Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn chữ người tử tù của nguyễn tuân và hai đứa trẻ của thạch lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.3 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Suốt mười thế kỉ, từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, nền văn học thành văn Việt
Nam hình thành và phát triển trong phong khí xã hội phong kiến trung đại và đạt
được những thành tựu vô cùng to lớn. Bước sang đầu thế kỉ XX, tình hình xã hội
và môi trường văn hóa – tư tưởng có quá nhiều biến đổi quan trọng khác với trước,
nền văn học dân tộc đã chuyển dần từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù
văn học hiện đại. Chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy 50 năm, nền văn học viết
Việt Nam đã có những biến đổi rất sâu sắc, phát triển với nhịp độ mau lẹ và khẳng
định được cả mặt số lượng lẫn mặt chất lượng.
Trong giai đoạn văn học từ 1900 - 1945, giới nghiên cứu trước giờ vẫn trung
thành với cách phân kì ra hai chặng: 1900 – 1930 và 1930 – 1945, trong đó chặng
1900 – 1930 còn được chia nhỏ thành 1900 – 1920 và 1920 – 1930. Chặng từ 1900
đến 1930 chứng kiến cơ cấu kinh tế, xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến đổi
theo hướng tư bản chủ nghĩa ở các nước thuộc địa. Nền văn học bước vào giai
đoạn giao thời. Văn chương nhà nho vẫn còn như Nguyễn Khuyến, Tú Xương
nhưng sáng tác với tâm trạng của những kẻ lạc thời. Văn học ở khu vực hợp pháp
có sự xuất hiện những áng văn xuôi chữ quốc ngữ ở cả miền Nam lẫn miền Bắc.
Các cây bút tiêu biểu như Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,… đặc
biệt trong số đó có “Tố Tâm” của Song An Hoàng Ngọc Phách (xuất bản năm
1925) gây được tiếng vang trong công chúng dù bây giờ đã có nhiều nhìn nhận về
hạn chế của nó. Thơ thì có Tản Đà, Trần Tuấn Khải,… và nhiều mảng khác như
kịch, biên khảo, dịch thuật,… cũng có những thành tựu đáng kể. Sang chặng từ
1930 đến 1945, có thể nói là chặng đường phát triển sôi nổi, phong phú và mau lẹ
của văn học dân tộc theo hướng hiện đại. Cả hai khuynh hướng lãng mạn và hiện
thực đều có sự phát triển mạnh mẽ. Văn xuôi thì có Tự lực văn đoàn, Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng,…Thơ thì có phong
trào Thơ mới và còn cần điểm qua cả phê bình văn học nữa: Vũ Ngọc Phan, Hoài
Thanh – Hoài Chân, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi,… kịch và văn học
cách mạng (khu vực bất hợp pháp).
Trong các thể loại có mặt ở Việt Nam trong chặng đường 1930 – 1945 thì
truyện ngắn vẫn là nhiều với những truyện viết theo khuynh hướng lãng mạn và


khuynh hướng hiện thực. Trong đó, Nguyễn Tuân và Thạch Lam là hai gương mặt
khá quen thuộc. Cả hai người đều đắm mình trong khuynh hướng lãng mạn, sáng
tác đậm chất lãng mạn nhưng lại có phong cách, cá tính hoàn toàn trái ngược nhau.
Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù và Thạch Lam với Hai đứa trẻ đã quá gần gũi
với bạn đọc nhưng nếu ta đặt chúng ở cạnh nhau, chú tâm quan sát và phân tích, ta
lại có thể tìm ra ở chúng những điều khác biệt và hứa hẹn là rất thú vị.


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ MỘT SỐ LÍ LUẬN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù
1.1.1. Tác giả nguyễn Tuân
1.1.1.1. Về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê ở làng Nhân Mục, nay thuộc phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho
khi Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung thì bị đuổi học vì
tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam
(1929). Sau đó ít lâu, ông lại bị đi tù vì “xê dịch” qua Thái Lan mà không có giấy
phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn. Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu
những năm ba mươi của thế kỉ XX, nhưng phải từ năm 1938, tên tuổi của ông mới
được nhiều người biết đến với các tác phẩm mang phong cách rất độc đáo như Một
chuyến đi, Vang bóng một thời,…Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt vì giao du với
những người hoạt động chính trị. Mãi đến khi Cách mạng tháng Tám thành công,
ông mới lại xuất hiện và trở thành một cây bút tiêu biểu của nên văn học mới đồng
thời nhiệt tình tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến. Nguyễn Tuân đã từng
giữ chức Tổng Thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Bản thân Nguyễn Tuân là một trí thức rất giàu lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc. Lòng yêu nước ấy của ông có nét đặc biệt: gắn bó với những giá trị cổ truyền
của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, yêu những kiệt tác văn chương của
Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,Tản Đà, yêu những phong cảnh đẹp của quê hương

đất nước, yêu những thú chơi tao nhã như uống trà, chơi hoa, yêu những món ăn
truyền thống mang đậm khẩu vị Việt,…Con người này có ý thức cá nhân rất cao,rất
mực tài hoa uyên bác và đồng thời cũng rất quý trọng nghề nghiệp của mình.
Ngoài văn chương, Nguyễn Tuân còn am hiểu nhiều ngành văn hóa, nhiều môn
nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh,…
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu
tay. Ông đã thử qua rất nhiều thể loại như thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào
phúng. Tuy nhiên, phải đến năm 1938 thì ông mới nhận ra sở trường của mình và
thành công xuất sắc với các tác phẩm Một chuyến đi (1941), Vang bóng một thời
(1940), Thiếu quê hương (1943), Chiếc lư đồng mắc cua (1941),…Tác phẩm của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “Chủ
nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “Vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc. Từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của
dân tộc nhưng Nguyễn Tuân luôn có ý thức phục vụ trên cương vị một nhà văn,
đồng thời cũng muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã
đóng góp cho nền văn học viết nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi
quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất. Về
mặt thể loại, sau Cách mạng Nguyễn Tuân chủ yếu viết kí. Các tác phẩm chính của
ông gồm: tập tùy bút Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), Kí (1976),
Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988).
1.1.1.2. Về quan điểm nghệ thuật
Là một người có phong cách nghệ thuật độc đáo vậy nên quan điểm nghệ thuật
của Nguyễn Tuân cũng đặc sắc, hơn người và rất rõ ràng. Vì là người có ý thức cá


nhân phát triển rất cao nên với ông, viết văn trước hết là để khẳng định cá tính
mạnh và độc đáo của mình. Ông ưa sống lối sống tự do phóng túng nên đặc biệt
trong những tùy bút của mình, thể loại cho phép phả cái tôi cảm xúc của người
sáng tác thì ta sẽ thấy rõ từng tí một con người Nguyễn Tuân. Ngay từ trước Cách
mạng, một Nguyễn Tuân được nhiều người yêu mến cũng bởi quan điểm minh

bạch, rõ ràng này của ông – nghề văn đối lập với tính vụ lợi của nghề con buôn.
Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí khổ hạnh
và để chứng minh cho quan niệm đó, ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa
thế kỉ của mình.
Nếu nhìn từ góc độ lịch sử cụ thể để mà xem xét quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Tuân thì chúng ta có thể thấy ông vốn là môn đồ của thuyết “Nghệ thuật vị
nghệ thuật”, “trọng cái đẹp hình thức”. Nhà văn có quay lưng lại với hiện thực
nhưng đó là hiện thực đen tối của xã hội thực dân phong kiến chứ không phải là
quay lưng với những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như những
cảnh đẹp nên thơ của quê hương đất nước. Nguyễn Tuân không đủ sức để chống
trả chế độ thực dân phong kiến dù ông có một lòng yêu nước sâu sắc, có lòng tin
vào đất nước mình. Vì vậy bằng những gì mà ông yêu quý, những gì mà ông gửi
gắm vào văn chương, ta có thể thấy được tâm sự và nỗi lòng của ông.
1.1.2. Tác phẩm Chữ người tử tù
1.1.2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng (tạp chí
Tao đàn, 1938), sau được tuyển in trong tập Vang bóng một thời (một tập truyện
ngắn có giá trị như một kiệt tác viết về những thú chơi tao nhã, về những con
người tài hoa thời phong kiến) và đổi tên là Chữ người tử tù. Tác phẩm ra đời khi
tên tuổi của Nguyễn Tuân bắt đầu được biết đến và ông bắt đầu định hình rõ được
sở trường, con đường đi của mình. Đây là một trong những thiên truyện xuất sắc
nhất của tập sách.
1.1.2.2. Nội dung – chủ đề của tác phẩm
Nội dung truyện xoay quanh cuộc gặp gỡ kì lạ và éo le của hai nhân vật chính:
Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, có thiên lương và khí phách đã lãnh đạo nông dân
khởi nghĩa và bị bắt giam vào trại giam tỉnh Sơn với viên quản ngục, một kẻ say
mê chữ đẹp của ông Huấn Cao, quyết tâm tìm mọi cách để xin chữ của Huấn Cao.
Truyện kết thúc bằng cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Qua
đó, truyện như là một bài cảm hứng động viên con người cố gắng giữ vẻ đẹp thiên
lương của mình dù trong bất kì hoàn cảnh nào.

1.2. Vài nét về tác giả Thạch Lam và tác phẩm Hai đứa trẻ
1.2.1. Tác giả Thạch Lam
1.2.1.1. Về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
Thạch Lam (1910 – 1942) sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc
quan lại, thuở nhỏ chủ yếu sống ở quê ngoại, phố Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Ông có tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh. Năm 15 tuổi, vì cần tăng thêm tuổi để
đi học vượt cấp, ông làm lại giấy khai sinh, đổi tên thành Nguyễn Tường Lân và
giữ tên này cho đến khi mất. Bút hiệu chính của ông là Thạch Lam,ngoài ra ông
còn có bút danh khác là Việt Sinh. Ông nội Thạch Lam là cụ Nguyễn Tường Tiếp –
làm quan triều Nguyễn (tri huyện Cẩm Giàng, Hải Dương). Cha của Thạch Lam là


cụ Nguyễn Tường Nhu, một người tài giỏi, “văn võ song toàn”, tuy nhiên, ông qua
đời sớm khi Thạch Lam vừa lên bảy. Cảnh nhà khó khăn, mẹ Thạch Lam phải tần
tảo buôn bán để nuôi các con ăn học. Các anh đi học ở Hà Nội, thỉnh thoảng mới
về. Thạch Lam và chị Thế ở nhà trông coi quầy hàng tạp hóa cho mẹ. Sớm gần gũi
với những người bình dân, Thạch Lam thấu hiểu cảnh ngộ cùng nỗi lòng của họ.
Tuổi thơ nơi phố huyện nghèo cùng với những thân phận nhỏ bé, quẩn quanh trong
nhịp sống đơn điệu, tù túng hiện lên đầy ám ảnh trong các trang văn của ông.
Năm 1932, sau khi ở Pháp về, Nhất Linh đứng ra thành lập nhómTự lực văn
đoàn, lấy tờ Phong hóa làm cơ quan ngôn luận. Cũng từ đấy,Thạch Lam đi vào con
đường sáng tác văn chương và có một chân trong nhóm. Ông viết bài cho các báo
Phong hóa, Ngày nay với nhiều thể loại, từ phóng sự, phỏng vấn tới truyện ngắn,
truyện dài,…Con người Thạch Lam rất đa cảm, điềm đạm, tinh tế, luôn nhạy cảm
trước những vấn đề của cuộc sống. Ông trầm tĩnh, kín đáo, thiên về đời sống nội
tâm. Thạch Lam không thích sự ồn ào, thái quá, ít khi phản ứng một cách bồng bột,
mạnh mẽ. Ông luôn cẩn trọng, chân thành trong từng cử chỉ, từng hành động nhỏ
và dường như ông luôn đặt vào đấy rất nhiều suy nghĩ, cả sự nâng niu. Theo Đỗ
Đức Thu, “Thạch Lam là người giàu tình cảm, chỉ vì trường đời tạo cho anh ta cái
thái độ dè dặt, bắt anh sống cái đời con ốc trong một vỏ kín bưng”. Ông mất vì

bệnh lao tại nhà riêng ở Yên Phụ, Hà Nội, để lại người vợ hiền cùng ba con nhỏ.
Thạch Lam bắt đầu cầm bút năm 1931. Dù đã có nhiều truyện ngắn được in
báo nhưng tên tuổi của ông mới thực sự được khẳng định vào năm 1937, khi tập
truyện ngắn Gió đầu mùa ra mắt độc giả. Từ đây,Thạch Lam viết khá đều và thử
bút trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, tiểu luận, tùy bút,…Cuộc
đời sáng tác của Thạch Lam thật ngắn ngủi. Trong khoảng thời gian gần mười năm
cầm bút, không kể những bài báo chưa được gom lại để in thành sách, ông đã để
lại những tác phẩm chính sau đây:
- Ba tập truyện ngắn (hầu hết trước khi được in thành sách đã in trên báo
Ngày Nay của Tự lực văn đoàn): Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn
(1938 ), Sợi tóc (1942).
- Tiểu thuyết Ngày mới (1939).
- Hai truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách (1940), Hạt ngọc (1940).
- Tập tiểu luận Theo giòng (1941).
- Tập kí Hà Nội băm sáu phố phường (1943).
1.2.1.2. Về quan điểm nghệ thuật
Là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn nhưng dường như Thạch Lam khác
hoàn toàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo – những người vẫn thường viết
những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly mang màu sắc cải lương,
là những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra
trong các gia đình quyền quý. Dù thế nào thì trước sau, Thạch Lam vẫn chỉ hướng
ngòi bút của ông đi gần với cuộc sống của những người bình thường, nghèo khổ.
Khi viết lời giới thiệu cuốn Gió đầu mùa của mình, Thạch Lam có viết: “Đối với
tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự
quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có,


để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Có thể xem đó như là “Tuyên ngôn
nghệ thuật” của ông và thật sự thì trong suốt quãng thời gian cầm bút của mình, tuy

ngắn ngủi nhưng lại cho ta thấy sự nhất quán trong quan điểm nghệ thuật của
Thạch Lam khi mà không một trang văn nào không thấy thấm đượm tinh thần đó.
Nhà xuất bản văn học có viết lời của mình khi tiến hành in cuốn Gió đầu mùa,
trong đó có đoạn:“Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở
lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông. Nhân
vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất
nhân ái Việt Nam...Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con người,
quý trọng con người hơn. Và cũng từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng
chút tốt đẹp trong mỗi một con người”. Chúng tôi thiết nghĩ chính những điểm
sáng ấy mới là điều cần thiết giúp tác phẩm của ông dù đã trải bao thử thách khắc
nghiệt của thời gian thì vẫn vẹn nguyên giá trị của nó và vẫn được nhiều thế hệ bạn
đọc tìm đến với một niềm say mê trân trọng.
1.2.2. Truyện ngắn Hai đứa trẻ
1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Nhà văn đã có những ngày tháng sống tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương - quê ngoại của nhà văn những năm trước. Vốn là người nhạy cảm nhà văn
nhận thấy đồng cảm và thương xót với cuộc sống của người dân nên Thạch Lam đã
sáng tác nên tác phẩm này.
1.2.2.2. Nội dung – chủ đề của tác phẩm
Tác phẩm là câu chuyện về về cuộc sống và con người phố huyện nghèo được
hiện lên qua cái nhìn của hai chị em Liên và An. Đó là cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt
và theo chu kì của người dân phố huyện. Ở nơi đó, người đọc cũng thấy được ước
mơ, khát vọng đổi đời của những tâm hồn trẻ thơ. Qua đó hiểu được tấm lòng
thương cảm sâu xa của Thạch Lam đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi; thái
độ nâng niu, trân trọng của ông đối với những đứa trẻ nơi phố huyện và có trong
mình khát vọng yêu thương, tin tưởng vào cuộc sống.
1.3. Một số lý lí luận liên quan đến đề tài
1.3.1. Chủ nghĩa lãng mạn và khuynh hướng lãng mạn ở Việt Nam
1.3.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu tư tưởng và nghệ thuật của văn hóa châu

Âu, bào trùm mọi loại hình nghệ thuật và khoa học, có thời kì phồn thịnh vào cuối
thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện do nhiều nguyên
nhân khác nhau nhưng cơ sở ý thức xã hội chủ yếu quyết định sự có mặt của nó
vẫn là tác động từ cuộc Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794). Nhiều tư tưởng của
chủ nghĩa này trong thời gian tồn tại đã bị biến đổi ở mức đáng kể nhưng tâm thế
chung thì những tính chất thế giới quan vẫn được phát triển trong một định hướng
thẩm mĩ thống nhất.
Trung tâm của phong trào lãng mạn ở châu Âu là nước Đức. Nhiều nhà lãng
mạn thấy được những ảo tưởng sản sinh ra từ Cách mạng Pháp. Hiện thực đổ vỡ
của cuộc cách mạng khiến họ cảm thấy cuộc sống tư sản này thật tầm thường, dung
tục. Họ nhận ra rằng trong xã hội ấy không có chỗ đứng cho tâm hồn trong các mối
quan hệ xã hội và họ không thể chấp nhận được điều đó. Các nhà lãng mạn đau


đớn, trải nghiệm sự đổ vỡ những ước vọng, những khát khao mà họ mong chờ
cuộc đại Cách mạng sẽ mang đến và làm thay đổi cuộc đời họ. Thực tại lịch sử
không phục vụ lí trí, vậy nên dẫn đến những sự thất vọng, chán chường, bất tin
cũng là điều dễ hiểu. Vì thế con người bất bình với trật tự xã hội, lưu luyến những
thứ đã qua, hoang mang trước tương lai mờ mịt và tan vỡ hi vọng. Sụp đổ niềm tin
vào thực tại, con người đi tìm niềm tin nơi một xã hội lí tưởng chân chính. Những
cơ sở đó là tiền đề để xuất hiện chủ nghĩa lãng mạn với khuynh hướng chạy trốn
thực tại, lấy lí tưởng đối lập với thực tại.
Với chủ nghĩa lãng mạn thì nhân vật trung tâm là những con người thoát li với
thực tại, quay về với quá khứ hoặc cũng có những nhân vật chọn đi vào ảo mộng,
thu mình trong cái Tôi nhỏ bé. Về nguyên tắc xây dựng tính cách nhân vật thì chủ
nghĩa lãng mạn rất coi trọng vẻ riêng, cái đặc biệt, độc đáo của nhân vật. Điều này
ta có thể dễ dàng nhận thấy khi so sánh với nguyên tắc này ở chủ nghĩa hiện thực,
khi mà chủ nghĩa hiện thực chú trọng vẻ chung và riêng. Vẻ riêng trong tính cách
của nhân vật thậm chí còn được tác giả đẩy đến mức cực đoan, mang tính phi
thường, ngoại lệ. Ngoài chú ý vẻ riêng thì với chủ nghĩa này, nhân vật được xây

dựng theo nguyên tắc chủ quan. Tính cách nhân vật không có logic khách quan,
nghĩa là đáng lẽ đời thực con người bình thường phải như thế này nhưng trong tác
phẩm thuộc chủ nghĩa lãng mạn thì mọi thứ bị đảo lộn, không theo thông thường
nữa. Tính cách đó phát triển hay chuyển biến là đều tuân theo ảo tưởng chủ quan
của nhà văn. Nói cách khác, nhân vật chẳng qua là sự phân thân của tác giả, là “cái
Tôi thứ hai” của tác giả. Điều này ta sẽ nhận thấy nếu nghiên cứu Chữ người tử tù
và Hai đứa trẻ, khi mà Huấn Cao trong Chữ người tử tù cũng có chất ngông,
không chịu khuất phục giống Nguyễn Tuân và cuộc sống ở nơi phố huyện nghèo
của chị em Liên ta cũng sẽ bắt gặp khi tìm hiểu về cuộc đời của Thạch Lam.
Những ai nếu không rõ sẽ nghĩ đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên những làm gì có
ngẫu nhiên ở đây, thực chất là tuân thủ nguyên tắc chủ quan của tác giả mà thôi.
Các nhà văn lãng mạn xem nghệ thuật như là lĩnh vực giải phóng các năng lực
đa dạng của cá nhân, như lĩnh vực mà các cá nhân tự thực hiện mình một cách tự
do và tự nguyện. Quan điểm này cho ta thấy rõ rằng với chủ nghĩa lãng mạn, trước
nhất là đề cao cái Tôi cá nhân. Con người ra sức bảo vệ tự do, chủ quyền và giá trị
tự thân của cá nhân. Họ chú ý nhiều đến cái đơn nhất, không lặp lại ở con người,
sùng bái cái cá nhân, đôi khi là đến mức cực đoan. Bên cạnh đó, chủ nghĩa lãng
mạn rất coi trọng thiên nhiên và thường kêu gọi trở về với thiên nhiên, bởi lẽ với
thiên nhiên, người ta coi như là nghỉ ngơi và tĩnh tâm; về với thiên nhiên, người ta
quên đi bộ mặt thực tại của xã hội, quên đi những phiền nhiễu của thế gian. Điểm
đáng lưu tâm nữa là chủ nghĩa lãng mạn phá vỡ mọi quy định ràng buộc của chủ
nghĩa cổ điển và sự phá vỡ đó có thể được cụ thể như sau: “Đối lập với nguyên tắc
“bắt chước tự nhiên” của chủ nghĩa cổ điển, các nhà lãng mạn đề cao tính tích cực
sáng tác, quyền cải biến thực tại của nghệ sĩ: anh ta tạo ra một thế giới đặc biệt,
của mình, đẹp hơn, chân thực hơn cái thực tại kinh nghiệm; bởi vì nghệ thuật, sáng
tạo là thực chất thầm kín, là ý nghĩa sâu kín và là giá trị cao nhất của thế giới, cũng
có nghĩa nó là thực tại cao nhất. […]. Các nhà lãng mạn nhiệt liệt bảo vệ tự do
sáng tác của người nghệ sĩ, bảo vệ quyền tưởng tượng của nghệ sĩ, bác bỏ tính quy



phạm” [5, tr 289, 290]. Thiên tài không lệ thuộc các quy tắc mà là kẻ sáng tạo ra
các quy tắc là quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn.
1.3.1.2. Khuynh hướng lãng mạn ở Việt nam
Khuynh hướng hay trào lưu là “những cộng đồng các hiện tượng văn học được
liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm mĩ – tư
tưởng và về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật […].Ứng với quan niệm được dùng
phổ biến, khái niệm khuynh hướng ghi nhận tính cộng đồng về cơ sở tư tưởng
thẩm mĩ của nội dung nghệ thuật” [5, tr.737]. Khuynh hướng khác với trường phái
văn học – vốn đòi hỏi phải có một sự gần gũi về tư tưởng và nghệ thuật của các
thành viên trong trường phái, có cương lĩnh lí luận rõ ràng và có các nhà văn có tên
tuổi. Khuynh hướng cũng rất khác với trào lưu văn học, trào lưu chỉ là biến thể của
khuynh hướng.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện với tư cách là một trào lưu văn học
ở những năm 30 của thế kỉ XX. Tiêu biểu cho trào lưu văn học này là văn xuôi
lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn và thơ ca lãng mạn của phong trào Thơ mới.
Mỗi một trào lưu văn học xuất hiện đều dựa trên cơ sở hoàn cảnh xã hội – văn hóa
cụ thể, vậy những tiền đề xã hội – văn hóa nào ở nước ta ở thời điểm đó làm xuất
hiện trào lưu văn học lãng mạn? Do kết quả của cuộc khai thác thuộc địa của Pháp,
sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, xuất hiện đồng thời hai lực lượng – một giai
cấp tư sản bản xứ yếu hèn ra đời và một giai cấp vô sản tương đối mạnh mẽ được
sản sinh. Ngay sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914), giai cấp
tiểu tư sản (bao gồm tiểu thương, viên chức, giáo viên, học sinh – sinh viên,…)
cũng hình thành và với sự góp mặt của giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản, một lối
sống văn minh ở thành thi xuất hiện. Họ quen với việc đi xe ô tô, dùng quạt điện,
nghe hòa nhạc, xem chiếu bóng,…Những lối sinh hoạt mới nói trên cùng với sự
tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn học Pháp (văn học lãng mạn), đã làm thay đổi con
người ít nhiều. Họ bắt đầu có những tư tưởng, tình cảm mới, thị hiếu thẩm mĩ bắt
đầu phát triển và có những đòi hỏi cao hơn. Bối cảnh này sẽ thấy rõ qua nhận định
của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu
nhất trong hồn ta. Ta không thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước,

yêu, ghét, giân hờn nhất nhất như ngày trước”. Chính những đổi thay nhanh chóng
của hoàn cảnh lịch sử - văn hóa của nước ta giai đoạn này, văn học cũ không thể
đáp ứng nổi và như một lẽ tất yếu, văn học lãng mạn ra đời như để đáp ứng những
nhu cầu tình cảm cũng như thị hiếu thẩm mĩ mới của lớp công chúng thành thị
đương thời.
Chúng ta thường nghĩ văn học lãng mạn và văn học hiện thực là hai phạm trù
hoàn toàn khác nhau, hoàn toàn tách biệt, nhưng thực sự có phải thế không? Câu
trả lời là không hề có ranh giới tuyệt đối giữa chúng. Có thể thấy những truyện
ngắn của Thạch Lam, yếu tố hiện thực lại hiện lên rất rõ. Văn học hiện thực và văn
học lãng mạn có mối quan hệ vừa ảnh hưởng, vừa đấu tranh với nhau, có khi lại
thâm nhập, chuyển hoá cho nhau và không bài trừ nhau.
Đặc điểm của trào lưu văn học lãng mạn ở Việt Nam:
Thứ nhất, về cảm xúc thẩm mĩ, có thể thấy ở văn học lãng mạn khuynh hướng
cảm xúc thuộc về sự đào sâu thế giới chủ quan của cá nhân. Những tác phẩm văn


học lãng mạn như cuộc phiêu lưu vào thế giới nội tâm, nhìn nhận cuộc sống theo
lăng kính chủ quan và mang tính hướng nội.
Thứ hai, về khuynh hướng tư duy, văn học lãng mạn như một chiếc xe điều
khiển và chở đầy cảm xúc. Cảm xúc được giải phóng đến mức tối đa. Thế giới lãng
mạn tràn trề cảm xúc và tưởng tượng. Văn học ko chỉ viết về cái thực mà còn nói
đến những cái hư ảo của thế giới nội tâm tưởng tượng. Không chỉ vậy, việc kiến
tạo hình tượng nghệ thuật, nhân vật trung tâm ở văn học lãng mạn còn mang tính
lý tưởng hóa đến mức hoàn thiện, tròn trịa. Ví dụ như hình tượng nhân vật Huấn
Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân hay ngay việc trảm đầu
trong “Chém treo ngành” cũng được Nguyễn Tuân nâng lên tầm nghệ thuật một
cách hoàn thiện. Quả thật, văn học khuynh hướng lãng mạn luôn hướng tới sự hoàn
hảo chưa có và cần có.
Thứ ba, hệ thống đề tài của văn học lãng mạn chủ yếu xoay quanh những chủ
đề như tình yêu, thiên nhiên và tôn giáo. Về chủ đề tình yêu, tình yêu trong văn

học lãng mạn được mỗi tác giả nhìn theo những hướng khác nhau. Một là tình yêu
được nhìn theo lối lý tưởng hóa, như một bản tình ca đẹp, tình yêu vượt lên trên tất
cả những cảm xúc phàm tục ở đời, chỉ cần nghĩ đến nhau, trong tâm hồn lúc nào
cũng có nhau là hạnh phúc lắm rồi như dạng Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng.
Hai là tình yêu như những tấn bi kịch, lâm li bi đát và đầy buồn đau như dạng
Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Tuy nhiên cả hai hướng của tình yêu trong văn học
lãng mạn tuy ngả về hai chiều rất khác nhau nhưng lại có điểm tương đồng đó là
tình yêu không gắn liền với hôn nhân và gia đình, tình yêu thoát ra khỏi hôn nhân –
điều rất mới trong tư tưởng của những nhà văn lãng mạn. Về chủ đề tôn giáo thì
tôn giáo cũng được xem như là sở trường của văn học lãng mạn. Tôn giáo chất đầy
những trang thơ của Hàn Mặc Tử hay như Xuân Diệu“làm nên một thế giới trong
đó tình yêu được tôn thờ như một tôn giáo mà đã là người thì không có ai là kẻ
ngoại đạo”. Nói cách khác, những nhà thơ, nhà văn lãng mạn đã tôn giáo hóa văn
học, biến những thứ mình thích thành đam mê. Còn với thiên nhiên, tuy không
phải là chủ đề mới trong văn học nhưng đến trào lưu văn học lãng mạn, thiên nhiên
như mới hơn với cái nhìn cảm quan của nhà văn. Thiên nhiên không còn là chuẩn
mực để ước lệ mà thiên nhiên là đối tượng để tác giả lãng mạn bày tỏ tình cảm,
tâm tư của mình. Thiên nhiên được tiếp nhận chủ quan theo cảm xúc của nhà văn,
chẳng hạn như “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn
hàng” (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu).
Thứ tư, về hệ thống thể loại, văn học lãng mạn chú trọng đến những thể loại trữ
tình, dễ lồng cảm xúc cá nhân như thơ, truyện ngắn, tùy bút,… Về truyện ngắn,
nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, vừa bám sát thực tế đời sống,
vừa đào sâu vào thế giới chủ quan. Riêng những truyện ngắn viết về đề tài tình yêu
không đơn thuần là những câu chuyện mua vui, lấy sự giải trí, thương cảm của độc
giả mà còn là tiếng nói giải phóng con người khỏi những lễ giáo hà khắc, cổ hủ của
chế độ phong kiến suy tàn. Đặc biệt, thơ là thể loại đặc trưng nhất cho tư duy lãng
mạn. Và Thơ mới chính là dấu ấn, điểm nhấn quan trọng cho trào lưu văn học lãng
mạn ở nước ta đầu thế kỉ XX. Chữ “mới” ở đây để chỉ rõ sự thay đổi, canh tân từ
nội dung đến hình thức thơ. Nếu như thơ cũ là những loại thơ niêm luật chặt chẽ, ý

tứ rõ ràng, nội dung bị đóng khung bởi những đề tài “phong hoa tuyết nguyệt” thì


Thơ mới lại mới ở sự tự do hóa hình thức và nội dung thơ. Về hình thức, những
câu thơ được giải phóng tối đa câu chữ, cách ngắt dòng, ngắt nhịp cũng được tự do
hóa.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy trào lưu văn học lãng mạn ở Việt Nam tuân
thủ theo những nguyên tắc của chủ nghĩa lãng mạn. Và vì thế mà khi nắm rõ những
lí luận về chủ nghĩa lãng mạn và khuynh hướng lãng mạn ở Việt Nam thì bạn đọc
và người nghiên cứu mới có cơ sở để hiểu các tác phẩm văn học lãng mạn mà cụ
thể trong bài là hai tác phẩm Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ.
1.3.2. Thể loại truyện ngắn
Theo Từ điển văn học: “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được
viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã
hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện
ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận đọc nó liền một mạch không nghỉ” [5,
tr.1846]. Ở thời trung đại, văn học nước ta vốn cũng có những tác phẩm thể truyện
nhưng với truyện ngắn mang trong mình những đặc điểm riêng biệt chỉ thực sự
phát triển ở nền văn học hiện đại.
Đặc điểm của truyện ngắn sẽ được thể hiện rõ qua những mặt sau:
Dung lượng: Truyện ngắn thường có dung lượng ngắn bởi thể loại là lát cắt của
đời sống, của tâm trạng hay của một tình trạng quan hệ. Tuy nhiên độ dài ngắn của
truyện không phải là tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt với các thể loại khác bởi
trong thời hiện đại, ranh giới của các thể loại càng ngày càng bị xóa mờ.
Cốt truyện: Truyện ngắn có cốt truyện thường tự giới hạn về thời gian, không
gian. Thể loại này thường nhận ra điều gì đó sâu sắc về cuộc đời, về con người nên
cốt truyện thường rất nổi bật, dồn nén và đầy bất ngờ. Kết cấu thường gồm nhiều
tầng, nhiều tuyến, được dựng theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng.
Chi tiết: Vì có dung lượng ngắn nên tất cả những chi tiết trong truyện đều có
hàm lượng thông tin và có tính thảm mĩ lớn. Các chi tiết được tinh lọc và có yếu tố

tạo truyện cao. Trong truyện ngắn, chi tiết và lời văn là hai yêu tố quan trọng.
Nhân vật: Truyện ngắn rất ít nhân vật, nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành
một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách trọn vẹn, thường khi là hiện thân cho một
trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Tựu chung thì truyện ngắn là một thể loại xuất hiện muộn trong lịch sử văn học.
Truyện ngắn thường hướng đến phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
thông qua những chi tiết đơn giản. Tiếp nhận những lí luận về truyện ngắn sẽ tạo
cho ta tiền đề tiếp cận hai truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ một cách
thấu đáo hơn, đặc biệt là về đặc điểm nghệ thuật.


CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CHỮ NGƯỜI
TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN VÀ TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ CỦA
THẠCH LAM
2.1. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Chữ người tử tù
2.1.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Tác phẩm chứa đựng rất nhiều những tình tiết chính như Huấn Cao dỗ gông,
Huấn Cao nhận cơm rượu, Huấn Cao ân hận, Huấn Cao cho chữ,…Tuy nhiên
những sự việc này đều không có tính chi phối cao, tất cả những tình tiết này góp lại
làm thành một sự kiện lớn hơn và đó mới là “tình thế nảy ra truyện”. Sự kiện lớn
ấy chính là cuộc gặp gỡ đầy oái oăm giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Chúng ta
xem đó là cuộc gặp gỡ oái oăm bởi những lí do như thế nào?
Về không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ là ở nơi đề lao giữa viên quản
ngục và Huấn Cao trong những ngày cuối cùng trước khi Huấn Cao phải chịu án tử
hình do cầm đầu đám phản nghịch chống lại triều đình. Sự éo le trong thân phận
hai nhân vật: Về chính trị xã hội, hai con người này thuộc về hai giới tuyến khác
nhau, là kẻ thù của nhau nhưng trên phương diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của
nhau. Nếu Huấn Cao là hiện thân của cái đẹp cao cả thì viên quản ngục là tấm lòng
ngưỡng mộ cái đẹp cao cả đó. Chính trong hoàn cảnh đầy mâu thuẫn và xung đột
ấy, tính cách các nhân vật đã được bộc lộ rõ nét. Huấn Cao là tử tù, theo nghĩa đen;

còn viên quản ngục là kẻ bị tù chung thân, không hoàn toàn theo nghĩa bóng.
Trước đến giờ, bề ngoài Quản ngục vẫn là một viên quan của triều đình thối nát,
nhưng bên trong lại tôn thờ những giá trị cao quý tương phản với triều đình ấy
(thuộc về những người chống đối triều đình). Con người chức phận trói buộc cầm
tù con người khát vọng. Quản ngục vẫn sống theo lối "xanh vỏ đỏ lòng". Không
phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã chọn một lối so sánh rất đẹp để viết về viên
quản ngục :" Trong cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính
cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người của viên quan coi ngục này
là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn
xô bồ" [6, tr.110].
Thông qua tình huống truyện đặc sắc này, chủ đề của truyện cũng được tô đậm.
Đó là sự ngợi ca cái đẹp, cái thiên lương cao quý.
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật trong truyện ngắn Chữ người tử tù được Nguyễn Tuân xây dựng bằng
bút pháp lãng mạn, sự cường điệu, lí tưởng hóa và tập trung chủ yếu vào hai con
người là Huấn Cao và viên quản ngục.
Xuyên suốt tác phẩm ta thấy nhân vật Huấn Cao hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp của
một trang anh hùng đầy khí khách, đặc biệt là luôn hướng tâm mình về cái thiên
lương cao cả. Nguyễn Du khi khép lại Truyện Kiều đã nói những điều gan ruột
“chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Có lẽ Nguyễn Tuân cũng rất đồng ý với suy
ngẫm của cụ Tố Như và đã xây dựng tính cách ông Huấn Cao nghiêng về chữ
“tâm”. Trong khi có thể nói rằng Nguyên Tuân khá cực đoan trong việc miêu tả, ca
tụng hết lời những người có tài. Nói chính xác hơn là “cái tài” luôn là cảm hứng
chủ đạo trong sáng tác Nguyễn Tuân. Đọc Chữ người tử tù, cảm giác của độc giả là
rất kính mến, trân trọng Huấn Cao không chỉ ở “cái tài” mà còn ở “cái tâm”. Điều
này thể hiện rõ ở chỗ ông cho chữ viên quản ngục mặc dù “tính ông vốn khoảnh,


trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” [6, tr.112] cho bất kì người nào khác. Vậy có
nghĩa chữ tâm kia Nguyễn Tuân đã đặt lên trên hết, ông quý trọng cái tài biết yêu

cái đẹp của viên quản ngục và ông không hề vì vàng ngọc, vì những kẻ có quyền
thế mà cho chữ. Đặc biệt, cái tâm ấy còn thể hiện rõ ở trong chi tiết khi viên quản
ngục biệt đãi mình thì Huấn Cao nghi ngờ, nhưng sau khi nghe thầy thơ lại kể về
tâm sự và nguyện vọng xin chữ của viên quản ngục thì Huấn Cao xúc động “Ta
cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người
như thầy Quản đây mà lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ
mất một tấm lòng trong thiên hạ” [6, tr.113]. Như vậy một con người biết coi khinh
vàng ngọc nhưng lại sợ “một tấm lòng” rất sợ mình phụ tình người. Theo Huấn
Cao thì đó là tấm lòng của những con người biết giữ thiên lương, “là thanh âm
trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” [6, tr.110]. Nhà văn
đã không trực tiếp miêu tả nhiều mà để cho nhân vật hiện lên chủ yếu thông qua
những tiếng đồn, những câu chuyện của các nhân vật khác. Chính bút pháp lãng
mạn hóa nhân vật đã tạo nên những vòng hào quang rực rỡ bao quanh nhân vật
Huấn Cao, khiến cho vẻ đẹp của nhân vật này khoác lên mình vẻ huyền thoại
nhưng không vì vậy mà nhân vật mất đi vẻ đẹp bình dị vốn có.
Còn với nhân vật viên quản ngục, người sẽ trực tiếp cùng tạo dựng nên cảnh
cho chữ xưa nay chưa từng có không phải là một anh hùng cao đẹp như Huấn Cao
nhưng đồng thời cũng không mang dáng vóc, tính cách của một tên đao phủ. Viên
quản ngục là hình ảnh trung gian giữa cái đẹp và cái không đẹp. Dưới ngòi bút tài
hoa của một bậc thầy về ngôn ngữ như Nguyễn Tuân, hình ảnh trung gian ấy đã
hiện lên một cách rõ rệt, đậm nét. Thoạt đầu nhìn viên quản ngục có vẻ như là một
người cam chịu, yên phận và cũng chẳng có gì khác những kẻ cùng địa vị đương
thời: “Chuyện triều đình quốc gia chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời” [6,
tr.109]. Khuôn khổ phong kiến, phép nước đã khiến cho quản ngục quen với việc
nhận tù, giao tù, với“những mánh khóe hành hạ thường lệ” [6, tr.111]. Nhưng có ai
ngờ, bên trong con người đó vẫn luôn tồn tại một mầm mống tươi xanh của cái
đẹp. Cái mầm ấy bị chèn ép, đè bẹp nhưng vẫn khắc khoải sống như chờ đợi một
lúc nào đó được vươn lên. Và rồi cuối cùng cái mầm mống tốt đẹp ấy đã trỗi dậy
khi Huấn Cao tới. Viên quản ngục là một người có sở thích sở nguyện cao quý, đó
chính là thích chữ đẹp của Huấn Cao. Nếu như sở thích của những viên quan tầm

thường là vàng bạc hư danh, quyền quý an nhàn thì viên quản ngục trong tác phẩm
này thì lại hoàn toàn ngược lại. Ông có tầm nhìn xa trông rộng và tâm tưởng thì
hoàn toàn thoát khỏi những cám dỗ của vật chất cũng như những bóng tối của ngục
tù. Ông ao ước một ngày kia có một bức tranh chữ của Huấn Cao viết mà treo
trong nhà thì quả thật là nhất. Cái sở nguyện yêu chuộng những giá trị văn hóa
truyền thống ấy cho thấy được cái tâm hồn trong trẻo của ông. Không chỉ là một
người yêu chuộng cái đẹp và có sở nguyện cao quý mà viên quản ngục còn là một
người rất biết trân trọng những con người tài giỏi như Huấn Cao nữa. Khi có
“phiến trát” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) báo rằng tên tội phạm nguy hiểm của
triều đình – Huấn Cao sẽ được đưa đến đây trong vài ngày, sau đó mới mang ra xử
trảm thì viên quản ngục đã tỏ ra rất vui mừng khi gặp được người mà mình nể
phục. Nhưng đồng thời ông cũng thấy tiếc cho con người tài giỏi ấy mà lại phải
chuốc lấy cái chết. Được biết Huấn Cao có tài bẻ khóa vượt ngục nhưng viên quản


ngục không mấy quan tâm về điều đó, điều ông quan tâm là làm sao có thể tiếp cận
được con người anh hùng ấy để xin chữ mà thôi. Ông trân trọng Huấn Cao thiết đãi
Huấn Cao và những người bạn của Huấn Cao thịt rượu hàng ngày:“suốt nửa
tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem
rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù” [6, tr.111]. Khi Huấn Cao quát
mắng ông thì ông cảm thấy buồn nhưng ông không trách vì ông nghĩ rằng những
kẻ chuyên trọc trời khuấy nước chỉ quen ngồi trên đầu người ta thôi. Khi Huấn Cao
quyết định cho chữ viên quản ngục cảm thấy rất vui, ông như nhận ra nhiều điều,
nhận thấy cả cái cách chọn nghề sai của mình nữa. Trong lúc được Huấn Cao cho
chữ ông “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa
óng” [6, tr.113]. Đó là sự thể hiện thái độ kính trọng trước những lời dặn dò cuối
cùng của một người tử tù. Trong suốt chiều dài của truyện, viên quản ngục luôn tồn
tại với một ý nghĩa nhất định. Quản ngục không chỉ là một hình tượng độc đáo mà
còn là nhân vật hội đủ những đặc điểm chung nhất của Vang bóng một thời, một
người có thiên lương trong sáng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của

dân tộc mà quên đi cả sự an toàn của bản thân.
Qua những phân tích trên, một lần nữa ta phải trầm trồ khen ngợi tài năng của
Nguyễn Tuân. Ông không những xây dựng được một nhân vật chính chuẩn mực,
mang khí phách của một đấng anh hùng mà đến một nhân vật phụ như viên quản
ngục cũng để lại rất nhiều giá trị con người. Vẻ đẹp trong con người viên quản
ngục cũng sáng lấp lánh. Cánh cửa nhà tù không thể nào cướp đi cái thiên lương
trong sáng cùng sở nguyện cao quý của ông.
2.1.3. Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ
Trong tác phẩm, cảnh tượng cho chữ rất đặc biệt bởi ở đó có rất nhiều những sự
đối lập, tương phản.Trước hết là sự đối lập về không gian. Cảnh tượng xưa nay
chưa từng có ấy“đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” và tương phản với cảnh tối tăm, bẩn thỉu
ấy là ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, là màu “trắng tinh” của tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ.Vậy là cái đẹp được sáng tạo ngay trong môi trường tối
tăm, còn thiên lương thì xuất hiện ngay trong môi trường tội ác. Không chỉ thế, sự
đối lập còn được thấy rõ giữa người cho chữ và người nhận chữ. Một bên là người
tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh
căng trên mảnh ván” [6, tr.113], còn một bên là viên quản ngục, người có quyền uy
nhất trong môi trường nhà tù. Người thì viết những nét chữ tung hoành ngang dọc,
kẻ thì “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”
và tay thì “run run bưng chậu mực” [6, tr.113]. Ngay thời điểm này, cái đẹp, cái
cao cả và sự thánh thiện đang lên ngôi. Sau khi cho chữ, Huấn Cao khuyên viên
quản ngục một cách đĩnh đạc, điềm tĩnh, chân thành và quản ngục cũng cảm động,
tôn kính.
Qua những tương phản đối lập này, nhà văn đã làm nổi bật cái đẹp và cái thiên
lương. Cái đẹp không thể sống chung với cái xấu, cái ác. Cái đẹp tự nó mang trong
mình sức mạn cảm hóa kì diệu và cứu rỗi linh hồn của con người.
2.1.4. Nghệ thuật tạo không khí cổ kính



Nguyễn Tuân sử dụng nhiều từ Hán Việt rất đắt gợi sắc thái trang trọng, cổ kính
như: pháp trường, tử tù, tử hình,nhất sinh, bộ tứ bình, phiến trát, đốc bộ đường, đề
lao, án thư, ti niết, hứng sinh bình, tiểu nhân,…hoặc những câu văn mang dáng
dấp cổ xưa, trang trọng như: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, “biết đọc vỡ nghĩa
thánh hiền”, “nơi góc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi
vào một khuôn mặt nghĩ ngợi”,… . Nhịp văn thì thong thả, đĩnh đạc giống như
nhịp sống thời xưa: “ Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái
quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua
cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại một tiếng chó
sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên trời
lốm đốm tinh tú,…” [6, tr.109]. Cách tạo dựng cảnh cho chữ cũng góp phần tăng
thêm nét cổ kính, trang nghiêm bởi nó diễn ra trong lúc“chỉ còn vẳng có tiếng mõ
trên vọng canh” [6, tr.113].
Tạo dựng được không khí trang trọng như thế cũng góp phần vào công việc ca
ngợi vẻ đẹp của con người, bộc lộ sự cao quý. Bằng tài năng sử dụng ngôn ngữ cổ
điển độc đáo, Nguyễn Tuân không chỉ tạo dựng nên chân dung sống động về Huấn
Cao – một người nghệ sĩ mang khí phách anh hùng mà còn tạo dựng được không
khí cổ xưa của đất nước, góp phần lưu giữ vẻ đẹp vang bóng một thời cho muôn
đời và từ đó bộc lộ niềm trân trọng đối với giá trị văn hóa cổ truyền.
2.2. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Hai đứa trẻ
2.2.1. Truyện không có cốt truyện
Trên danh nghĩa là một tác phẩm tự sự, nghĩa là có hệ thống sự việc để tạo
nên cốt truyện nhưng truyện Thạch Lam ít sự việc đến mức gần như không có cốt
truyện. Truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng nằm trong phong cách đó,tiêu biểu cho loại
“truyện không có truyện”. Bởi lẽ, cốt truyện chỉ là cảnh một buổi chiều tối ở một
phố huyện nghèo nàn, tăm tối, với tiếng trống thu không, cảnh chợ chiều hiu hắt,
với một chõng hàng nước, một gánh hang phở, một gia đình bác Xẩm, một bà già
điên uống rượu cười sằng sặc và hai chị em Liên, An với một gian hàng nhỏ xíu ở
phố huyện nghèo, buổi tối hai chị em đóng cửa sớm và cố thức đến khuya chờ
chuyến tàu cuối cùng đi qua, để tìm thấy ở đó một chút niềm vui và mong ước.Chỉ

có vậy thôi truyện không có nhiều sự kiện, không có tình huống éo le, không có
xung đột gây cấn, không có các ngã rẽ đột ngột, bất ngờ trên dòng cốt truyện.
Nhiều người cho rằng truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam không có cốt
truyện, nhiều khi man mác như một bài thơ trữ tình. Thật đúng như vậy, ông không
gây ấn tượng bằng cốt truyện mà chủ yếu là phân tích tâm trạng, gợi mở cho người
đọc những suy nghĩ riêng.
2.2.2. Khai thác thế giới nội tâm nhân vật
Tác phẩm Hai đứa trẻ là sự tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác của nhân vật.
Đọc truyện, ta cảm thấy có cảm giác sâu kín trong tâm hồn, rất khó nói ra, vậy mà
tất cả đều được diễn tả rất nhẹ nhàng, tinh tế bởi tài năng của nhà văn. Thạch Lam
chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mong manh,
mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Câu chuyện không gây cấn, giàu kịch tính mà
từ những điều đơn giản trong cuộc sống thường ngày, nhà văn đi sâu miêu tả thế


giới nội tâm nhân vật với những biến thái tinh vi, mơ hồ.Thạch Lam chú trọng
miêu tả những rung động thoáng qua, những cảm giác thành thực của nhân vật.
Đó là cảm giác vui vẻ, háo hức, mong mỏi chờ chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội
chạy ngang qua của chị em Liên và cảm nhận về chuyến tàu qua. Âm thanh“tiếng
còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi” [6,tr.141],
với hình ảnh “làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa” [6, tr.141] đều được Liên
cảm nhận kỹ lưỡng, bằng nhiều giác quan. Khi tàu lại gần, hai chị em quan sát nó
rất tỉ mỉ, thấy được các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường và thấy cả
“những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng, kền lấp lánh, và các
cửa sáng kín” [6, tr.141]. Những cảm nhận tinh tế bằng cả hiện thực và hồi ức của
hai đứa trẻ hiện lên trong cảm nhận của người đọc là lúc An nhận ra hôm nay tàu
không đông , thưa vắng người và kém sáng hơn mọi khi. Khi tàu xa dần, Liên cùng
em nhìn theo cái chấm nhỏ khuất dần sau rặng tre. Nhiều lúc Liên lặng theo mơ
tưởng:“Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” [6,tr.142]. Nỗi
buồn có cứ ở trong Liên mỗi khi có tàu qua và càng nhớ về Hà Nội lại càng cảm

thấy cảnh sống ở phố huyện nghèo nàn, hiu hắt. Con tàu như một thế giới khác đi
ngang qua đã trở thành thói quen, ước vọng của hai đứa trẻ và những người dân
nghèo khổ ở phố huyện này “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì
tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ” [6,tr.140]. Tất cả phố huyện,
cảnh vật, hoạt động con người được hình dung thông qua cái nhìn của nhân vật
Liên, cuốn theo dòng tâm trạng, cảm xúc của chính nhân vật này và khiến tác
phẩm thêm phần khách quan, để những cảnh vật được tái hiện rõ ràng hơn. Chính
cái chân thực, mộc mạc ấy đã cho độc giả hiểu hơn về phố huyện nhỏ cũng như
cảm xúc của Liên về tình cảnh của những con người trong phố huyện. Chị em Liên
nhận ra được cái khốn cùng chật hẹp nơi đây nhưng liệu có thể làm gì, có thể thay
đổi được gì hay không. Bởi hình ảnh đại diện cho khát vọng, ước mơ là đoàn tàu
thì chỉ đi ngang qua và rồi vụt biến mất. Đoàn tàu đó chị em Liên và cả người dân
nơi phố nghèo đã thấy nhiều nhưng chưa lần nào nó đến mà dừng lại, chưa lần nào
nó rộng cửa đón lấy những ước mơ. Nếu nó dừng lại thì mọi chuyện trong tác
phẩm có lẽ sẽ khác nhưng như thế thì mới là văn xuôi lãng mạn, mới là “như nó
nên là” theo chủ kiến của Thạch Lam. Đoàn tàu vụt qua rồi cũng nhanh chóng vụt
tắt sau rặng tre, trả lại cho phố huyện một màn đêm dày đặc. Con người chốn ấy
sống, đi về đều trong bóng tối và thành những kiếp người tàn lụi trong đếm tối.
Điều đó khiến tâm trạng Liên cũng trở nên buồn,trống vắng và lan ra cả cảnh vật
xung quanh. Qua đó cho chúng ta thấy đời sống nội tâm của hai đứa trẻ đã góp
phần quan trọng tạo nên chất thơ trong truyện.
2.2.3. Nghệ thuật đối lập, tương phản giữa các vùng âm thanh, ánh sáng
Nói đến nghệ thuật tương phản thì đó là một bút pháp mang đậm dấu ấn của
chủ nghĩa lãng mạn. Bằng việc sử dụng bút pháp nghệ thuật đặc sắc này đã góp
phần tạo nên sự đối lập giữa các sự vật hiện tượng để từ đó làm nổi bật tư tưởng,
chủ đề của tác phẩm. Thông qua việc sử dụng nghệ thuật tương phản giữa các vùng
ánh sáng, âm thanh càng bộc lộ rõ hơn tâm trạng, cảm xúc của nhân vật.
Ánh sáng, bóng tối cũng như âm thanh trong tác phẩm không chỉ đơn giản là
khung cảnh, cảnh vật âm thanh trên phố huyện lúc này mà ngay cả trong những kí
ức, hồi tưởng của nhân vật Liên. Bắt đầu tác phẩm với một khung cảnh chiều tàn,



ánh sáng hiện lên với “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh
hồng như hòn than sắp tàn” [6, tr.95]. Cùng với đó là hình ảnh bóng tối bắt đàu
chiếm dần, bao trùm lên không gian phố huyện khi “Dãy tre làng trước mặt đen
lại”. Sự tương phẩn, đối lập giữa ánh sáng và bóng tối được nhà văn thể hiện một
cách đầy đủ và rõ nét. Ánh sáng lúc này chỉ hiện lên với những điều nhỏ nhoi, yếu
ớt và lay lắt trong cái không gian bóng tối rộng lớn bao trùm, nhấn chìm cả phố
huyện trong cái tối tăm, tĩnh mịch. “Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái
bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của
Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá
trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí” [6,tr.98] rồi đến cả
những tia sáng của những ngôi sao lấp lánh, những vệt sáng của đom đóm nhấp
nháy tạo nên một cảm giác mỏng manh, không rõ ràng. Thế nhưng trái lại, khung
cảnh hiện hữu trong mắt liên lúc này không còn gì ngoài “Tối hết cả, con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngơ vào làng lại sẫm đen hơn
nữa”, “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” [6,tr.97]. Tất cả
những hình ảnh này đều được tác giả thể hiện thông qua cái nhìn của chính nhân
vật, của chính chị em Liên những con người sinh sống và gắn bó với phố huyện
nghèo. Với tâm hồn, với cái nhìn của những đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên và đầ khát
vọng, mọi thứ đều thu dần, lấp đầy trong tâm trí và đôi mắt của Liên.
Trong cái thế giới ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời thăm thẳm bao la đầy
bí mật của phố huyện, ánh sáng lại quá yếu ớt, mà nhạt, nhỏ bé, leo lét. Đặc biệt là
hình ảnh ngọn đèn chị Tí, một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ, xuất hiện ảy lần trong tác phẩm, tạo nên sức ám ảnh và khơi gợi về cảnh đời,
những kiếp sống nhỏ bé, lay lắt trong đêm đen, trong bóng tối cuộc đời. Chính vì
thế, trong dòng cảm xúc của mình Liên chợt quay về những khoảnh khắc của quá
khứ về một “Hà Nội nhiều đèn quá!”, một Hà Nội rực sáng ngay cả lúc về đêm
nhưng chỉ là những kí ức “không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”.
“Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy

dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên
không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày
tàn”. Ngay chính Liên cũng không thể hiểu cảm xúc của mình lúc này, một nỗi ám
ảnh và đầy khơi gợi trong tâm hồn của Liên.
Âm thanh cũng xuất hiện những sự đối lập. Âm thanh nơi phố huyện không
được tác giả đề cập nhiều mà chỉ là những âm thanh xuất phát từ những hoạt động
buôn bán, mưu sinh bình thường của người dân nơi đây. Đó không phải là sự rộn
ràng, đông đúc mà chỉ là những cuộc trò chuyện, những “tiếng đàn bầu bần bật
trong yên lặng” của gia đình bác Xẩm, tiếng trống cầm canh khô khan nhanh
chóng chìm vào bóng tối,... Từ đó tạo nên một không gian trầm mặc, tĩnh lặng.
Chính vì thế, hằng ngày chị em Liên luôn cố thức khuya để đợi chuyến tàu cuối
cùng đi qua. Chuyến tàu mà tác giả xây dựng trong tác phẩm của mình được nhắc
đến “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”, một thế giói mà có lẽ chị em
Liên luôn mong muốn, khao khát có được. Tàu đến với “tiếng dồn dập, tiếng xe rít
mạnh vào ghi”, “Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới” trong không gian yên
tĩnh của phố huyện về đêm. Với những nỗi ám ảnh, buồn tẻ của phố huyện của một
ngày dài thì chuyến tàu với những âm thanh rộn rã, tất bật như mang đến một niềm


hy vọng, một luồng không khí mới mẻ của sự sống. Phố huyện càng tĩnh lặng bao
nhiêu thì chuyến tàu lại càm ồn ào, rộn ra bấy nhiêu. Điều đó càng để người đọc
thấu hiểu, cảm nhận về cuộc sống đơn độc và tẻ nhạt của người dân phố huyện
nghèo.
Âm thanh và ánh sáng ấy chính là những khát vọng, mong muốn được thoát
khỏi cảnh tù túng, cùng cực và bế tắc nơi phố huyện. chính việc tác giả sử dụng
nghệ thuật tương phản làm cho khát vọng đó trở nên rõ ràng, mãnh liệt hơn. Nhưng
“những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh của thế giới
quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi
không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
2.2.4. Ngôn ngữ giàu chất thơ, giọng văn nhẹ nhàng

Văn chương của Thạch Lam mang một dấu ấn rất riêng, “không trào lộng như
Vũ Trọng Phụng, không hài hước như Nguyễn Công Hoan, không triết lý như Nam
Cao. Thạch Lam nhẹ nhàng và tinh tế. Ngôn ngữ và giọng điệu trữ tình cũng vì thế
là đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Thạch Lam” [13] .
Là một thành viên của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam có ảnh hưởng của trường
phái lãng mạn. Ngôn ngữ được nhà văn sử dụng trong tác phẩm của mình không
phải là những câu từ quá trau chuốt, cầu kì mà gần gũi, chân thực, giản dị vô cùng:
“Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi
buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời” [6,
tr.95]. Bằng những ngôn từ nhẹ nhàng và trong sáng nhưng lại khiến cho câu văn
đầy ý vị, đậm chất trữ tình. Tiếng trống thu không tạo nên cảm giác buồn man mác
của buổi chiều hoàng hôn khiến tâm trạng của nhân vật cũng buồn, trống vắng.
Chất thơ sâu lắng của truyện còn ẩn trong những vẻ đẹp hồn nhiên của cuộc
sống đời thường bình dị mà trái tim mẫn cảm của nhà văn đã thâu nhận được. Đó
là tình cảm trong trẻo, ngây thơ của hai đứa trẻ, sự vượt thoát của tâm hồn nhân vật
khi hướng về một thế giới đẹp đẽ, xa xăm và bí ẩn nhưng đầy sức quyến rũ, như
vòm trời với hàng ngàn vì sao lấp lánh, như đoàn tàu chồ đầy ánh sáng xuyên qua
màn đêm tăm tối... Chất thơ xét về phương diện này cũng là biểu hiện đặc sắc
trong bút pháp nghệ thuật của Thạch Lam: sự khám phá hiện thực bằng phương
cách trữ tình, tạo một dư vị nên thơ cho tác phẩm.
Giọng văn là một yếu tố nghệ thuật quan trọng. Chính vì thế, mỗi nhà văn đều
xây dựng cho mình một chất văn , giọng văn riêng để thông qua đó chuyển tải
những thông điệp cảm xúc của mình. Đối với Thạch Lam, tác phẩm của ông quyến
rũ người đọc bởi giọng văn trầm lắng giàu cảm xúc trữ tình. Qua đó thể hiện một
cách đầy đủ và tinh tế những cung bậc cảm xúc của con người: “Chiều. Chiều rồi.
Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ngoài đồng ruộng theo gió
nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng
bên mấy quả thuốc sơn đen: đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần vào cái buồn của
buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao,

nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”[1, tr95]. Một
nỗi buồn man mác, mơ hồ của Liên trong cảnh chiều tàn nơi phố huyện. Đọc văn
Thạch Lam người ta không thể cất cao giọng bởi ngay từ dòng đầu tiên của tác


phẩm nhà văn đã dẫn dắt người đọc đi vào thế giới nghệ thuật riêng với lối kể
chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng, thủ thỉ tâm tình.
2.3. Nhận xét chung về đặc điểm nghệ thuật của hai truyện ngắn
Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ là những áng văn xuôi lãng mạn, đậm chất lãng
mạn. Chữ người tử tù viết bằng cảm hứng ngợi ca, chú trọng đến cái phi thường
của Huấn Cao và vẻ đẹp thánh thiện, thiên lương của viên quản ngục. Hai đứa trẻ
mang nỗi buồn đầy thẩm mĩ để người đọc cảm nhận một cách thấm thía, gợi cho ta
thấy một miền quê nghèo nhưng cũng quá đỗi thân thương gần gũi. Tất cả không
hề có ý định tố cáo hay lên án phê phán ai cả, chỉ là có thể trước giờ ta bỏ quên hay
hiểu sai về hai tác phẩm mà thôi.
Cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều sử dụng bút pháp đối lập tương phản để
chuyển tải nội dung tư tưởng và chủ đề tác phẩm, cụ thể là sự tương phản giữa
bóng tối và ánh sáng đều hiện hiện diện với nghĩa thực và nghĩa tinh thần được hai
tác giả đưa vào tác phầm của mình. Nhưng mỗi người lại có cách sử dụng bút pháp
riêng để diễn tả. Ở tác phẩm Chữ người tử tù Nguyễn Tuân, ánh sáng ở đây là
tượng trưng cho ánh sáng của chân lý, của tài hoa và nhân phẩm cao quý. Trong
khi đó, ánh sáng của Thạch Lam là ánh sáng của hi vọng, của ước mơ về một cuộc
sống tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Ở Chữ người tử tù, bóng tối theo nghĩa
thực là hình ảnh của đêm khuya, của căn buồng giam bao quanh bởi bốn bức
tường, theo nghĩa tinh thần là người không hợp cảnh khi Huấn Cao là người sắp bị
tử hình, viên quản ngục lại sống trong môi trường không đúng với tâm hồn và tính
cách của mình; còn ánh sáng theo nghĩa thực là ánh sáng đỏ ngòm của bó đuốc tẩm
dầu, theo nghĩa tinh thần là ánh sáng nghệ thuật từ chữ Huấn Cao và tâm hồn với
một tình yêu cái đẹp. Với “Hai đứa trẻ”, bóng tối theo nghĩa thực là khung cảnh
của phố huyện trong thời khắc chiều muộn cho đến đêm khuya, theo nghĩa tinh

thần là tâm trạng của con người u buồn nơi phố huyện yên tĩnh, tịch mịch; còn ánh
sáng theo nghĩa thực là ánh sáng của thiên nhiên và những con người phố huyện,
theo nghĩa tinh thần là ước mơ, là niềm hi vọng về một cuộc sống vui vẻ, náo nhiệt
chốn thị thành.Tuy nhiên, dù thế nào thì ta vẫn tìm được điểm chung trong hình
ảnh bóng tối ở hai tác phẩm: đều mang dáng vẻ tù túng, ngột ngạt, những con
người ấy đều mong thoát khỏi cuộc sống này để đến với nguồn sáng mới.
Với cốt truyện, nếu như Chữ người tử tù phát triển cốt truyện bằng cách tạo
không khí lôi cuốn căng thẳng và lên đến cao trào trong cảnh cho chữ góp phần tạo
nên dư vị mạnh mẽ cho người đọc thì ngược lại Hai đứa trẻ là truyện ngắn “phi cốt
truyện” thuộc loại truyện tâm tình, diễn biến câu chuyện trong tác phẩm như một
cuốn phim quay chậm, nhẹ nhàng và sâu lắng có sức lan tỏa cho người đọc. Ngôn
ngữ được sử dụng trong hai tác phẩm đều giàu chất tạo hình. Bằng tài năng ngôn
ngữ của mình, Nguyễn Tuân đã khiến cảnh cho chữ trở nên sinh động và đẹp đẽ
hơn bao giờ hết “Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của
một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa
bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt”. Còn trong tác phẩm Hai đứa
trẻ Thạch Lam cũng đã khéo léo dùng ngôn từ giàu hình ảnh để vẽ nên bức tranh
phố huyện “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi


lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng
được của các người bán hàng để lại….

KẾT LUẬN
Trong dòng chảy văn xuôi lãng mạn trước Cách mạng, chúng ta đã được chứng
kiến sự xuất hiện của nhiều nhà văn có tầm nhưng Nguyễn Tuân và cả Thạch Lam
vẫn để lại cho người đọc những thế hệ qua nhiều cảm xúc. Hình ảnh một Nguyễn
Tuân “chơi ngông”, sống tự do phóng túng, lúc nào cũng thèm khát những cảm
giác mới lạ, “suốt đời đi tìm cái đẹp” và giữ trong mình những tâm tư sâu kín về
lòng yêu nước sẽ luôn là hình ảnh đẹp trong lòng bạn đọc. Một Thạch Lam mang

trong mình phong cách sáng tác bình dị, mộc mạc, bản thân là người giàu tình cảm
sẽ được mọi người nhớ đến mãi với những trang văn như dòng suối ngọt lành mà
khi đọc, độc giả cứ thấy mình như đang được uống để tận hưởng hương vị ngọt
nồng của tình yêu thương.
Vì thế mà Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ của hai ông dù đã trải qua bao khắc
nghiệt, bao thử thách của thời gian nhưng vẫn sẽ được đón nhận trong vòng tay
trân trọng và cảm mến của nhiều người.


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Phan Cự Đề, Nxb Giáo dục, 2004.
2. Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, 2015.
3. Văn học Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức, Nxb Hà Nội, 2014.
4. Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (tập 1), Trần Đăng Suyền, Nxb Đại học
Sư Phạm, 2007.
5. Từ điển văn học, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Nxb Thế Giới.
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 11(Nâng cao, tập 1), Nxb Giáo dục, 2007.
7. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (Nâng cao, tập 1), Nxb Giáo dục, 2011.
8. Tuyển tập 150 bài văn hay Trung học phổ thông – khối lớp 11, Nhóm tác giả
Trần Thị Hoàng Cúc – Trần Đức Niềm – Lê Thị Nguyên – Nguyễn Thị Út – Thái
Quang Vinh, Nxb Giáo dục, 2002.
9. />10. />11.
/>12. />%E1%BB%8Dc/v%C4%83n-b%E1%BA%A3n-ch%E1%BB%AF-ng
%C6%B0%E1%BB%9Di-t%E1%BB%AD-t%C3%B9/538556779638011 .
13. />

TRƯỜNG ĐHSP ĐÀ NẴNG

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Đà Nẵng, ngày… tháng… năm 2017

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
- Học phần: Hệ thống thể loại và tác gia tiêu biểu văn học Việt Nam hiện đại
(1900 – 1945)
- Giảng viên giảng dạy: TS. Ngô Minh Hiền
- Nhóm thực hiện: Nhóm 5
- Nhóm trưởng phụ trách: SV Nguyễn Thị Thùy Trâm
Trong thời gian tiến hành đề tài, nhóm chúng tôi đã họp 4 lần, cụ thể thời gian
như sau:
1. Lúc 13h30’, ngày 9/10/2017, công việc chủ yếu là lên dàn bài và phân công
công việc.
2. Lúc 13h30’, ngày 12/10/2017, tiến hành giải đáp những thắc mắc, khó khăn
vướng phải của các thành viên trong nhóm khi làm bài.
3. Lúc 13h30’, ngày 17/10/2017, nhóm trưởng kiểm tra tiến độ làm việc của các
thành viên trong nhóm, trao đổi thêm tài liệu tham khảo và thông tin về hai tác
phẩm nghiên cứu.
4. Lúc 13h30’, ngày 19/10/2017, các công việc phân công đã được hoàn thành
xong, nhóm trưởng thực hiện công việc rà soát toàn bộ phần word, góp ý cho
những thành viên làm bài chưa đầy đủ để các bạn bổ sung ngay tại buổi họp.
Ngoài 4 lần họp chính thức, nhóm có lập một trang trò chuyện nhóm riêng để
các thành viên trao đổi và đóng góp ý kiến. Các buổi họp, mọi thành viên trong
nhóm đều tham gia đầy đủ.
Nhóm trưởng
Nguyễn Thị Thùy Trâm


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
HỌ VÀ TÊN


1. Nguyễn Thị Thùy Trâm
2. Nguyễn Thị Xuân Tuyền
3. Nguyễn Thị Trang
4. Nguyễn Thị Hà Trang
5. Nguyễn Thị Triều
6. Hồ Thị Trởi
7. Nguyễn Thị Thanh Vi
8. Phạm Thị Ngọc Vy
9. Nguyễn Thị Phương Yên

PHÂN CÔNG CÔNG
VIỆC
Lên dàn bài, làm mở đầu –
kết luận, mục 1.3., tổng hợp
bài và sửa bản Word.
Làm mục 1.1. và thuyết
trình.
Làm mục 2.1. và 2.3.1.
Làm mục 2.2. và Power
Point.
Làm 1.2. và 2.3.2.
Làm 2.1. và 1.3.2.1.
Làm mục 1.2. và 1.3.2.1.
Làm mục 2.2. và 1.3.2.2.
Làm mục 1.1. và 1.3.2.2.

PHẦN
TRĂM
CÔNG
VIỆC

(%)
100%
97%
95%
97%
95%
95%
93%
93%
93%

GHI
CHÚ



×