
Tìm quê hương xưa giống tiên rồng giống da vàng
Đoàn quân người đi luân phiên
Tìm bóng dáng đất Việt”
(Hành ca)
Bên cạnh biểu trưng cho niềm hy vọng, khao khát hòa bình, tự do thì “lửa” còn là
biểu tượng của sự ấm áp hạnh phúc cho tình yêu lứa đôi:
“Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng
Ru đời đi nhé cho ta nương nhờ lúc thở than”
(Ru đời đi nhé)
Qua đây, ta có thể thấy “lửa” là hình tượng mang tính đa nghĩa vì nó biểu trưng
cho nhiều ý niệm, nó nói lên sự tan thương của kiếp người trong thời chiến, nó
thắp lên niềm hy vọng, khao khát cho con người tìm về hòa bình nguồn cội thì nó
cũng thắp sáng lên được hạnh phúc của đôi lứa yêu nhau.
2.2 Hình tượng mang tính biểu trưng về nguồn sống
Trong quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về con người. Tính cốt lõi của nó là về
nguồn sống, sự tồn tại của thế giới loài người trong vũ trụ. Nhằm mục đích khẳng
định sự tồn tại. Ở đó con người ý thức được cuộc đời, về nguồn sống để họ tồn tại
trên cõi đời. Trong những ca từ của mình nhạc sĩ thể hiện nguồn cảm hứng khi nói

về cuộc đời, về sự tồn tại của kiếp người thông qua khá nhiều biểu tượng. Dễ nhận
thấy rằng số bài hát của ông xuất hiện những từ “biển, sông” khá nhiều. Phải chăng
“biển, sông” là nguồn cảm hứng về sự sống hay những cảm xúc về quê hương, con
người, đặc biệt về tình yêu được nhạc sĩ mượn để đưa vào những sáng tác của
mình. Những bài hát Biển nhớ, Sóng về đâu, Lặng lẽ nơi này, Lời của dòng sông,
Em đi trong chiều hay Bốn mùa thay lá,… đó là những bài hát hình ảnh dòng sông,
biển được nhắc đến khá nhiều, nó mang đến những ý nghĩa khác nhau, nhưng tựu
trung lại thì chúng đều thể hiện những giá trị về cảm thức của nhà văn về sự sống,
về những cảm xúc trước cuộc đời.
2.2.1 Biển – không gian hoài niệm rộng lớn
Những cảm xúc mạnh mẽ, dâng trào của lòng người thường được nghệ thuật biểu
đạt thông qua hình ảnh “biển”. Nhạc Trịnh đã dâng đời ca khúc lừng danh Biển
nhớ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu chứa chan như hồn biển dâng trào, là ám chỉ cho sự
chờ đợi, gọi về bên nhau, gọi lại những kỷ niệm xa xưa:
“Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn
Gọi trùng dương gió ngập hồn”.
( Biển nhớ )
[Type text]

Page 12


Hay trong ca khúc Lặng lẽ nơi này, một ca khúc mà tiết tấu thể hiện nhịp vỗ dập
dồn, đưa đẩy của biển, sau khi hát về: “Tình yêu như biển, biển rộng hai vai”, biển
bao dung nhưng đôi khi cũng hẹp hòi, ích kỷ: “Tình yêu như biển, biển hẹp tay
người, biển hẹp tay người lạc lối”. Hình ảnh "biển" hiện lên bao la , rộng lớn từng
cơn sóng biển hay những cơn sóng cảm xúc về tình yêu ,về khát vọng chạm đến
tình yêu cứ như con biển ngoài khơi. Hình ảnh ấy thể hiện những cảm xúc về tình
yêu và sự nhận thức của nhạc sĩ.
Mãi mãi, “biển” trong ca từ Trịnh Công sơn là không gian của sự hoài niệm và chờ

đợi. Biển như là trái tim của con người, nơi con người tìm được sự giao thoa và
đồng vọng về tâm hồn.
“Biển nghìn thu ở lại
Biển đánh bờ, xôn xao bờ đánh biển.
Đừng đánh nhau… Ơi biển sẽ tàn phai.
Đừng gạch tên vì yêu đừng xé nát.
Biển là em ngọt đắng trùng khơi”
(Biển nghìn thu ở lại )
Đặc biệt là ca khúc Sóng về đâu:
“Biển sóng biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng nằm đau
Biển sóng biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã giữa tim người”
(Sóng về đâu)
Cả giai điệu và ca từ ca khúc Sóng về đâu đều nhấn mạnh nhiều lần và đẩy lên cao
trào lời nhắn nhủ: “Đừng xô nhau”. Đó chính là những âu lo nhưng suy tư trắc trở
của nhạc sĩ, có lẽ hằn lên nỗi đau những nỗi trầm buồn. Bởi nhạc sĩ cảm nhận được
rằng cuộc sống này, sự sống này là những đau buồn chứ đâu phải chỉ có niềm vui.
Và khi con người hoài nghi về cuộc sống thực tại của mình, cuộc sống chứa chất
nhiều nỗi buồn đau thì lúc đó thì không gian “biển” mở ra để ôm trọn, ru dỗ những
kiếp người tủi phận:
“Trong khi ta về ta lại nhớ ta
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì”
(Một cõi đi về)
Như vậy, ca từ nhạc Trịnh đã mở ra không gian biển mênh mang và chất chứa
những ẩn ức của con người và chờ mong được hoài vọng, vỗ về những nỗi lòng
sâu kín của kiếp người.
2.2.2 Sông- dòng đời chảy trôi

Điểm lại những tác phẩm thơ và nhạc ta thấy hình ảnh dòng sông được rất nhiều
nghệ sĩ đưa vào tác phẩm của mình, như một hình ảnh nghệ thuật để qua đó biểu
[Type text]

Page 13


hiện tình cảm với quê hương, với tuổi thơ của mình và mang một nhiệm vụ chuyên
chở những ẩn ức trong tâm hồn con người. Trong ca từ của nhạc sĩ Trịnh công Sơn
đưa hình ảnh dòng sông cũng được nhắc đến khá nhiều lần, vậy “dòng sông” của
Trịnh Công Sơn có gì khác “dòng sông” của những nhạc sĩ, thi sĩ khác.
Trong ca khúc Lời của dòng sông tác giả viết:
“Dòng sông đêm thắp nến
Mặt trời quên dấu chim”
( Lời của dòng sông )
Hay “người tìm về dòng sông, hỏi thăm về đời mình” (Lời của dòng sông). Dòng
sông ở đây như một người cố nhân để người tìm về tìm lời giải đáp về kiếp sống
này. Và rồi người hỏi thăm về đời mình chỉ nhận được câu trả lời: “ …hoang vu
dòng nước lũ …”. Đôi lúc dòng sông hiện lên với khung cảnh quê hương chiến
tranh, chết chóc. Dòng sông quặn đau vì bom đạn tàn phá quê hương, mang dáng
dấp một bà mẹ Việt Nam héo hon đau khổ:
“Em đi qua cầu,
tiếng súng vang theo, làng mạc, quê hương có dáng buồn rầu…
Một dòng sông sâu chở hồn thương đau…”
(Em đi trong chiều )
Đôi lúc nhạc sĩ nhận ra rằng: Dòng sông như một chứng nhân lịch sử, như một sự
tuần hoàn vô tận của cuộc sống, như một dòng trôi mãi mãi không ngừng nghỉ của
thời gian mà so với cuộc đời của con người chỉ là một khoảnh khắc thật nhỏ bé, vô
nghĩa
“Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình,

một trăm năm sau mãi ngủ yên,
khi ngàn lá vẫn còn xanh, khi đời sống vẫn bình yên”
(Ngồi bên dòng sông) .
Dòng sông cũng là biểu tượng về cội nguồn của dân tộc, như dòng lịch sử đất nước
để ta chiêm nghiệm lại quá khứ hào hùng của dân tộc mình:
“ Một ngày mùa đông,
Một người Việt Nam ra bên dòng sông nhớ về cội nguồn,
Nhớ về đoạn đường từ đó ra đi,
Nhớ về biển rộng, thuyền ghe lướt sóng,
Nhớ về nghìn trùng nòi giống của chim”
(Ngụ ngôn mùa đông ).
Rồi từ dòng sông nhạc sĩ nghĩ về mối tình của mình. Dòng sông luôn trôi mãi nên
nó thường gợi lên sự ra đi, sự chia ly, bắt đầu từ suối khe trong rừng sâu nó bỏ đi ra
biển lớn và nước thì chảy xuôi không bao giờ quay lại giống như những người tình
lần lượt đi qua đời ta:
[Type text]

Page 14


“ Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ,
ôi những dòng sông nhỏ,
lời hẹn thề là những cơn mưa”
( Tình xa )
Từ hình tượng về dòng sông, ta nhận thấy dòng sông như là biểu tượng của nguồn
sống vĩnh hằng, của dòng đời chảy trôi miên man. Bên cạnh đó, sông như là chứng
nhân chứng kiến sự thay đổi của lòng người trong cuộc hiện sinh này.
2.3 Hình tượng mang tính nội tâm con người
2.3.1 Đôi môi –tình yêu trọn vẹn và toàn bích
Trong ca từ nhạc Trịnh, chúng ta sẽ thấy một sự đặc biệt nằm ở hình tượng đôi

môi. Thông thường khi liên tưởng đến tâm hồn con người, chiều sâu nhận thức
người ta vẫn chỉ nghĩ đến đôi mắt vốn được xem là “cửa sổ của tâm hồn”. Nhưng
không chỉ vậy, trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn hình tượng đôi môi vốn
quen thuộc nay lại trở nên lạ lẫm và hấp dẫn bởi khả năng chuyên chở cảm xúc
chiều sâu nội tâm của con người.
Điệu tâm hồn của con người thông qua biểu tượng đôi môi được ghi lại bởi hai
khoảnh khắc “môi cười” và “môi sầu”. Đôi môi trở thành tín hiệu đầy mới mẻ và
làm mới cho khả năng biểu đạt tâm trạng của con người. Đôi môi như biểu lộ hết
những ẩn ức chất chứa luôn chực trào dâng nơi tâm hồn con người. Khi nghe nhạc
Trịnh, cái hương vị man mác khó diễn tả cộng với cái hồn luôn khoan thai nền nã
tạo nên một hiệu ứng thật đặc biệt. Nghe những ca từ vang lên, người ta không chỉ
thấy cái suy tư của nhạc sĩ mà còn thấy cả những riêng tư thầm kín của chính mình.
Đôi môi chúm chím, nhỏ nhắn trong ca từ Trịnh Công Sơn lại đong đầy muôn vàn
những tâm trạng của con người. Đôi môi ấy có khi lại chất đầy nỗi cô đơn, sự lặng
lẽ:
“ Em đi qua cầu
Chở chiều trên vai
Ngậm buồn trên môi
Trái tim đã hoài
Một người nằm xuống
Một người nơi đây”
(Em đi trong chiều).
Nỗi cô đơn mông lung khó định hình và nắm bắt lại gãy gọn trên đôi môi người
con gái. Đôi môi xinh đẹp trong quan niệm cha ông lại sống động trong từng nốt
nhạc khi phô bày hết nết trầm tĩnh, phẳng lặng của tâm hồn con người. Nét tâm
trạng được biểu lộ trên từng vần chữ cũng chính là dòng tâm trạng sâu sắc mà tác
giả muốn phơi bày:
“Ngoài hiên mưa rơi rơi
Buồn dâng lên đôi môi
Buồn đau hoen ướt mi ai rồi”

[Type text]

Page 15


(Ướt mi)
Thay cho tiếng lòng thầm kín, nỗi buồn dâng trào lên đôi môi được phơi bày một
cách chân thực. Sự bộc lộ trực tiếp ấy càng làm cho hình ảnh cũng như lời ca chạm
đến trái tim người nghe. Từ trái tim thổn thức của người nghệ sĩ đến trái tim nồng
nàn của thính giả dường như ấp ủ chung một niềm thương nỗi nhớ đầy da diết.
Đôi môi trong lời ca của Trịnh Công Sơn còn mang một tình yêu toàn bích kì diệu.
Lời trái tim thổn thức, cứ muốn níu mãi khoảnh khắc hạnh phúc, trải mãi tình yêu
thánh thiện và sáng trong ấm áp. Có lẽ tìm trong ca từ nhạc Trịnh người ta lại thấy
được một “đóa hoa vô thường” của cảm xúc của những khát khao tình yêu cháy
bỏng:
“ Môi nào hãy còn thơm cho ta ru cuộc tình
Tóc nào hãy còn xanh cho ta chút hồn nhiên”
(Đóa hoa vô thường)
Tình yêu khi trở nên nồng thắm, đủ làm cho người ta phải say mê và rạo rực cũng
là lúc khiến cho những cảm xúc của trái tim thăng hoa. Vòng môi với hai điểm
xuất phát nhưng lại tạo thành một vòng tròn cố định. Cũng giống như con người
trong tình yêu cũng bắt đầu từ hai cá thể nhưng họ vẫn giữ lửa, quấn quýt không
tách rời:
“Vội vàng nhưng chóng quên
Rộn ràng nhưng biến nhanh
Tình cho nhau môi ấm
Một lần là trăm năm”
(Tình sầu)
Môi ấm là biểu trưng cho tình yêu da diết, mãnh liệt. Đôi môi ấm lại hóa thành
“đốm lửa hồng” luôn tồn tại vĩnh cửu. Sự ấm áp của đôi môi đã trở thành một biểu

tượng trường tồn khi được ví von cùng hình ảnh “đốm lửa hồng”:
“Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng
Ru đời đi nhé
Cho ta nương nhờ lúc thở than”
(Ru đời đi nhé)
Đôi môi đã trở thành một biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của hạnh phúc đôi lứa –
một tình yêu trọn vẹn và toàn bích. Đôi môi ấy đã khẳng định cho tình yêu bất diệt,
biểu lộ các cung bậc khác nhau của đôi lứa yêu nhau. Hình tượng đôi môi không
chỉ mang những nồng nàn cháy bỏng của tình yêu và còn bao trọn của những nỗi
sầu riêng tư mộng mị của con người.
2.3.2 Đôi mắt- cửa sổ tâm hồn
Đôi mắt chiếm một số lượng lớn trong ca từ sáng tác của Trịnh Công Sơn. Theo
dòng sáng tác của nhạc sĩ hình tượng đôi mắt xuất hiện từ trong những ca từ bâng
khuâng trăn trở về thời đại.
[Type text]

Page 16


Hãy mở mắt ra lật xác quân thù
Mặt người Việt Nam trên đó
Hãy mở mắt ra nhìn kiếp tôi đời
Nhìn ngày Việt Nam tăm tối.
(Những ai còn là Việt Nam)
“Mở mắt” được xem là hành động thức tỉnh lương tri, là hành động nhận thức khai
sáng con người. Đôi mắt ở đây được tác giả xây dựng như một biểu tượng của sự
giác ngộ và tri nhận. Sự tàn khốc của cuộc nội chiến đã gây nên bao đau thương tột
cùng. Lời bài hát như một lời nhắc nhớ giúp những con người lầm lối nhận diện
được chính bức tranh hiện thực, thấu rõ cảnh tượng bi kịch khi “xác thù lẫn giữa

bóng anh em”. Đôi mắt trong làn lửa đạn bom, càng làm nung nấu lòng yêu nước
và niềm tự tôn thiêng liêng dân tộc. Đôi mắt ấy đã khai sáng cả một thời đại, làm
sống dậy lòng quyết tâm đang chìm sâu vào cơn mê của dân tộc:
“ Đạn bom ơi, lòng tham ơi
Khí giới nào diệt nổi dân ta
Việt Nam ơi, bừng cơn mơ
Chớ mắt nhìn sạch tan căm thù “
(Huế - Sài Gòn – Hà Nội)
Đôi mắt thức tỉnh ấy lại len lỏi vào những ẩn ức riêng tư của con người, đào sâu
vào những chân tình thầm kín. Nỗi đau chiến tranh được Trịnh Công Sơn khai phá
đến cạn vào bản thể của cá nhân. Đôi mắt của người mẹ như thâu tóm cả sự đơn
côi, sự đau đớn tận cùng khi mất đi những người thân yêu:
“Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ chưa vui
Mẹ hãy ra xem đường phố ngập người
Ru mẹ một mình ôm bóng đêm”
(Sao mắt mẹ chưa vui)
Biểu tượng đôi mắt trong ca từ Trịnh không chỉ phơi bày hiện thực lịch sử mà còn
phản ánh thành thực những tâm tư sâu lắng của con người. Chiến tranh đã gieo vào
tâm thức những người dân Việt một nỗi đau khó giải tỏa. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
đã vô cùng sâu sắc khi “vắt cạn” những dòng nội tâm riêng biệt của con người.
Hình tượng đôi mắt trong tình yêu vốn thật nồng nàn và rạo rực. Trong các sáng
tác của Trịnh Công Sơn, đôi mắt của những người đang yêu còn mang cả sự hoài
nghi mờ hồ. Những nỗi đau tâm thức quá lớn lao luôn khiến con người ta ngờ vực
tâm vô thường tình cũng đổi thay:
“Còn hai con mắt khóc người một con
Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp
Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai tay một hôm biến mất

[Type text]

Page 17


Con mắt còn lại là con mắt ai
Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài”
(Con mắt còn lại)
Có lẽ nỗi ngờ vực là một hương vị không thể thiếu trong tình yêu. Sự hoài nghi
còn trở nên to lớn đối với những con người nhạy cảm về số phận, về tương lai. Đôi
mắt lưỡng diện luôn ẩn chứa một sự chông chênh vô thường khi cảm nhận về
những bất ngờ trong cuộc sống. Có thể nói trong đôi mắt ưu tư của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn, chúng ta bỗng thấy bản thân mình như cũng ở đó vậy. Đôi lúc con
người ta luôn cảm thấy do dự, luôn băn khoăn và dự cảm về những biến cố trong
tương lai, lo sợ những tổn thương sẽ đến với chính mình.
2.4 Cảm thức về thời gian và sự nhận thức về kiếp người
Dễ nhận thấy rằng trong những lời lời ca của nhạc sĩ cảm thức hiện sinh về thời
gian, về kiếp người không đơn thuần là môi trường, hoàn cảnh vốn mang tính chất
nguyên nhân – hay hỗ trợ, cản trở mà nay nó trực tiếp can dự vào những nội dung
sáng tác của nhạc sĩ. Có lẽ cố nhạc sĩ mang nỗi đau về nhân thế, về ý nghĩa triết lí
cuộc đời nên lúc sống ông luôn nghĩ về cái chết, sự tồn tại của bản thân trước dòng
đời. Đi tìm cái thời gian mênh mông chiêm nghiệm về kiếp người phù du thông
qua biểu tượng “ngày” và “mùa” để nhận thấy thời gian chảy trôi cùng kiếp người.
2.4.1 Thời gian vô hạn
Chiêm nghiệm trước dòng đời trải qua bao thăng trầm, thì phần lời trong nhạc lại
nêu bật được hình ảnh, thân phận con người trong cõi sống "nhọc nhằn đáng yêu".
Lời ca tha thiết trong một giai điệu đã nói lên điều đó:
"Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xa
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”
(Một cõi đi về)
Trong kiếp sống ngắn ngủi của con người, nhạc sĩ không kêu gọi con người sống
gấp, sống vội, bằng cách cố vun vén cho mình mọi điều, mọi thứ; mà trái lại, ông
khuyên họ nên sống giàu lòng nhân ái, đầy sự độ lượng, vị tha. Lời trong bài Một
buổi sáng mùa xuân và phần lớn những bài trong "Ca khúc Da vàng" của Trịnh
Công Sơn đều nêu bật tấm lòng yêu thương con người, tâm lý chán ghét chiến
tranh của nhạc sĩ, vì chiến tranh suy cho cùng chỉ mang lại thiệt thòi, chết chóc cho
dân lành vô tội:
“Một buổi sáng mùa xuân
Ngực đứa bé tan tành
Ngàn hoa đồng cỏ nội
Cúi xuống nhìn con tim(…)
Bờ môi dường thầm hỏi
Có thiên đường hay không…”
[Type text]

Page 18


(Một buổi sáng màu xuân)
Ở đây ta có thể thấy rõ trong những lời ca của nhạc sĩ đã hiện rõ bản chất của quan
niệm của các tín đồ hiện sinh là sự ủng hộ hoà bình, tình yêu, tự do cá nhân. Sự
cảm thức về dòng đời chảy trôi, về con người cùng những trải nghiệm của nhạc sĩ
đã tạo nên những lời ca đi vào lòng người một cách sâu lắng nhất.
Không gian buổi chiều cũng khiến cho ca từ nhạc Trịnh mang một vẻ rất riêng.
“Chiều” như là không gian của những dự cảm chia xa, của những nỗi buồn man
mác, ưu tư nhìn lại những mộng ảo của đời người:
“Tôi như con chim buồn
Bay về lúc chiều hôm

Thôi quên đi thiên đường
Một đời tôi tìm mãi”
(Như chim ưu phiền)
Và trong giai điệu:
“Một chiều kia có em buồn buồn
Thân mong manh như lau sậy hiền
Về đòi mây thắp hương nằm mộng”
(Níu tay nghìn trùng)
Trong cảnh hoang tàn, chết chóc, thành phố hiện lên với sự đổ vỡ, sắc đỏ ròng ròng
nhuộm màu tang thương:
“Trôi dưới chân tôi qua từng cụm chiều
Chiều lên hay xuống nghe ra vẫn đìu hiu
Ôi phố phường tôi chiều thắm tựa máu đào
Giờ này phố vắng chắc phố đứng nhìn nhau”
(Mùa áo quan)
Để rồi khi đêm về, đó là khoảng thời gian để chiêm nghiệm về lẽ sống, nhận thấy
được diện mạo của cuộc hiện sinh này cùng với kiếp người buồn tủi:
“Lòng tôi có đôi lần khép cửa
Rồi bên vết thương tôi quỳ
Nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe”
(Đêm thấy ta là thác đổ)
Mùa xuân là màu của những hy vọng, của tình yêu tuổi trẻ mang sắc diện mới mẻ
và tươi đẹp. Tuy nhiên, trong ca từ nhạc Trịnh, mùa xuân “chất chứa những sầu
muộn của cõi tình phai nhạt”3
“Em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân
Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao
Để mùa xuân sau mua riêng tình sầu”
3 [Bích hạnh, Trịnh Công Sơn hạt bụi trong cõi thiên thu, NXB Bách Khoa, 2011, tr179]


[Type text]

Page 19


(Tôi ru em ngủ)
Từ đây, ta thấy được cảm thức về ngày và mùa trong nhạc Trịnh là cảm thức về
thời gian chảy trôi, tuần hoàn trong vô hạn. Thời gian trong ca từ nhạc Trịnh mang
một sắc màu đượm buồn, chiêm nghiệm về kiếp người trong cuộc hiện sinh khắc
nghiệt này. Tháng ngày trôi qua chất chứa thêm nhiều suy tư, trăn trở về cuộc đời
chính vì điều này yếu tố thời gian đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhạc
sĩ. Thời gian trong thế giới hiện sinh là thời gian tồn tại để khẳng định, thời gian
luân hồi, thời gian của kiếp người nhỏ bé. Rồi có lúc lo sợ, có chút bất ngờ trước
thời gian đi qua đời người: “ Bao nhiêu năm làm kiếp con người chợt một chiều tóc
trắng như vôi" (Cát bụi). Đó là những gì mà nhạc sĩ cảm nhận trước sự chảy trôi
khắc nghiệt của thời gian.
2.4.2 Sự nhận thức về kiếp người.
Quan niệm cuộc sống này là cõi tạm bợ, "quán trọ", một quan niệm thường trực
trong ý tưởng của nhạc sĩ. Đôi lúc chính quan niệm này khiến cho nhạc sĩ cảm thấy
buồn vì sự bất lực của con người trước cuộc đời, nhưng đôi lúc nhạc sĩ thấy bình
tâm hơn vì kiếp con người. Trong nhiều bài nhạc, Trịnh Công Sơn đã đề cập tới ý
nghĩa triết lý nhân sinh này: Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Cát bụi, Ngẫu nhiên,...
"Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này
Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người
Còn bao lâu tôi xa em, xa anh, xa tôi.".
(Phúc âm buồn)
Hay trong bài Biết đâu nguồn cội:
"Tôi vui chơi giữa đời, Ối a biết đâu nguồn cội
Tôi thu tôi bé lại, Làm mưa tan giữa trời."

(Biết đâu cội nguồn)
Những ca từ trữ tình và sâu lắng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thường khiến
người nghe không khỏi trăn trở về phận người. Cố nhạc sĩ đã đi qua hành trình
cuộc đời nhưng ông vẫn còn sống trong trái tim rất nhiều người. Điều gì đã khiến
cho dòng nhạc của ông có sức cuốn hút lòng người đến vậy? Chắn hẳn một trong
những nhân tố quan trọng chính là tại ở ca từ sâu sắc đậm tính triết lý nhân sinh
cùng những cảm thức về kiếp người được gạn lọc rất công phu. Bản chất của triết
lý hiện sinh là đi tìm lời giải đáp về kiếp người, thì đây cố nhạc sĩ đã đưa ta đi
khám phá về cảm quan nhận thức về đời thông qua những giai điệu của những lời
ca tiếng hát.
Triết lý con người trong ca từ nhạc Trịnh là một hành trình khởi đi từ hư vô nhưng
rất ý nghĩa của “hạt bụi”. Trong hành trình đi tìm bản chất của con người của sự
tồn tại theo quan niệm hiện sinh trăn trở về cuộc đời, về phận người, để rồi ông
chợt nhận ra: tôi là ai, tôi đến từ đâu và tôi sẽ về đâu. Và nhạc sĩ đã đáp lại lời thắc
[Type text]

Page 20


mắc ấy rằng con người chỉ là một “hạt bụi” từ hư vô, là “không có gì”. Thế nhưng,
con người ấy “được tái tạo”, được “hóa kiếp” thành con người với sức sống mãnh
liệt:
“Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy”
(Cát bụi)
Ngay khi chợt nhận ra được nguồn gốc và sự hiện diện của mình, nhạc sĩ không
khỏi băn khoăn khi suy nghĩ về hành trình của mình: Tôi sẽ đi về đâu? Tôi thật
hạnh phúc khi được sinh ra trong cuộc đời này nhưng tôi cũng bị giới hạn trong
thời gian và giới hạn của kiếp người sinh-lão-bệnh-tử. Khi đứng trước ngưỡng của
của sự chết, có lẽ nhiều người trong chúng ta cảm thấy sợ hãi. Cố nhạc sĩ cũng đã

có lần chia sẻ cảm nhận của mình về sự chết: “Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua
đời, dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy” (Bên đời hiu quạnh). Hành trình con
người được khởi đi từ sự “kỳ diệu” có lẽ nào kết thúc một cách “vô duyên” với cái
chết? Vậy đâu là ý nghĩa của đời sống này?
Cảm nhận về hành trình của kiếp người của cố nhạc sĩ mang đậm hơi hướng của
quan điểm hiện sinh rằng con người trước khi hiện hữu thì không có sẵn một bản
tính người; chỉ sau đó trong quá trình sống, gặp gỡ với những người khác, con
người mới tự tạo cho mình những đặc thù. Rồi con người phải trải qua những thăng
trầm, nổi cô đơn, về thân phận về kiếp sống kiếp người. Rồi ta làm gì, nghĩ gì đi
chăng nữa mai này cũng “trở về cát bụi”.
Phải chăng hành trình mà con người đang đi là một hành trình của thách đố với
những cuộc chạm trán dữ dội: với những thách đố, với những cám dỗ, với những
con người, với những thất bại…để từ đó khiến con người ‘không còn như xưa’.
Quả vậy, những cuộc chạm trán ấy có thể làm cho con người ‘khép cửa’ đối với
cuộc đời như chính kinh nghiệm của cố nhạc sĩ: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa, rồi
bên vết thương tôi quỳ” (Đêm thấy ta là thác đổ).
Dù muốn dù không, hành trình của con người rồi cũng có lúc đi về phía cuối con
đường, về phía sau “cánh cửa” sự chết. Tuy vậy, được hiện diện trong cuộc đời
này, được gặp gỡ con người đã đủ để nhạc sĩ sống với lòng tri ân cuộc đời:
“Mặt trời mặt trời đã lên,
Một ngày một ngày đã qua rồi;
Từng ngày thấy mặt trời,
Thấy mọi người lòng đã thấy vui
Từng ngày từng ngày nhớ ơn đời”
(Còn thấy mặt người)
Để rồi nhạc sĩ đã chiêm nghiệm được cho mình những triết lí. Ông đã không ngần
ngại khẳng định tầm quan trọng của một con tim biết rung động: “Sống trong đời
sống cần có một tấm lòng” (Để gió cuốn đi). Hay sống chân thành với cuộc đời
bằng cả con tim thuần khiết: “Đời đã cho tôi một đời, chỉ có ta trong một thời, một
[Type text]


Page 21


thời với yêu người mà thôi” (Chỉ có ta trong cuộc đời). Một khi sống thành thật với
con người của mình, yêu người, yêu đời… ai cũng sẽ thấy bình an vì đã sống ‘trọn’
cuộc đời mình, không hối tiếc cho dù có những lần vấp ngã. Đó chính là những
“hạt bụi tuyệt vời”.
Sự cảm nhận về kiếp người mỏng manh giữa dòng đời được nhạc sĩ thể hiện khá
sâu sắc trong những sáng tác của mình. Nó mang đậm dấu ấn hiện sinh đó chính là
“ sự hiện hữu của từng cá thể đặc thù” những suy tư, trăn trở của Trịnh Công Sơn
về con người,về cuộc đời, về những gì ông cảm nhận đều mang đậm nét dấu ấn
hiện sinh đó là những chiều kích khá sâu và rộng trong từng câu, từng chữ trong
những khúc ca đã đi cùng năm tháng của làng nhạc Việt.
2.5 Cảm thức về âm thanh và sự thức tỉnh tri nhận
Cảm thức về âm thanh trong hàng loạt các ca khúc của Trịnh Công Sơn được vang
lên qua sự êm ái, dịu vời của tiếng ru và thanh âm làm rung chuyển vạn vật với sức
công phá tàn khốc qua tiếng súng. Chiến tranh đã làm cho cuộc hiện sinh của
những con người da vàng trầm luân trong kiếp nạn đau khốn do chiến tranh gây ra.
Ngập ngụa trong sự đau khổ của kiếp nạn như vậy, Trịnh Công Sơn đã thấy những
đứa con của đất mẹ Việt đã quá thống khổ đến tột cùng trong sự chia ly, sự chết
chóc luôn hiển hiện trong cuộc hiện sinh này.
2.5.1 Lời ru xoa dịu tâm hồn con người
Để xoa dịu đi những nỗi đau đớn cùng cực như vậy, trong ca từ của Trịnh Công
Sơn đã xuất hiện những lời ru, tiếng ru ngọt dịu, nhẹ nhàng qua lời mẹ ru con để
xoa dịu đi những vết thương lòng do chiến tranh gây ra:
“Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân
Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người”

(Ca dao mẹ)
Từ những lời ru của mẹ, Trịnh Công Sơn đã hóa thân để tự ru chính mình, ru cho
những nỗi niềm tâm sự của mình. Vì quá đau thương trong cuộc hiện sinh kiếp
người, Trịnh Công Sơn muốn vơi đi những nỗi thống khổ đó bằng cách ru mình
vào những khoảng không mộng mị bằng những lời ru của chính mình với nỗi ngậm
ngùi day dẳng. “Nhưng làm sao quên được, và cứ thế khắc khoải buồn, trăn trở nhớ
mùi “hương trầm” cần phải thắp nốt ở chốn an bình của quê hương có sen hồng
ngàn năm vẫn đợi”4
“Em về, hãy về đi, ta phiêu du một đờị
Hương trầm có còn đây, ta thắp nốt chiều nay
Xin ngủ trong vòng nôi, ta ru ta ngậm ngùi
Xin ngủ dưới vòm cây”
( Ru ta ngậm ngùi)
4 [ Minh Tuệ Đỗ Minh, Chiều kích tâm linh trong nhạc Trịnh Công Sơn, NXB Hồng Đức, 2016, tr 108]

[Type text]

Page 22


Lời ru như là một dòng nước mát tưới tẩm để làm dịu đi những oán hận, đau
thương của những con người chìm đắm trong chiến tranh. Lời ru còn làm thanh lọc
tâm hồn của những kẻ bị vấy bẩn bởi lòng căm hận, sự vong thân. Lời ru giúp
chúng ta quên đi những ưu phiền trong cuộc sống, kêu gọi mọi người cùng siết lại
và hong ấm cho những tâm hồn đã nguội lạnh, làm cho quên đi “đêm súng đạn,
sáng mưa bom” và cùng đưa đến miền hoan ca:
“Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau cho gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nha trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người”

( Hãy yêu nhau đi)
Đôi lúc, lời ru lại đưa em vào cõi mộng ảo, dìu dắt em va chạm và đắm chìm trong
niềm hoan ca, niềm hy vọng le lói để quên đi hiện thực khắc nghiệt vẫn còn day
dẳng và kéo dài. Để rồi, lắm lúc lại giật mình, bừng tỉnh nhận ra những “chua xót
tình trần”:
“ Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông
Em hôn một nụ hồng, hỏi thăm về giọt nắng
Tôi ru em ngủ hạ cũng vừa xong
Em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần”
( Tôi ru em ngủ)
Khi trả lời phỏng vấn về những những khúc ru trong các ca khúc của mình, Trịnh
Công Sơn đã cho rằng : “Ru như thế không phải là ru em, mà thực chất là tôi tự ru
tôi, tự ru để thanh lọc tâm hồn không vương một chút oán hờn nào cho dù bị phụ
rẫy” :5
“Ru em phụ rẫy trong ta
Ru em mệt lả cơn đau
Ru em về giữa chiêm bao”
(Ru em)
Dù thế nào thì lời ru của mẹ vẫn là dòng suối mát rót vào tâm hồn của người con,
tưới đẫm tâm hồn và ru con chìm vào một giấc ngủ bình yên và dung dị:
“Tiếng ru mẹ hát những năm xưa
Mãi là lời ca dao bốn mùa”
(Tình yêu tìm thấy)
Lời ru trong các các khúc của Trịnh Công Sơn nó đã vượt thoát ra khỏi vai trò là sự
ru ngủ, đưa con người chìm vào những giấc mộng yên bình, thì nó đã đảm nhiệm
một vai trò lớn lao hơn là giúp con người quên đi thực tại khắc nghiệt, ru con
người chìm vào những khoảng không cõi mộng mặc cho hiện tại đau thương vẫn
diễn ra gay gắt. Khúc ru trong các giai điệu mang một giá trị nhân văn sâu sắc, cứu
rỗi được tâm hồn con người lạc loài trong khói đạn, bom bay.
5 [Nguyễn Quang Sáng, Paris-tiếng hát Trịnh Công Công Sơn, NXN Tác phẩm mới, 1990, tr88]


[Type text]

Page 23


2.5.2 Tiếng súng - sự thức tỉnh tri nhận
Bên cạnh những khúc ru tha thiết làm cho con thấy yên bình thì âm thanh tiếng
súng dội vào những con người u mê để đánh thức lương tri của chính họ. Âm thanh
tiếng súng là một thứ âm thanh không thể thiếu trong một đất nước chìm đắm trong
những cuộc chiến đẫm máu này. Nó hiện hữu như thứ âm thanh của sự đau thương,
chia ly, chết chóc. Và nó khiến cho những con người chết một cách bất chợt, không
có sự báo trước:
“Người con gái một đêm qua làng
Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng
Người con gái chợt ôm tim mình
Trên da thơm vết máu loang dần”
(Người con gái Việt Nam da vàng)
Sự tàn khốc của chiến tranh được Trịnh Công Sơn khắc họa qua hình ảnh “người
già co ro” và “em bé lã lồ”, đã nói lên tính chất phi nhân tính của chiến trang đem
đến cho những người con Việt, làm rúng động lương tâm của những con người yêu
chuộng hòa bình. Khiến cho những người con da vàng phải chịu khổ sở, đau đớn,
về mặt thể xác và tổn thương sâu sắc về mặt tinh thần:
“Người già co ro em bé lõa lồ
Từng hạt cơm khô trong miếng hững hờ
Ruộng đồi quê hương dấu vết bom qua
Từng bàn tay khô lấp kín môi cười”
Từng cuộn dây gai xé nát da người.
(Người già em bé)
Khi những tiếng súng, tiếng bom và những ánh hỏa châu đêm đêm vẫn dội về đều

đặn, làm bừng sáng cả một không gian đau thương. Nhìn bao quát, Việt Nam như
một thảm cảnh hoang tàn, đổ vỡ để rồi “bên xác người già yếu, có xác còn thơ
ngây”. Máu xương và đất hòa lẫn với nhau, ôm trọn những con người vô tội về với
đất mẹ bao dung, nơi không còn tiếng đạn bom, không còn sự đau thương tiếp diễn
và dồn dập:
“Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn
Từng vùng thịt xương có mẹ có em”
(Đại bác ru đêm)
Từ thực tại hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, tiếng súng như là thứ âm thanh dội
vào lương tri của bao con người, hiếu chiến và bàng quan trước thực tại:
“Hãy sống giùm tôi
Hãy nói giùm tôi
Hãy thở giùm tôi
Còn thấy gì ngoài bom lửa đạn
[Type text]

Page 24


Anh chị này!
Sao vui mừng làm người cúi xin”
(Hãy nói giùm tôi)
Tiếng súng mang một chiều sâu ý nghĩa nhất định, cái âm thanh của tiếng súng đã
phản ánh thực tại chiến tranh khốc liệt, tang thương bao trùm, lên án cái phi nghĩa
của cuộc chiến giữa hai miền Việt Nam lúc bây giờ. Đồng thời đó là một thứ thanh
âm dội vào lòng con người, làm thức tỉnh lương tri con người và kêu gọi đấu tranh,
đứng lên giành sự tự do, hòa bình.
2.6 Dự cảm về kiếp người phù du

Ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn không chỉ cho thấy ông là nghệ sĩ - người có tài
năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác. Trong nhạc ông, người nghe còn
học được cái nhìn triết lí đầy tính triết học. Những năm tháng học tập khi còn là
sinh viên cùng những năm sống và sáng tác đã dần làm cho anh ngộ ra nhiều chân
lí của cuộc đời. Đó là tình yêu và tình nhân loại ở con người, đó là những mặt đối
lập giữa nợ và tình, sống và chết, hữu hạn và vô hạn,hạnh phúc và khổ đau .Và đó
còn là kiếp sống mong manh, phù du nhưng đáng yêu và quí biết bao thân phận
con người.. Nhiều tên tựa bài nhạc của anh cũng đủ để nói lên điều đó: Bên đời hiu
quạnh, Cát bụi, Có một dòng sông đã qua đời, Còn ai với ai, Dấu chân địa đàng,
Đóa hoa vô thường, Giọt lệ thiên thu, Một cõi đi về,Phôi pha, Tôi ơi đừng tuyệt
vọng, Tuổi đá buồn, Xin trả nợ người....
Lời nhạc của ông, ta nghe thật thấm thía, nhưng để ngộ được hết triết lí mà ông
muốn nói không phải là điều dễ. Có thể nói anh có một khả năng sử dụng ngôn từ
có chiều sâu của sự khái quát tư duy, nhưng lại là một lối suy tư gần gũi với mọi
người.
Như trong:
"Nắng quái yêu ma lung linh thành trì lung linh cửa nhà
Bước tới hư vô khoác áo chân như long lanh giọt lệ long lanh giọt lệ”
(Giọt lệ thiên thu)
Trong bài Cát bụi, con người chỉ là hữu hạn trong thế giới rộng lớn đến vô hạn. Có
thể kiếp trước ta cũng chỉ là một hạt bụi vô danh nào đó lơ lửng trong vũ trụ, được
tái sinh thành kiếp con người mang hình hài và số phận. Chúng ta sống trong vòng
tay yêu thương của người thân, của bạn bè rồi lớn lên trong xã hội, học tập và phấn
đấu, trưởng thành. Tất cả đã cho ta có một cái tên, một vị trí đứng. Nhưng rồi trong
một buổi chiều hoàng hôn tắt muộn, ta chợt nhận ra mái đầu xanh kia đã già rồi.
Phải chăng đời người mong manh như hạt sương, khẽ chạm vào sẽ tan mất, hay là
đám mây lững thững trên bầu trời sớm tan biến nhạt nhòa thành những giọt mưa.
Vậy là mây cũng chuyển kiếp và con người lại về với cát bụi, phải chăng? Chính vì
thế, Trịnh Công Sơn đã mải miết viết trong Cát bụi rằng:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi”
[Type text]

Page 25


×