Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Năng lực và các năng lực ngữ văn cần phát triển ở học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.13 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Dạy học là một quá trình sáng tạo nghệ thuật, ở đó không chỉ truyền đạt
kiến thức mà còn phải khơi dậy được niềm đam mê cho học sinh. Ngày nay việc
dạy học đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ phía cộng đồng điều đó đồng
nghĩa với việc vai trò của người giáo viên cũng được nâng cao. Làm thế nào để
tạo cho học sinh một môi trường học tập bổ ích? Làm thế nào để các em bộc lộ
được khả năng của mình?… Đó là những câu hỏi mà mỗi người dạy học cần
phải suy nghĩ.
Đặc biệt trong môn Ngữ Văn việc dạy học cần phải được đầu tư kĩ lưỡng.
Một tiết dạy môn Ngữ Văn có thể tạo được niềm hứng khởi cho học sinh nếu
người dạy học tạo được một phong cách mới mẻ và một tiết dạy Ngữ Văn cũng
có thể là nỗi ám ảnh đối với học sinh nếu người dạy học chỉ có thể nhắc lại kiến
thức. Cả người dạy học và học sinh đều cần phải bồi dưỡng năng lực của mình.
Lấy người học làm trung tâm để truyền đạt kiến thức, người dạy học cần phải
hiểu được những năng lực nào cần thiết cho học sinh. Vậy đối với môn Ngữ
Văn, người học sinh cần phải có những năng lực nào? Trong bài thuyết trình
ngày hôm nay nhóm chúng tôi xin đưa ra một số năng lực cần thiết trong việc
học môn Ngữ Văn của học sinh.

1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1.1 Năng lực
1.1.1 Khái niệm năng lực
Theo từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê) chủ biên thì năng lực có thể hiểu
theo 2 nét nghĩa:
- “(1) năng lực là khả năng điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để
thực hiện một hoạt động nào đó
- (2) năng lực là một phẩm chất tâm sinh lí tạo cho con người có khả
năng để hoàn thành một hoạt động nào đó có chất lượng cao”. (Hoàng Phê, tr


660-661).
Theo tài liệu tâm lí học năng lực “là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của
cá nhân để phù hợp với yêu cầu của một hệ thống nhất định đảm bảo cho hoạt
động đó có hiệu quả” (Dẫn theo Tâm lí học đại cương, Đinh Thị Kim Thoa).
Ở góc độ giáo dục: “Năng lực là một hệ thống các cấu trúc tinh thần và
khả năng huy động các kiến thức, kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành và thái
độ, cảm xúc giá trị đạo đức động lực của một người để thực hiện thành công
các hành động trong bối cảnh cụ thể”.
Như vậy dù được nhìn nhận ở góc độ nào thì năng lực vẫn được nhìn
nhận ở hai khía cạnh là tiềm năng và hiện thực.
1.1.2 Phân loại
Năng lực được chia thành 2 nhóm:
Năng lực chung: Là những năng lực cần thiết để cá nhân có thể tham
gia hiệu quả trong nhiều hoạt động và bối cảnh xã hội khác nhau của đời sống
xã hội. Năng lực chung cần thiết cho hoạt động sống của con người và được
chia thành các nhóm sau:
2


- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân bao gồm:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực quản lí bản thân
- Năng lực xã hội bao gồm:
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
- Năng lực công cụ bao gồm:
+ Năng lực tính toán
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ

+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin
Năng lực chuyên biệt: Liên quan đến một số môn học cụ thể (ví dụ:
Năng lực cảm thụ văn học trong môn Ngữ Văn), hoặc một lĩnh vực hoạt động
có tính chuyên biệt (Ví dụ: Năng lực chơi một loại nhạc cụ) cần thiết ở một hoạt
động cụ thể, đối với một số người hoặc cần thiết ở những bối cảnh nhất định.
Các năng lực chuyên biệt không thể thay thế năng lực chung.
1.2 Định hướng phát triển năng lực hiện nay
Nghị quyết TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện nêu rõ “Tiếp tục
đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tích cực, chủ
động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật, đổi mới tri thức,
kĩ năng phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang đổi mới hình
3


thức tổ chức dạy học đa dạng, chú ý các hoat động xã hội ngoại khóa nghiên
cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đối với
dạy học”
Như vậy cần phải có sự chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực phẩm chất con người. Học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội.
Với sự đổi mới mang tính cấp thiết thì chương trình giáo dục truyền
thống được xem là chương trình giáo dục định hướng nội dung, định hướng đầu
vào, chú trọng việc truyền đạt kiến thức, trang bị cho người học hệ thống tri
thức khách quan với nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ những thiếu sót trong cách
giáo dục cũ việc đổi mới chương trình dạy theo định hướng phát triển năng lực
người học được chú trọng.
Về nội dung

- Học nội dung chuyên môn -> có năng lực chuyên môn. Có tri thức
chuyên môn để ứng dụng, vận dụng vào học tập và cuộc sống.
- Học phương pháp chiến lược->có năng lực phương pháp. Lập kế hoạch
học tập, làm việc có phương pháp học tập, thu thập thông tin đánh giá.
- Học giao tiếp xã hội -> có năng lực xã hôi. Hợp tác nhóm học cách ứng
xử, có tinh thần trách nhiệm, có khả năng giải quyết các mối quan hệ trong hợp
tác.
- Học tự trải nghiệm đánh giá-> có năng lực nhân cách. Tự đánh giá để
hình thành các giá trị chuẩn mực đạo đức.
Về chuẩn đầu ra
- Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng
lực tự học…
4


- Năng lực chuyên biệt.
Về năng lực
Giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức đọc,
viết, nói, nghe và năng lực giao tiếp đa phương thức thông qua nội dung những
tri thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri
thức căn bản của một người có văn hóa. Ở cấp trung học phổ thông, chương
trình còn trang bị thêm cho học sinh những tri thức theo định hướng nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu phân hóa, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có
chất lượng. Ngoài ra chương trình môn Ngữ văn còn góp phần giúp học sinh
phát triển các năng lực khác như năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy, đặc
biệt là năng lực lập luận, phản biện, năng lực tưởng tượng.
1.3 Mục đích dạy học theo định hướng phát triển năng lực
- Phương pháp dạy học truyền thống:
+ Chủ yếu thầy nói – trò nghe. Giáo viên dạy và học sinh là người được

dạy, giáo viên biết mọi thứ và học sinh không biết gì, giáo viên suy nghĩ và học
sinh buộc phải nghĩ theo cách nghĩ của giáo viên, giáo viên nói và học sinh lắng
nghe, giáo viên quyết định chọn lựa và học sinh phải làm. Nói chung giáo viên
là chủ còn học sinh là khách thể của quá trình dạy –học.
+ Giáo viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt kiến thức, hướng đến
mục tiêu làm cho học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức. Phương pháp này ít quan
tâm đến việc phát triển tư duy, huấn luyện kĩ năng và rèn luyện thái độ cho
người học dẫn đến tình trạng hầu hết học sinh đều thụ động.
+ Hậu quả của phương pháp cũ dẫn đến việc thụ động của người học
trong việc tiếp nhận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân tạo ra sự trì trệ
cho người học, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu khả năng thuyết trình,
5


lười tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa học. Học sinh chấp nhận tất
cả những gì giáo viên trình bày, sự trao đổi thông tin trong lớp hầu như chỉ
mang tính một chiều. Xét trong thời nay thì việc dạy theo cách truyền đạt nội
dung không còn phù hợp và lạc hậu.
- Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực là
chuyển từ phương pháp tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Để
đảm bảo được điều đó phải thực hiện việc chuyển từ phương pháp lối truyền thụ
một chiều sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức rèn luyện kĩ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường học tập nhóm đổi mới quan hệ giáo
viên học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng
lực xã hội.
+ Phát huy được tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình
thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi, chép,
thông tin…) trên cơ sở trau dồi các phẩm chất, linh hoạt độc lập sáng tạo của tư
duy.

+ Cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan
trọng thực chất trong cuộc sống. Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là yêu
cầu giáo viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy vai trò mới của
người giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò cho học sinh, mài sắc
thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến
thức và khả năng sáng tạo độc lập, sáng tạo của người học.
+ Luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc
sống nghề nghiệp đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành thực
tiễn. Phát huy các thế mạnh của phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại, các
thiết bị dạy học và những ứng dụng công nghệ thông tin chú trọng hoạt động
đánh giá cả giáo viên và tự đánh giá của học sinh.
6


+ Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách về chất lượng của nguồn nhân lực
phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi cơ sở đào tạo cần nhanh chóng
phải thoát khỏi mô hình giáo dục truyền thống chuyển sang mô hình giáo dục
theo định hướng tiếp cận năng lực người học, chuyển từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện phẩm chất người học. Nghĩa là thay đổi mục tiêu quan điểm
dạy học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến người học được học những gì sang người
học làm được cái gì qua việc học.

7


CHƯƠNG 2: NĂNG LỰC VÀ CÁC NĂNG LỰC NGỮ VĂN CẦN PHÁT
TRIỂN Ở HỌC SINH
Trong định hướng phát triển chương trình sau năm 2015, môn Ngữ Văn
được coi là môn học công cụ, theo đó năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực
thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ là năng lực mang tính đặc thù của môn

học. Ngoài ra nhóm các năng lực chung cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định các nội dung của môn học. Đối với môn Ngữ Văn, giao tiếp nếu dừng
lại ở việc đơn sơ như nghe, nói, đọc, viết thì là năng lực chung. Còn khi đi sâu
vào các mức độ khác cao hơn, sâu hơn, thậm chí đòi hỏi phải có năng khiếu
bẩm sinh trong các hình thức giao tiếp thì đó trở thành năng lực chuyên biệt.
Các năng lực mà môn Ngữ Văn hướng đến trong định hướng thay đổi hiện nay
được thể hiện như sau.
2.1 Năng lực giải quyết vấn đề
2.1.1 Khái niệm
Giải quyết vấn đề là một trong những kỹ năng rất cần thiết trong học tập
và làm việc bởi cuộc sống là một chuỗi những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải
quyết mà không vấn đề nào giống vấn đề nào và cũng không có một công thức
chung nào để giải quyết mọi vấn đề. Điều quan trọng là chúng ta phải tự trang
bị cho mình những hành trang cần thiết để khi vấn đề nảy sinh thì chúng ta có
thể vận dụng những kỹ năng sẵn có để giải quyết vấn đề đó một cách hiệu quả
nhất.
Trên thực tế, có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về năng lực
giải quyết vấn đề . Tuy nhiên, các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho rằng
giải quyết vấn đề là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong
việc nhận thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và
cuộc sống mà không có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để

8


giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư
duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
2.1.2 Năng lực giải quyết vấn đề của học sinh khi học môn Ngữ Văn
Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển
khai các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình

hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập
văn bản) của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội
dung dạy học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động
tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải
các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá
nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học,… quá trình học tập các nội dung trên
là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết
vấn đề trong môn Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học
cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học.
Ví dụ:
Trước khi học bài “Ôn dịch thuốc lá”, giáo viên yêu cầu các em học sinh
chuẩn bị để trình bày về vấn đề hút thuốc hiện nay. Trong quá trình chuẩn bị,
học sinh sẽ tự đưa ra phương án để trình bày cá nhân. Các em sẽ tự mình lựa
chọn sẽ trình bày theo cách nào: kể chuyện thuật lại, thuyết minh bằng tranh
ảnh, xem video, ... tùy vào khả năng của mỗi em. Sau đó, giáo viên có thể đặt
câu hỏi như: “vì sao phải cấm hút thuốc lá”, “làm thế nào để những người
xung quanh em nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này?”,.... Những câu hỏi này sẽ
để học sinh tự giải quyết mỗi học sinh sẽ có những năng lực giải quyết vấn đề
khác nhau tùy thuộc vào tư duy của mỗi em. (Có thể là do có hại cho sức khỏe
bản thân và người chung quanh; tốn tiền, tốn thời gian, ảnh hưởng đến công
việc; ô nhiễm môi trường (khói thuốc lá, xả tàn thuốc, bao thuốc); trong thuốc lá
có độc tố nicotin, miệng và hơi thở của người hút thuốc rất hôi, gây khó chịu
9


cho người khác, xã hội ngày càng văn minh thì càng không nên hút thuốc
lá, người lịch sự là người không hút thuốc lá, ....). Như vậy, tùy vào tư duy của
mỗi học sinh sẽ có những cách giải quyết vấn đề khác nhau và đưa ra những câu
trả lời theo cách của mình.
2.1.3 Mục đích phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh

trong dạy học Ngữ Văn
Việc quan tâm phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh trong
dạy học môn Ngữ Văn có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Điều này giúp học sinh: Nắm vững kiến thức, có khả năng liên hệ, liên
kết giữa các kiến thức bởi những vấn đề thực tiễn thường liên quan tới không
chỉ một kiến thức văn học. Có khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào
cuộc sống, giúp các em có ý thức trách nhiệm đối với gia đình, xã hội cũng như
ý thức nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc trong cuộc sống lao động sau
này của các em.
2.2 Năng lực sáng tạo
2.2.1 Khái niệm
Sáng tạo có rất nhiều định nghĩa:
- Là say mê nghiên cứu, tìm tòi để tạo ra những giá trị mới về vật chất,
tinh thần hoặc tìm ra cái mới, cách giải quyết mới là không bị gò bó phụ thuộc
vào những cái đã có.
- Là trong quá trình làm việc luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi và học hỏi để tìm
ra cái mới, cách giải quyết tốt nhất để đạt được hiệu quả tốt nhất.
- Là dám làm ra một cái gì đó mới mẻ, táo bạo, khác thường nhưng vẫn
rất hữu dụng.
10


Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong
việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và
cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả
để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ
óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá.
2.2.2 Năng lực sáng tạo của học sinh khi học môn Ngữ Văn
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà
môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định

các tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong
các văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ
những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc
của học sinh trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống.
Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm
hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức. Trong các giờ
đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là học sinh, với tư cách là người
đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách
cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có
cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề, …). Khi dạy học
Văn, người giáo viên cần chú ý đến những năng lực sáng tạo cần phát triển cho
học sinh sau đây:
- Biết trình bày những kiến thức đã học dưới dạng một bản đồ tư duy sáng
tạo
- Biết đặt ra những câu hỏi mới về nội dung kiến thức bài học
- Biết sáng tạo từ mới từ những yếu tố tiếng có sẵn
- Biết sáng tạo cụm từ từ những từ có sẵn
- Biết sáng tạo một đoạn văn
11


- Biết sáng tạo một tác phẩm văn chương hoàn chỉnh – một bài văn, một
bài thơ. “Bài văn” ở đây có thể là một câu chuyện, một bài thuyết trình, diễn
thuyết, một bài nghị luận v.v…
Đó là những năng lực cơ bản cần có của một học sinh khi học bộ môn Ngữ
văn.
Ngoài ra, trong thời điểm hiện tại, tôi muốn phát triển thêm cho học sinh
những năng lực sáng tạo cao hơn nữa, có sự tích hợp liên môn học. Chẳng hạn
như năng lực chuyển thể tác phẩm văn học thành kịch bản sân khấu hoặc sáng
tác kịch bản sân khấu dựa trên những kiến thức văn học đã có. Bên cạnh đó là

sáng tạo các bức tranh minh họa chi tiết trong tác phẩm văn học, hoặc sáng tác
bài hát, nhạc dựa trên kiến thức văn học.
Như vậy, khi học Ngữ văn, học sinh có rất nhiều thứ để sáng tạo và cần
sáng tạo.
Làm thế nào để học sinh sáng tạo trong môn Ngữ Văn:
Để phát huy năng lực sáng tạo của học sinh trong môn Ngữ văn, giáo viên
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Mỗi học sinh dù ở trình độ nào, lực học
nào cũng đều tiềm tàng năng lực sáng tạo, quan trọng là giáo viên cần biết cách
khơi gợi tiềm năng ấy.
- Với mỗi bài học, GV cần tìm hiểu kĩ nội dung kiến thức và dự kiến những
sản phẩm sáng tạo học sinh cần làm và có thể làm được.
- Hướng dẫn học sinh sáng tạo một cách cụ thể, dễ hiểu, có các tiêu chí
đánh giá về sự sáng tạo rõ ràng, mạch lạc để HS căn cứ vào đó mà thực hiện bài
làm của mình.
- Lồng ghép những hoạt động sáng tạo dưới nhiều hình thức: trò chơi, cuộc
thi, diễn kịch …
- GV nên thiết kế các hoạt động sáng tạo xuất phát từ những trải nghiệm của
học sinh và linh hoạt trong hình thức tổ chức cá nhân hoặc nhóm để có sản
phẩm sáng tạo tốt nhất của học sinh.

12


- Ra đề kiểm tra sáng tạo hoặc đưa tiêu chí sáng tạo vào thang điểm chấm
của mỗi bài kiểm tra. Ngoài GV đánh giá HS thì để HS tự đánh giá lẫn nhau.
Quá trình đánh giá bạn và tự đánh giá cũng là quá trình HS rút ra được những
kinh nghiệm sáng tạo cho mình và có thể nảy ra những ý tưởng sáng tạo mới.
- Đặc biệt, sau mỗi giờ học, hoạt động sáng tạo phải được tiếp nối, không bỏ
lửng. Và giáo viên là người theo dõi, giám sát và nghiệm thu những sản phẩm
sáng tạo đó của học sinh.

Ví Dụ:
Trong buổi sinh hoạt ngoại khóa, với chủ đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc” (hình thức tự do). Cô cho chia lớp thành các nhóm. Mỗi nhóm được lựa
chọn tùy theo trí sáng tạo của mình. Với đề tài này tùy thuộc vào khả năng, kiến
thức, tính năng động, sáng tạo, ...của mỗi học sinh sẽ có những hình thức tham
gia khác nhau. Có nhóm thì đóng dưới dạng tiểu phẩm, có nhóm hát, múa, thơ,
đối, vẽ.... cho phép sự sáng tạo, hư cấu nhưng phải đảm bảo được tinh thần của
văn bản, mang giá trị giáo dục tiến bộ, lành mạnh, thể hiện được bản sắc văn
hóa, để học sinh theo dõi, đồng thời mở rộng khả năng liên tưởng, tưởng tượng
cho học sinh, đồng thời thể hiện rõ được chủ đề của buổi ngoại khóa.
2.2.3 Mục đích của việc phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh
trong dạy học môn Ngữ Văn
Ngữ Văn là một môn học không chỉ giúp học sinh phát huy trí tưởng
tượng sáng tạo mà còn đòi hỏi học sinh phải sáng tạo để tìm hiểu và củng cố
kiến thức. Vì vậy, phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học Ngữ
Văn là một nhu cầu thiết yếu. Khi học sinh có được những năng lực này các em
sẽ có những cái nhìn mới mẻ và đa chiều về cuộc sống và con người. Những
con người, cuộc sống trong các tác phẩm văn học mà các em được học đâu đó
nó sẽ được tái hiện vào trong cuộc sống thường ngày của các em. Có được

13


những kiến thức như vậy, học sinh sẽ trở nên yêu đời và yêu cuộc sống hơn,
cảm thấy cuộc sống xung quanh chúng ta vô vàng màu sắc.
2.3 Năng lực hợp tác
2.3.1 Khái niệm
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để
hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm

việc cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng
nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ.
Đây là hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ
xã hội lẫn thành tích học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá
nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng
làm việc hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ
tương trợ lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực
rất cần thiết trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường,
một không gian rộng mở của quá trình hội nhập.
2.3.2 Năng lực hợp tác trong bộ môn Ngữ Văn
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng
chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp,
học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra,
đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh
cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân
cách của người học sinh trong bối cảnh mới.
14


Ví dụ:
GV đưa ra chủ đề thảo luận: Cảm nhận của em về 2 câu thơ sau trong bài
thơ: “Đây thôn Vĩ Dạ”
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
GV tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm, quy định thời gian
và phân công vị trí làm việc cho các nhóm.
* Làm việc theo nhóm:



Lập kế hoạch làm việc



Thỏa thuận quy tắc làm việc



Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập



Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.



Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.

Mỗi cá nhân trong mỗi nhóm tự làm việc của mình được giao, sau đó đưa
ra ý kiến của mình để nhóm cùng thảo luận. Cả nhóm cùng nghe, cùng trao đổi
ý kiến và bổ sung.
* Thảo luận, tổng kết trước lớp


Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm.



Các nhóm khác quan sát, lắng nghe, chất vấn, bình luận và bổ sung

ý kiến.
15




GV tổng kết và nhận xét, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề
tiếp theo.

2.3.3 Mục đích của việc phát triển năng lực hợp tác trong bộ môn
Ngữ Văn
Việc phát triển năng lực hợp tác trong môn học Ngữ Văn là hết sức cần
thiết và cần phát triển cho học sinh. Vì năng lực hợp tác sẽ giúp học sinh cùng
làm việc với nhau trong môi trường chung, sẽ giúp giảm áp lực học một mình.
Tự tin chia sẻ quan điểm cá nhân đồng thời biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của
những người khác. Các thành viên trong nhóm có thể chia sẻ phương pháp học
tập cho nhau để đạt được kết quả tốt nhất, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Sự phối
hợp của nhiều người sẽ giúp thực hiện được công việc lớn hơn và chất lượng
cao hơn. Đưa ra được nhiều giải pháp trong qua trình thực hiện.
Tạo môi trường tốt để người học phát triển những kỹ năng như kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng quản lý cá nhân, khả năng chịu trách nhiệm, kỹ năng chia sẻ
thông tin. Đó là những kỹ năng có ích cho công việc hiện tại và cho phát triển
sự nghiệp sau này. Xây dựng được quan hệ tốt với nhiều thành viên trong cộng
đồng học viên. Hợp tác là một phẩm chất quý báu của mỗi người, đặc biệt nó
càng quan trọng hơn trong xã hội hiện đại, giúp mỗi con người có thể hoà nhập
cộng đồng xã hội, để tiến bộ, thành đạt trong cuộc sống và nghề nghiệp tương
lai.
2.4 Năng lực tự quản bản thân
2.4.1 Khái niệm
Khái niệm tự quản lý bản thân là một kỹ năng sống cơ bản và bao trùm

nhất trong những nhóm kỹ năng sống của con người. Dưới góc độ xã hội học,
kỹ năng tự quản lý bản thân được nhìn nhận như khả năng cá nhân tự nhận biết
được vị thế của mình để biết mình là ai và từ đó xác định được vai trò của mình
16


cần phải làm gì, cư xử như thế nào để bảo vệ được vị thế mình đang có. Khi cá
nhân xác định được vị thế mình là học sinh THPT từ đó xác định vai trò mình
phải sống, học tập, làm việc, cư xử sao cho phù hợp để tồn tại và thích nghi tốt
với cuộc sống nội trú thì cá nhân đó có kỹ năng tự quản lý bản thân.
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát
cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết
lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh
hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhauthân mình.. Khả năng tự quản
bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy
nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng
chính bản
2.4.2 Phát triển năng lực tự quản bản thân trong bộ môn Ngữ Văn
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn
luyện và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, học
sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều
chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại
cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác,
phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định
được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống.
Ví dụ: Lập kế hoạch học tập
1. Vạch ra mục tiêu (ngắn hạn/dài hạn)
Mục tiêu là điều mà mình muốn đạt được.
- Bạn muốn đạt được điều gì (nghề nghiệp, tiền bạc, địa vị, kiến thức, …)
- Bạn mơ ước gì?

17


- Chia mục tiêu lớn này thành những mục tiêu nhỏ để dễ hoàn thành. Ví
dụ như trong học kỳ (4-5 tháng) này, mục tiêu của bạn là đạt loại giỏi; vậy trong
tuần này, ít nhất bạn phải hoàn thành 20 bài tập toán
- Phân chia mục tiêu theo đúng lô-gíc giúp bạn quản lí thời gian, khối
lượng công việc tốt hơn.
- Mục tiêu của bạn rõ ràng và khả thi. Bạn đã xác định mục tiêu rõ ràng
rồi thì bạn cần biết là mục tiêu đó có khả năng đạt được được hay không? Để
làm rõ, bạn hãy xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để biết "lượng sức
mình".
2. Xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân



Bạn thử trả lời những câu hỏi để xác định ưu khuyết điểm của bản thân
Để khách quan, bạn cũng nên tham khảo ý kiến, đánh giá của bạn bè,
người thân, các hoạt động xã hội, học tập để biết rõ bản thân hơn.

3. Lập kế hoạch thực hiện mục tiêu








Tầm quan trọng ưu tiên của công việc

Địa điểm thực hiện công việc
Chi phí cho nội dung công việc
Làm với ai?
Phương tiện/công cụ
Phương pháp thực hiện
Kiểm tra, điều chỉnh

2.4.3 Mục đích của việc phát triển năng lực tự quản bản thân trong bộ
môn Ngữ Văn
Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm
đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người
khác và tôn trọng chính bản thân. Không những thế khả năng tự quản bản thân
còn giúp người học sinh biết tự điều chỉnh hành vi của mình, biết tự kiềm chế
18


cảm xúc của bản thân trong hoạt động nhóm hay những tình huống bất ngờ xảy
ra.
2.5 Năng lực giao tiếp tiếng Việt
2.5.1 Khái niệm
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe,
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện
bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong
giao tiếp là ngôn ngữ.
Năng lực giao tiếp được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống
ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã
hội, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định
trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội.
Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng
ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp

những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
2.5.2 Phát triển năng lực giao tiếp Tiếng Việt đối với bộ môn Ngữ Văn
Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho học sinh năng
lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh
mang tính đặc thù của môn học:
- Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, học sinh được hiểu về
các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các
tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập những tình huống hội thoại,
các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động
giao tiếp.
Ví dụ: Trong biên bản về một vụ tai nạn giao thông ghi như sau:
“Hoàng hôn, vào lúc 17h30 ngày 25 - 10, tại km quốc lộ IA đã xảy ra một
vụ tai nạn giao thông”.
Như vậy, trong trường hợp này, yêu cầu các em cần phải phát hiện ra chỗ
sai và biết cách sửa lại cho phù hợp.
- Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học sinh
được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng
19


cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi
phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan
điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng
Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
Ví dụ: Trong câu ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Cái nôi đưa ta đi đến những chân trời mới và chào đón ta ngày trở về với
quê hương bản quán, đó chính là mái đình làng thân thuộc. Đình làng – một
mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam. Vậy khi nói “Tội tày đình”

thì học sinh phải hiểu được ý nghĩa của Đình làng trong tâm thức người Việt thì
mới có thể lý giải trọn vẹn ý. Như vậy, các em có thêm kiến thức không chỉ về
văn học mà còn về văn hóa.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở
4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ
năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. Theo PGS.TS.
Đỗ Việt Hùng viết trong “DẠY – HỌC TIẾNG VIỆT TRONG NHÀ TRƯỜNG
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC” thì “Mỗi năng lực bộ phận lại
được chia tiếp tục thành các năng lực cụ thể theo các mức độ từ đơn giản đến
phức tạp, trong đó có những năng lực có thể rèn luyện độc lập nhưng cũng có
những năng lực phải rèn luyện tổng hợp”. “.... Các năng lực bộ phận có thể
được chia thành các năng lực cụ thể như sau:
Năng lực nói:
• Năng lực phát âm: phát âm đúng các phụ âm, nguyên âm, âm tiết
tiếng Việt
• Năng lực đặt câu để nói được ý trọn vẹn, đúng ngữ điệu, thể hiện
đúng suy nghĩa cá nhân, bộc lộ tình cảm thích hợp
• Năng lực thực hiện các hành động ngôn ngữ một cách hiệu quả:
kể, trình bày, báo cáo, hỏi, yêu cầu, đề nghị, khuyên v.v.
• Năng lực độc thoại, đối thoại trong gia đình, lớp học, nhà trường
và trong cuộc sống v.v.
• Năng lực nói về một nội dung cho trước
• Năng lực thuyết phục: nói đúng chủ đề, lập luận logic, nhất quán
20




Năng lực phát biểu ý kiến, thuyết trình, thuyết minh, giải thích


trước đám đông
• Năng lực đối thoại, trao đổi, thoả thuận, đàm phán v.v.
Năng lực nghe
• Năng lực nghe – hiểu nghĩa tường minh: nghe người khác nói,
nghe người khác đọc, nghe đài, ti vi v.v.
• Năng lực nghe – hiểu nghĩa hàm ẩn trong hội thoại
• Năng lực đánh giá, nhận xét về lời nói của người khác
• Năng lực nghe – phản hồi ý kiến của người khác
• Năng lực nghe – ghi, nghe – tóm tắt ý chính v.v.
• Năng lực nghe – cảm nhận văn bản văn chương nghệ thuật.
Năng lực đọc
• Năng lực đọc đúng, đọc diễn cảm, đúng ngữ điệu các loại văn bản
khác nhau: đọc văn bản nhật dụng, văn bản hành chính, văn bản
văn chương nghệ thuật...
• Năng lực đánh giá về các câu, đoạn, văn bản đã đọc
• Năng lực đọc thầm
• Năng lực đọc – hiểu văn bản thuộc các lĩnh vực giao tiếp khác
nhau trong đời sống: văn bản hành chính, báo chí, xã luận, phổ
biến khoa học v.v.
• Năng lực đọc nhanh, đọc lướt để xác định nội dung chính của văn
bản
• Năng lực đọc – hiểu, cảm nhận, phân tích hình tượng v.v. văn bản
văn chương nghệ thuật
• Năng lực đọc để tóm tắt văn bản
• Năng lực đọc để thu thập thông tin phục vụ cho một chủ đề cho
trước, năng lực đọc để tổng thuật các ý kiến.
Năng lực viết
• Năng lực viết đúng: chuyển từ âm nghe được đến chữ.
• Năng lực viết đúng chính tả, sử dụng dấu câu thích hợp.
• Năng lực viết câu phản ánh đúng tư tưởng, suy nghĩ của cá nhân,

bộc lộ cảm xúc phù hợp.
• Năng lực viết thư, lời nhắn cá nhân
• Năng lực điền các mẫu tờ khai v.v.
• Năng lực trích dẫn ý kiến người khác trong bài viết

21




Năng lực viết đoạn văn, văn bản: miêu tả, kể chuyện, nghị luận,

phân tích, bình giảng v.v.
• Năng lực viết các loại văn bản: công văn, báo cáo, tờ trình v.v.
• Năng lực viết văn bản văn chương nghệ thuật.
2.5.3 Mối quan hệ giữa năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực giao
tiếp
Cần phân biệt năng lực sử dụng ngôn ngữ với năng lực giao tiếp như hai
nhóm năng lực khác nhau. Song, cũng nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ, hai
chiều giữa hai năng lực này. Một mặt, mặc dù ngôn ngữ – tiếng Việt chỉ là một
trong những phương tiện để thực hiện giao tiếp (hiểu hẹp là giao tiếp trong cộng
đồng người Việt) nhưng nó là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất. Hiệu quả
giao tiếp, trong đại bộ phận các lĩnh vực của đời sống, phụ thuộc vào năng lực
tiếng Việt – vì thế muốn hình thành và phát triển năng lực giao tiếp phải hình
thành và phát triển năng lực tiếng Việt (đương nhiên là kết hợp với một số năng
lực khác mới có năng lực giao tiếp tốt). Mặt khác, việc hình thành và phát triển
năng lực tiếng Việt không thể thực hiện được nếu đặt tiếng Việt ngoài tư cách là
phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, muốn hình thành và phát triển năng lực
tiếng Việt phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với năng lực giao tiếp.
2.6 Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ

2.6.1 Khái niệm
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc
nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc
sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó
biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện.
Năng lực cảm thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm
nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự
nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của
người khác, của các nhóm cảm xúc.
2.6.2 Năng lực cảm thụ thẩm mỹ đối với bộ môn Ngữ Văn

22


Ở môn Ngữ văn, năng lực thẩm mĩ gồm hai năng lực nối tiếp nhau trong
quá trình tiếp xúc với vẻ đẹp của tác phẩm văn chương và tiếng Việt: năng lực
khám phá cái đẹp và năng lực thưởng thức cái đẹp.
Năng lực khám phá cái đẹp lại gồm năng lực phát hiện cái đẹp và những
rung động thẩm mĩ. Còn năng lực thưởng thức cái đẹp chính là năng lực cảm
thụ cái đẹp và đánh giá cái đẹp ấy. Khi đó, người đọc sẽ sống cùng tác phẩm
văn chương và chuyển hóa cái đẹp của tác phẩm thành cái đẹp trong lòng mình,
thành tài sản tinh thần của mình. Đó là quá trình “đồng sáng tạo” cùng tác giả
để tạo ra những “ dị bản” trong lòng người đọc.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn
với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc
với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng
của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của
mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh;
trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc
được thể hiện ở những phương diện sau:

– Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những
hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,
cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.
– Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn
học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn, …. từ đó cảm nhận
được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện
qua tác phẩm.
– Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm
văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân;
biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống;
có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành
thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Cảm xúc thẩm mĩ là một phạm trù thuộc chủ thể thẩm mĩ. Biểu hiện của
cảm xúc thẩm mĩ rất đa dạng. Đó là sự rung động, khoái cảm trước cái đẹp,
buồn rầu trước cái xấu, ngưỡng mộ trước cái cao cả, ghê tởm trước cái thấp hèn,
23


cái ác, đau buồn trước cái bi. Cảm xúc thẩm mĩ là cái đầu tiên để nhà nghệ sĩ
sáng tạo và là cảm xúc có giá trị nhân văn nhất đối với loài người.
Và từ cái đẹp của nghệ thuật mà họ nhận ra cái đẹp trong cuộc sống của
con người: đây chính là sự đánh giá cái đẹp đúng đắn nhất, và sự đánh giá này
là điều không thể thiếu trong năng lực thẩm mĩ của người học để họ chiếm lĩnh
được cái đẹp ấy.
Như vậy, trong năng lực thẩm mĩ có cả yếu tố cảm xúc (rung động thẩm
mĩ) và yếu tố lí trí (nhận xét, đánh giá, …); hai yếu tố này thường gắn bó, hòa
quyện với nhau trong quá trình người học tiếp xúc với vẻ đẹp của văn chương
và tiếng Việt.
Phát triển năng lực thẩm mĩ ở đây chính là bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về cả
hai mặt cảm xúc và lí trí qua các khâu phát hiện cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, đánh

giá cái đẹp, … Điều này giáo viên có thể làm được thông qua việc học trên lớp
cũng như việc hướng dẫn học sinh tự đọc tác phẩm ở nhà.
Ví dụ: Cuốn tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot là một cuốn
sách để lại nhiều dư âm cho bạn đọc. Người đọc có thể vui cùng niềm vui của
nhân vật nhưng cũng có những giây phút lo lắng, bàng hoàng, đau xót cho số
phận của cậu bé Rê-mi, ông chủ gánh xiếc Vi-ta-li, những chú chó trong gánh
hay cảm phục trước tấm lòng cao cả của bà Mi-li-gơn, ghê tởm trước hành động
của ông chú nhà Giem Mi-li-gơn….
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, học sinh sẽ biết rung động
trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán
những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ
ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời
giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát
triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết,
nghe, nói.
Với đặc trưng môn học, thông qua các phân môn Văn học, Tiếng Việt,
Làm văn; môn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung nhằm hướng dẫn học sinh
đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản theo các kiểu loại khác nhau.
24


Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn giúp
học sinh từng bước hình thành và nâng cao năng lực học tập, cụ thể là năng lực
tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm
kĩ năng nói và viết). Năng lực đọc – hiểu văn bản của học sinh thể hiện ở khả
năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về tiếng Việt, về các loại hình văn bản và
kĩ năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông tin, cảm thụ cái đẹp và
các giá trị của tác phẩm văn chương nghệ thuật. Năng lực tạo lập văn bản của
học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức về các kiểu văn bản,
với ý thức và tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa cùng kĩ năng thực hành tạo

lập văn bản theo các phương thức biểu đạt khác nhau, theo hình thức trình bày
miệng hoặc viết.

KẾT LUẬN
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ những phương
pháp dạy học truyền thống mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu
quả và nhược điểm của chúng. Dạy học Ngữ Văn phải phát hiện được bản thân
học sinh có được những ưu, nhược điểm như thế nào về năng lực của bản thân
để từ đó giúp các em hình thành những năng lực tiêu biểu trong việc tiếp nhận
tri thức văn học. Hiện nay việc dạy học Ngữ Văn đang dần được nâng cao và có
nhiều phương pháp mới mẻ để cải thiện chất lượng học của học sinh. Tất cả
25


×