Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản từ thực tiễn thi hành án dân sự tại quận Hà Đông, thành phố Hà nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC SƠN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI KHI KÊ BIÊN
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quyền Con ngƣời

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Đình Hảo

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN NGỌC SƠN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..…. . 1


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI KHI KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ……..…………………………………………………………………… .... .6
1.1.Khái niệm, đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ............... 6
1.2.Nguyên tắc bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành
án dân sự.............................................................................................................. 9
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con người khi kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự .................................................................................. 17
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI KHI
KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................. 22
2.1. Bối cảnh thực tế và thực trạng pháp lý ảnh hưởng đến việc đảm quyền
con người trong quá trình kê biên tài sản tại cơ quan thi hành án dân sự quận
Hà Đông ……………………………………………………………….….. .... 22
2.2.Thực trạng bảo đảm quyền con người tại cơ quan thi hành án dân sự quận
Hà Đông trong quá trình kê biên tài sản ........................................................... 36
2.3. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền con người tại cơ quan thi
hành án dân sự quận Hà Đông trong quá trình kê biên tài sản ........................ 48
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI KHI KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ
THỰC TIỄN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................... 54
3.1. Các quan điểm về bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự……………………………………………………………… .. 54
3.2.Giải pháp về thể chế bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự.............................................................................................. 58
3.3.Giải pháp về thiết chế bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự.............................................................................................. 64
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 73



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CHV:

Chấp hành viên

- THADS:

Thi hành án dân sự

- TW:

Trung ương

- XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay, việc bảo vệ quyền con người luôn
được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Quyền con người và
quyền công dân luôn là những nội dung hàng đầu được Đảng và Nhà nước
quan tâm đưa vào các văn kiện, tài liệu quan trọng; những quy định về bảo vệ
quyền con người được ghi nhận trong những bản Hiến pháp qua các thời kì
lịch sử của đất nước và ngày càng được cụ thể hóa trong nhiều văn bản điều
chỉnh các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như hệ thống văn bản
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hành chính tư pháp. Trong đó cụ thể có lĩnh vực
thi hành án dân sự với nhiệm vụ thực hiện bản án, quyết định dân sự của Tòa

án. Việc thi hành án đạt hiệu quả, một mặt sẽ bảo đảm được việc thực hiện
quyền lực Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của mọi chủ thể trong xã hội đối
với phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước. Mặt khác, đây là
một biện pháp hữu hiệu để khôi phục lại các lợi ích của Nhà nước, tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đã bị xâm hại.
Trong giai đoạn hiện nay, thi hành án dân sự là một vấn đề bức xúc, bởi
trong quá trình thực thi pháp luật về thi hành án dân sự đã nảy sinh rất nhiều
vấn đề mới cần phải giải quyết, cũng như phải chịu áp lực từ nhiều phía,
nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho việc THADS gặp nhiều khó khăn.
Trong đó, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng cũng có không ít những trở ngại cả về mặt
pháp lý cũng như thực tiễn vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người của
các bên đương sự bao gồm bên phải thi hành án, bên được thi hành án.
Trong hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự bản
thân công dân là người bị quản lý và chịu sự phán quyết nên họ luôn luôn ở vị
thế bất lợi. Trong điều kiện đó, người công dân không có vũ khí, phương tiện
1


nào khác hữu hiệu hơn là sử dụng pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ lấy các
quyền và lợi ích của mình. Bởi vậy, sự ra đời của Luật Thi hành án dân sự
cùng các văn bản pháp luật liên quan đã góp phần quan trọng trong việc hình
thành thể chế bảo đảm quyền con người trong các hoạt động thi hành án dân
sự. Tuy nhiên, vấn đề đảm bảo quyền con người trong các hoạt động thi hành
án dân sự mà cụ thể là khi kê biên tài sản thi hành án dân sự vẫn còn nhiều bất
cập – đây là vấn đề còn rất mới trong nhận thức của công dân, cũng là vấn đề
khá phức tạp cần được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn nên học viên đã lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người
khi kê biên tài sản từ thực tiễn thi hành án dân sự tại quận Hà Đông,
thành phố Hà nội” làm đề tài luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quyền con

người đợt 2 khóa VI/2015.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kê biên tài sản thi hành án dân sự và các quy định pháp lý để
bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự đã được
nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau. Có
thể khái quát một số tài liệu như sau:
- Luật THADS năm 2008 và Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014;
- Đề tài nghiên cứu về “Các điều kiện bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ
nhiệm;
- Đề tài “Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp luật thực hiện quyền
con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Văn Mạnh;
- Sách “Quyền con người trong quản lý tư pháp” của Nxb Chính trị
quốc gia năm 2000…
Trong những tài liệu nêu trên đều có sự phân tích, nhận định về quyền
con người trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở nhiều góc độ khác nhau, tuy
2


nhiên thực trạng quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự chưa
có sự nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền
con người khi kê biên tài sản từ thực tiễn thi hành án dân sự tại quận Hà
Đông, thành phố Hà nội” để nghiên cứu từ góc độ quyền con người có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là khái quát và hệ thống hóa một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành
án dân sự, đề xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền con người khi kê biên

tài sản trong thi hành án dân sự giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo đảm con người khi kê biên
tài sản thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con người khi kê biên
tài sản từ thực tiễn thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, làm
rõ kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong bảo đảm quyền con người
khi kê biên tài sản thi hành án dân sự hiện nay.
- Trên cở sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề xuất một số quan điểm,
giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân
sự trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền
con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự như khái niệm, đặc điểm, điều
kiện bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự; cơ chế
bảo đảm và thực trạng bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án
dân sự từ thực tiễn thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
3


4.2.Về phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
Về không gian: Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu về bảo đảm quyền
con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự nhìn từ góc độ người
được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đối với một số quyền cụ thể từ thực tiễn thi hành án dân sự tại quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội thông qua các vấn đề cơ bản như sau:
- Cơ sở lý luận bảo đảm quyền con người,
- Thiết chế, thể chế bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản
trong lĩnh vực thi hành án dân sự và thực trạng hoạt động.

Về thời gian: Đề tài luận văn nghiên cứu về bảo đảm quyền con người
khi kê biên tài sản từ thực tiễn thi hành án dân sự quận Hà Đông, Hà Nội từ
năm 2014 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước Việt Nam về đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp mà trọng tâm
là hoạt động thi hành án dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cách tiếp cận đa ngành,
liên ngành luật, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước
Việt Nam về bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và đường lối quan điểm của Đảng,
Nhà nước, chú trọng các phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so
sánh để đánh giá đúng thực trạng về bảo đảm quyền con người khi kê biên tài
sản trong thi hành án dân sự.
4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.
- Đưa ra những kết quả và hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người
khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự hiện nay tại Thi hành án dân sự
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm
quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự giai đoạn hiện nay.

Luận văn đề cập đến vấn đề mang tính chất thời sự trong vấn đề bảo
đảm quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự nói chung và cụ
thể tại địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức về bảo đảm
quyền con người khi kê biên tài sản thi hành án dân sự nói chung đối với công
dân cũng như các cơ quan thực thi pháp luật, các cơ quan ban ngành có liên
quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
Đồng thời, học viên hy vọng luận văn sẽ là tài liệu có giá trị tham khảo
đối với công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các khối trường đào tạo chuyên
ngành luật và những người quan tâm đến đề tài này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các từ viết tắt, danh
mục tài liệu tham khảo, kết luận và khuyến nghị luận văn được sắp xếp theo
cấu trúc gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người khi kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền con người khi kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI KHI
KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Thuật ngữ kê biên tài sản đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp
luật của nước ta như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp

lệnh thi hành án dân sự 1993, 2004 và trong Luật Thi hành án dân sự về sau
này… do đó, có thể thấy rằng đây là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng
nhiều trong pháp luật tố tụng dân sự.
Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự là một trong 06 biện pháp
cưỡng chế thi hành án do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án cónghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành. Bản chất thi hành án dân sự là giai
đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các
giai đoạn tố tụng trước đó nhưng lại có tính độc lập tương đối thể hiện qua
việc hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Trưởng cơ quan thi
hành án dân sự mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có
trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Việc kê biên tài sản
chỉ áp dụng với đối tượng là với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy
định có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản cũng như đối với người phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên
không phải tất cả các tài sản của những người thuộc các đối tượng trên đều bị
kê biên.
Qua khái niệm nêu trên ta thấy rằng trong đời sống hàng ngày có những
khái niệm tương tự, gần giống với kê biên. Nhưng kê biên tài sản luôn gắn với
một chủ thể quyền nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, vì thế
không phải ai cũng có quyền kê biên tài sản của người khác, không phải hành
6


động nào tương tự cũng được gọi là kê biên. Trong quá trình tố tụng dân sự
nhiều chủ thể có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản nhưng việc áp dụng
ấy có tính chất và mục đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào kê biên
tài sản cũng được áp dụng với tính chất là một biện pháp cưỡng chế để thi
hành án. Điều 71 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 đã quy định 06
biện pháp cưỡng chế thi hành án, kê biên tài sản của người phải thi hành án kể

cả tài sản do người thứ ba giữ là một trong những biện pháp đó. Chính vì vậy,
việc kê biên tài sản của người phải thi hành án có những đặc điểm chung của
các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như sau:
-Thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực
hiện bằng sức mạnh của Nhà nước;
- Được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành
án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của
mình theo bản án, quyết định của Tòa án;
- Đối tượng của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản
hoặc hành vi của người phải thi hành án mà cụ thể đối tượng của biện pháp kê
biên là tài sản của người phải thi hành án;
-Người bị áp dụng thi hành án ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ
trong bản án, quyết định do tòa án tuyên họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng
chế thi hành án dân sự;
- Biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp dụng có hiệu
lực đối với người phải thi hành án dân sự và các cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan. Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải của người phải
thi hành án chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện dưới đây:
-Theo bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án có nghĩa
vụ trả tiền cho người được thi hành án;
-Người phải thi hành án có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho
người được thi hành án;
7


-Đã hết thời gian tự nguyện do chấp hành viên ấn định nhưng người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự
nguyện nhưng cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Ngoài ra, do tính đặc thù nên biện pháp kê biên tài sản còn có những
lưu ý cụ thể như sau:

-Tất cả tài sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi
hành án trừ những tài sản không được kê biên đã được quy định tại Điều 87
Luật Thi hành án dân sự 2014;
-Người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với người được thi hành
án về tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án; trong trường hợp không
thỏa thuận được thì người phải thi hành án có quyền đề nghị thứ tự kê biên tài
sản và Chấp hành viên phải chấp hành đề nghị đó nếu đề nghị đó không cản
trở việc thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không có đề nghị,
hiện nay có hai nguyên tắc thường được áp dụng để kê biên tài sản mặc dù
hiện tại chưa có quy định cụ thể về thứ tự kê biên tài sản. Thứ nhất, nếu người
phải thi hành án không đề nghị kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc sở
hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước; nếu người phải thi
hành án không có hoặc không đủ tài sản riêng để thi hành án thì mới kê biên
đến tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Thứ hai, trong
số những tài sản thuộc diện kê biên thì kê biên bất động sản trước, sau khi kê
biên hết các bất động sản mà vẫn không đủ để thi hành án thì kê biên các
động sản. Trong trường hợp có thể bị tịch thu toàn bộ tài sản thì khi kê biên
vẫn phải để lại một phần tư liệu sinh hoạt tối thiểu, cần thiết cho gia đình bị
can, bị cáo có điều kiện sinh sống như lương thực, thuốc, đồ đạc, dụng cụ sản
xuất, chăn, màn, quần áo…
-Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án
tương ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan. Đó là các khoản
phải thi hành theo quyết định của bản án, khoản lãi chậm thi hành án nếu có
8


và các chi phí dự tính mà theo quy định người phải thi hành án phải chịu như
chi phí kê biên, giám định chất lượng, định giá tài sản…Nếu người phải thi
hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện
mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng

kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó
nhưng chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền
hoặc bồi thường thiệt hại…
-Nếu tài sản của người phải thi hành án đã được cầm cố, thế chấp cho
người khác nhưng tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm bằng
việc cầm cố, thế chấp hoặc người phải thi hành án không còn tài sản nào khác
thì Chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản này để thực hiện thi hành án.
Đây là biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi
tẩu tán tài sản thông qua một giao dịch dân sự khác.
-Trường hợp có tranh chấp về tài sản kê biên thì Chấp hành viên vẫn
tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện ra
Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
-Đối với tài sản kê biên thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng đất hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật thì
khi kê biên, xử lý tài sản đã kê biên Chấp hành viên phải thông báo cho các
cơ quan liên quan biết.
1.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền con ngƣời khi kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự
Về khái niệm quyền con người, đây là phạm trù rộng có nhiều định
nghĩa khác nhau. Trước hết cần hiểu rõ thuật ngữ human rights (tiếng Anh) và
quyền con người theo tiếng thuần Việt hay nhân quyền theo tiếng Hán - Việt
đều có nghĩa tương đồng. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì nhân quyền chính
là quyền con người 7, tr.43. Theo tài liệu Hỏi Đáp về Nhân quyền của Liên
hợp quốc (United Nations: Human rights: Questions and Answers) thì có đến
9


gần 50 định nghĩa quyền con người được công bố. Theo định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ
quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm

chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental freedoms) của con người 8, tr.23. Theo từ điển giải thích thuật
ngữ pháp lý thông dụng: “ Quyền con người là các quyền tất yếu mà con
người được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng” 12, tr.338. Theo quan
niệm chung hiện nay: “Quyền con người là những giá trị, năng lực, nhu cầu
vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân
loại được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc
tế” 12, tr.26.
Ở Việt Nam, chưa có một văn bản pháp lý nào quy định về quyền con
người như một định nghĩa. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm quyền con
người được thể hiện trong những quy định cụ thể mà gần đây nhất Điều 14
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, theo Giáo trình Lý luận
và pháp luật về Quyền con người của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì
quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế.

10


Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định
nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo

những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn
bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những
quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn
giản vì họ là con người 17. Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn
phòng cao ủy Liên hợp quốc thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên
cứu: quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ
các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.Ở
Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người, trong
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa
quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế 7, tr.38.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ
yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con
người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như
nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành
quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì
quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ
những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Quyền con người có những tính chất cơ bản sau đây:

11


- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con người được
áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc, giới

tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở trong những chế
độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được
công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.
- Tính đặc thù:
Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức độ
thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng
người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang
sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang
những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
ở khu vực đó. Ví dụ: ở các nước Tây Âu, do điều kiện kinh tế phát triển nên
con người ở đây được hưởng chế độ an sinh xã hội tốt hơn nơi khác. Ngược
lại, ở một số nước châu Á, do kinh tế còn chậm phát triển nên mức độ thụ
hưởng an sinh xã hội thấp hơn.
- Tính không thể bị tước bỏ:
Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người không
thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào,
kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc biệt
mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện
hành vi phạm tội.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:
Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc
thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có
một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác. Ví dụ: nếu một
người không được làm việc, không có một mức sống đảm bảo cho sự sống
12


còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý đến các quyền dân chủ như Quyền
bầu cử hoặc Quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.

Bảo đảm quyền con người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính
trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của
công dân được thực hiện các quyền tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được
pháp luật ghi nhận. Các quyền con người rất đa dạng, được bảo đảm bằng cả
hệ thống pháp luật, từ Hiến pháp đến các luật cụ thể đối với từng lĩnh vực đời
sống như Luật dân sự, Luật lao động, Luật Hôn nhân và gia đình…Mỗi lĩnh
vực pháp luật bảo đảm quyền con người bằng những phương thức, cách thức
chuyên biệt. Trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, thi hành án dân sự là lĩnh vực
hoạt động được chú trọng và là một nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Ngay từ
những năm đầu thành lập nước, khi chính quyền cách mạng đang trong thời
kỳ “trứng nước”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
xoá bỏ nền tư pháp của chế độ thực dân phong kiến để xây dựng nền tư pháp
nước nhà, trong đó có công tác thi hành án dân sự. Mặc dù, những năm đầu
sau Cách mạng tháng Tám 1945, tổ chức thi hành án dân sự tồn tại dưới hai
hình thức là Thừa phát lại và Ban Tư pháp, nhưng cũng đã là một lĩnh vực
công tác của ngành Tư pháp, việc thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà
nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế. Nhà nước không chỉ tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự
và tố tụng, mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo
vệ lợi ích hợp pháp bằng sự cưỡng chế của Nhà nước 17. Sau khi Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “cải cách bộ máy tư
pháp và pháp luật tố tụng” thì trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
có sự thay đổi từ chỗ việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp
xã thực hiện được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của
Biện lý. Nhà nước thực thi trách nhiệm thi hành án thông qua việc Toà án chủ
động thi hành án dân sự mà không cần chờ đến yêu cầu của các đương sự.
13


Qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, thi hành án dân sự tạo ra những tiền

đề quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển ngành Tư pháp,
xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Với một đặc thù riêng, hoạt động thi hành án dân sự là công đoạn cuối
cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành (hiện thực
hóa), góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế XHCN,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, bảo vệ
công lý 11, tr.287. Hoạt động này luôn ẩn chứa sự động chạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật xác định là người được thi
hành án và người phải thi hành án dân sự mà nếu không thực sự chú ý thì
quyền con người, quyền công dân sẽ bị xâm hại từ phía cơ quan thi hành án
dân sự và các chủ thể có thẩm quyền khác. Bên cạnh đó, hoạt động thi hành
án dân sự cũng có vai trò trả lại sự ổn định cho các quan hệ xã hội, tạo niềm
tin của xã hội vào Nhà nước pháp quyền, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, xã hội. Phán quyết của Tòa án sẽ mãi chỉ là câu chữ và không
khi nào khả thi nếu không được tổ chức thi hành hiệu quả, đặc biệt là lĩnh vực
thi hành án dân sự với các quan hệ giao dịch nảy sinh từ thực tế cuộc sống
làm phát sinh tranh chấp, xâm hại lợi ích của các cơ quan, tổ chức xã hội và
công dân. Chính vì lẽ đó, nhu cầu được bảo đảm quyền con người trong hoạt
động thi hành án dân sự như một lẽ tự nhiên đòi hỏi phải có những điều kiện
nhất định để đáp ứng.
Bảo đảm quyền con người trong thi hành án dân sự chính là bảo đảm
quyền con người trong hoạt động hành chính-tư pháp. Đồng nghĩa với việc
bảo đảm các điều kiện, yếu tố cần và đủ cho quá trình thực hiện quyền con
người trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm làm cho hoạt động này có hiệu
lực, hiệu quả cao nhất. Các yếu tố cơ bản như: có hệ thống các quy phạm

14



pháp luật về lĩnh vực này đầy đủ, không ngừng được hoàn thiện; có hệ thống
các cơ quan thi hành án dân sự hoàn chỉnh, có chất lượng, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; có cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động,
có cơ chế giám sát chặt chẽ, thông suốt, có sự tham gia đông đảo của các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và công dân…
Tại Điều 5 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã khẳng định bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
rất cụ thể “Trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo
vệ”. Đây thực sự là một ghi nhận mang tính tuyên ngôn nhân quyền của một
đạo luật của Việt Nam, nó được ban hành vào thời điểm cả thế giới đang
trong giai đoạn suy thoái kinh tế và đầy sự biến động xã hội cũng như biến
đổi khí hậu mà quyền con người không hề bị giảm sút mà ngày càng được tôn
vinh và bảo vệ bằng mọi biện pháp, trong các lĩnh vực nhất là trong lĩnh vực
thi hành án dân sự nói riêng 16,tr.288.
Trong quá trình kê biên tài sản đảm bảo thi hành án dân sự, quyền con
người được bảo đảm một cách cụ thể chi tiết bởi các quy định được ghi nhận
trong Luật Thi hành án dân sự cũng như các văn bản hướng dẫn liên quan. Có
thể nhận thấy các nhóm quyền được thể hiện tương đối đầy đủ bám sát nội
dung Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR), ví dụ như quyền có cơ chế
bảo vệ quyền cụ thể là “Mọi người đều có quyền được các Tòa án quốc gia có
thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi
vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được Hiến pháp hay pháp luật quy
định”. Trong phạm vi lĩnh vực kê biên tài sản trong THADS về cơ bản có thể
liệt kê một số quyền như sau:
-Quyền được thông tin (nhận các thông báo, quyết định , giấy báo, giấy
triệu tập và các văn bản liên quan đến việc kê biên tài sản...);
-Quyền được thỏa thuận;
15



-Quyền ưu tiên mua tài sản chung;
-Quyền được thanh toán tiền thi hành án theo thứ tự do pháp luật quy
định;
-Quyền khiếu nại, tố cáo....
Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền con người được thực thi một cách hiệu
quả trong lĩnh vực này Điều 20, 21 Luật Thi hành án dân sự cũng quy định
nghĩa vụ,trách nhiệm của Chấp hành viên là người nhân danh Nhà nước phải
nghiêm chỉnh chấp hành “Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp
hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và uy tín”. Để đảm bảo quyền con người trong hoạt động thi hành án
dân sự nói chung và kê biên tài sản thi hành án nói riêng, yếu tố quyết định
vẫn là con người trong việc tổ chức thực hiện. Trong quá trình thực hiện các
hoạt động thi hành án dân sự nhằm đảm bảo tính khả thi, nghiêm minh của
pháp luật cũng như bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cần
phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của Luật Thi hành án dân sự vì đó là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng thi hành Luật, thể
hiện quan điểm, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nguyên tắc bảo đảm quyền con người nằm trong hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của Luật Thi hành án dân sự được áp dụng đối với tất cả các hoạt
động thi hành án dân sự kể cả hoạt động kê biên tài sản thi hành án, có thể
khái quát cụ thể như sau:
-Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan;
-Nguyên tắc nhân đạo;
-Nguyên tắc kết hợp sự tự nguyện với cưỡng chế;
-Nguyên tắc phối hợp hành động giữa cơ quan THADS với các cấp
chính quyền, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong THADS;
16



- Nguyên tắc thi hành án kịp thời, tuân thủ pháp luật…
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời khi kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự
Để thực hiện hiệu quả việc bảo đảm thực hiện quyền con người khi kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự không thể không kể tới các điều kiện
bảo đảm thực hiện quyền. Về cơ bản, có thể nhận thấy đó là các điều kiện về
chính trị - pháp lý, điều kiện kinh tế, điều kiện văn hóa, xã hội.
Chính trị luôn đóng vai trò tiên quyết trong vấn đề bảo đảm quyền con
người, thể hiện ở chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, coi trọng và đề cao quyền
con người. Từ nhận thức chung có thể thấy điều kiện chính trị để đảm bảo
thực hiện quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự thể
hiện qua những định hướng của Đảng và Nhà nước, công tác điều hành chỉ
đạo bộ máy tổ chức trong hệ thống cơ quan THADS. Cả một hệ thống bộ máy
cơ quan THADS từ TW tới địa phương là đại diện cho chủ thể quyền trong
công tác THADS, đồng thời có sự hỗ trợ về mặt thể chế của hệ thống văn bản
pháp luật, các quy định hướng dẫn liên quan đến mọi hoạt động trong lĩnh vực
THADS nói chung và hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng đều nhằm
hướng tới mục tiêu cơ bản là đảm bảo thực thi pháp luật, bảo đảm quyền con
người một cách toàn diện. Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế, hoạt động lập
pháp đã đạt được một số thành tựu nhất định, một số văn bản có giá trị pháp
lý cao đã ra đời nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về bảo đảm
quyền con người trong hệ thống pháp luật thi hành án dân sự để phù hợp với
điều kiện thực tiễn: Bộ Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước... Và gần đây nhất là Luật THADS sửa đổi bổ sung năm
2014 chính là phương tiện thúc đẩy và mang lại giá trị hiện thực cho các điều
kiện khác, bảo đảm việc thực thi quyền con người trong lĩnh vực THADS. Cụ
thể việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án chính là việc cơ


17


quan thi hành án dân sự tước đi quyền tự định đoạt đối với tài sản của chủ sở
hữu, sử dụng tài sản.
Do đó, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích của người được thi
hành án theo phán quyết của Tòa án thì cũng phải đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người phải thi hành án đối với tài sản bị kê biên, xử lý nên trình
tự thủ tục kê biên, xử lý tài sản được quy định hết sức chặt chẽ qua nhiều giai
đoạn từ tiến hành kê biên, định giá tài sản, bán đấu giá tài sản và giao tài sản
cho người mua trúng đấu giá. Trong các giai đoạn trên, người phải thi hành
án, người được thi hành án đều có quyền tham gia và có quyền thỏa thuận với
nhau. Mặc dù, các quy định pháp luật về kê biên, xử lý tài sản được Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 quy định khá cụ thể, chặt chẽ nhưng trong quá trình
áp dụng đã nảy sinh ra một số bất cập làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự và gây khó khăn lúng túng cho cơ quan thi hành
án khi áp dụng trên thực tế. Để khắc phục các khó khăn, bất cập trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành
án dân sự năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung 16 điều, khoản liên quan đến cưỡng
chế trong đó có các quy định về kê biên, xử lý tài sản như: xác định, phân
chia, xử lý tài sản chung để thi hành án (Điều 74); giải quyết tranh chấp, yêu
cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án (Điều 75);định giá
tài sản kê biên (Điều 99); hủy kết quả bán đấu giá (Điều 102); xử lý tài sản
không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành (Điều 104); bảo vệ
quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án
(Điều 103); đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản (Điều 106).
Đồng thời, để thi hành có hiệu quả các quy định của Luật Thi hành án
dân sự, ngày 18/7/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân
sự (Nghị định này hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự và

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự và thay thế
18


Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ và Nghị định số
125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ về trình tự, thủ tục thi hành
án dân sự, bên cạnh việc hướng dẫn các nội dung về tổ chức cán bộ của ngành
Thi hành án dân sự), trong đó cũng đã hướng dẫn cụ thể một số vấn đề về kê
biên tài sản để thi hành án, lựa chọn tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá và xử
lý kết quả bán đấu giá để thi hành án…
Tất cả những điều kiện chính trị - pháp lý đó đều nhằm mục tiêu xây
dựng một nhà nước pháp quyền ngày càng hoàn thiện, một nỗ lực cho một
thiết chế đảm bảo quyền con người làm trung tâm trong đó có bảo đảm thực
hiện quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự . Hệ thống
các cơ quan nhà nước đảm bảo thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, đảm
bảo các quyền và lợi ích của các bên đương sự trong tất cả các hoạt động thi
hành án.
Nhắc tới điều kiện kinh tế dễ dàng nhận thấy một nền kinh tế ổn định
là nền tảng cho mục tiêu bảo đảm tốt nhất nhân quyền. Sau hơn 20 năm đổi
mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi căn bản, chế độ bao cấp xóa
bỏ hoàn toàn, tiến hành cổ phần hóa tất cả các doanh nghiệp của nhà nước,
phát triển nền kinh tế thị trường cạnh tranh với tất cả các khu vực kinh tế trên
thế giới. Nền kinh tế Việt Nam phát huy được tất cả các nguồn lực trong nước
và tận dụng các nguồn lực bên ngoài để tạo ra sự phát triển cân bằng, ổn định.
Công cuộc đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa giúp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt ở mức cao liên tục
trên 7%/năm trong nhiều năm qua. Các thành phần kinh tế khuyến khích phát
triển, đặc biệt đóng góp cho vấn đề tạo việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 5 lần, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
quốc gia giảm 4 lần (từ 60% xuống còn 13,8%). Năm 2006, Việt Nam gia

nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hoàn thành quá trình hội nhập
kinh tế, quốc tế, tạo đà phát triển cho nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.
19


Từ điều kiện thuận lợi về kinh tế, với tốc độ tăng trưởng an toàn là một điều
kiện tương đối tốt để đảm bảo thực thi quyền con người trong đó có việc bảo
đảm thực hiện quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự .
Bên cạnh những điều kiện chính trị-pháp lý, điều kiện kinh tế thì điều
kiện văn hóa, xã hội cũng được coi là một trong những điều kiện cơ bản bảo
đảm thực hiện quyền con người khi kê biên tài sản trong thi hành án dân sự .
Sự khác biệt về điều kiện xã hội, trình độ văn hóa cũng là nguyên nhân ảnh
hưởng đến sự chênh lệch về tỷ lệ lượng án cần thi hành hàng năm. Do đặc thù
giữa nông thôn, thành thị có sự khác biệt, chúng ta còn nhận thấy một sự khác
biệt khá rõ nét về nhận thức pháp luật của công dân tại các vùng, trình độ học
vấn hoàn toàn khác biệt nhau, môi trường nông thôn và thành thị cũng hoàn
toàn khác nhau, nguồn thu nhập chính ở nông thôn là nông nghiệp khác với
thành thị nên dẫn tới tính chất phức tạp của án từ, vô hình chung tạo ra sự khó
khăn đối với công tác kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. Thêm vào đó,
phải kể tới sự nhận thức chưa toàn diện về quyền của chủ thể nghĩa vụ có
trách nhiệm thực hiện quyền (duties-bearers, đội ngũ thực thi pháp luật, hay
cán bộ công chức trong ngành THADS nói chung)’ và nhận thức về quyền
của chính chủ thể thụ hưởng quyền (right-holders, tức là những người bị kê
biên tài sản trong khi THADS…)

20


Kết luận chƣơng 1
Quyền con người là một trong những vấn đề được cả nhân loại quan

tâm và nghiên cứu. Ở Việt Nam, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986), công cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận
thức về vấn đề bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 2013 được ban hành,
sửa đổi, bổ sung một số điều đã khẳng định cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
bảo đảm quyền con người trong mọi lĩnh vực với sự giám sát chặt chẽ của lực
lượng đông đảo quần chúng nhân dân. Trong bối cảnh đó, lĩnh vực thi hành
án dân sự được điều chỉnh bởi Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm
2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan đã chú trọng bảo đảm quyền con
người một cách tối đa song song với việc bảo đảm tính khả thi và nghiêm
minh của pháp luật thông qua nội dung các quy định chặt chẽ dựa trên những
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thi hành án dân sự. Luật THADS đã quy
định tương đối đầy đủ các quyền lợi của người được thi hành án, người phải
thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong mọi hoạt động thi
hành án, đặc biệt chi tiết với việc kê biên tài sản trong THADS cũng như vấn
đề tổ chức hoạt động, trách nhiệm nghĩa vụ của Chấp hành viên, cán bộ cơ
quan THADS - đó chính là sự bảo đảm các yếu tố, điều kiện cần và đủ cho
quá trình thực hiện quyền con người trong lĩnh vực THADS đạt hiệu quả cao
nhất. Thêm vào đó các điều kiện bảo đảm quyền con người được thực thi như
các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng góp phần thúc đẩy sự
bảo đảm quyền con người trong hoạt động THADS nói chung và cụ thể đối
với việc kê biên tài sản trong THADS. Tuy vậy, để nhìn nhận một cách khách
quan và chính xác nhất về việc bảo đảm quyền con người khi kê biên tài sản
trong THADS cần xem xét tổng thể dựa trên thực trạng triển khai công tác
này, từ đó có sự điều chỉnh phù hợp kịp thời để đảm bảo tính hiệu quả, khả thi
hơn nữa.

21



×