ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TĂNG ĐÌNH NĂM
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự trong quân đội
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Hµ néi – 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TĂNG ĐÌNH NĂM
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự trong quân đội
Mã số : 60.38.30
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Tụng
Hµ néi - 2006
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Tăng Đình Năm
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
1
Mục lục
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
7
Mở đầu
8
Chƣơng 1: khái quát về thi hành án dân sự và cƣỡng
chế thi hành án dân sự
16
1.1
Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thi hành án dân sự
16
1.1.1
Khái niệm thi hành án dân sự
16
1.1.2
Đặc điểm thi hành án dân sự
22
1.1.2.1
Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính
- tư pháp
22
1.1.2.2
Đối tượng đặc trưng của thi hành án dân sự là các nghĩa vụ
tài sản
25
1.1.3
Các nguyên tắc cơ bản của thi hành án dân sự.
26
1.1.3.1
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết đinh của
toà án
26
1.1.3.2
Nguyên tắc thi hành án dân sự là một phương diện hoạt
động nhà nước
27
1.1.3.3
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, tập thể và tôn
trọng quyền định đoạt của công dân
28
1.1.3.4
Nguyên tắc kết hợp giữa sự tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án
29
3
1.1.4
ý nghĩa của thi hành án dân sự
30
1.2
Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của cưỡng
chế thi hành án dân sự
31
1.2.1
Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
31
1.2.2
Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
34
1.2.2.1
Cưỡng chế thi hành án là quyền năng đặc biệt của nhà nước
34
1.2.2.2
Cưỡng chế là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân
sự
34
1.2.2.3
Đối tượng cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc
hành vi của người phải thi hành án
35
1.2.2.4
Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế
35
1.2.2.5
Hiệu lực của quyết định cưỡng chế
36
1.3
Các nguyên tắc và ý nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự
36
1.3.1
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng
theo các nguyên tắc sau
36
1.3.2
ý nghĩa cũa cưỡng chế thi hành án dân sự
38
1.4
Khát quát về sự hình thành và phát triển của chế định cưỡng
chế thi hành án dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử
38
4
1.4.1
Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
39
1.4.2
Giai đoạn từ 1945 đến 1989
40
l.4.3
Từ 1989 đến nay
44
1.5
Tìm hiểu chế định cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp
luật một số nước
44
1.5.1
Luật thi hành án của Cộng hòa Pháp
45
1.5.2
Thi hành án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự CHLB Đức
48
1.5.3
Luật thi hành án dân sự Nhật bản
50
Chƣơng 2: các biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự
theo pháp luật Việt Nam hiện hành
53
2.1
Khái quát các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật Việt
Nam hiện hành
53
2.2
Những quy định cơ bản về các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự trong Pháp lệnh thi hành án dân sự hiện
hành
54
2.2.1
2.2.1 Khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá
của người phải thi hành án (Điều 39)
54
2.2.2
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án (Điều 40)
59
2.2.3
Kê biên tài sản (Điều 41)
60
2.2.4
Cưỡng chế giao đồ vật (Điều 53)
61
2.2.5
Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ giao nhà, chuyên quyền sử
63
5
dụng đất (Điều 54)
2.3
Một số nguyên nhân dẫn đến áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự
67
2.3.1
Do ý thức pháp luật của công dân chưa cao
67
2.3.2
Về khía cạnh tâm lý
68
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các biện pháp cƣỡng chế
thi hành án dân sự trong quân đội và một số kiến nghị
70
3.1
Một số vấn đề chung về thi hành án trong quân đội
70
3.1.1
Khái niệm, nhiệm vụ thi hành án trong quân đội
70
3.1.2
Đặc điểm công tác thi hành án trong quân đội
71
3.1.3
Khái quát hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong
quân đội
73
3.1.3.1
Đặc điểm (đặc thù) tình hình thi hành án dân sự trong quân
đội.
73
3.1.3.2
Khái quát hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong
quân đội
75
3.2
Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự trong quân đội
78
3.2.1
Một số nét về tình hình thi hành án dân sự ba năm
2003, 2004 và 2005
78
3.2.2
Những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong quân đội.
79
6
3.3
Kiến nghị một số giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự
83
Kết luận
88
Phụ lục 1
90
Phụ lục 2
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ Luật dân sự
BLTTDS
Bộ Luật tố tụng dân sự
Nxb
Nhà xuất bản
PLTHADS
Pháp lệnh thi hành án dân sự
PLTHADS 2004
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004
THADS
Thi hành án dân sự
TAQSKV
Toà án quân sự khu vực
TAND
Toà án nhân dân
TAQSQK
Toà án quân sự quân khu
THADS
Thi hành án dân sự
TTLT
Thông tư liên tịch
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
VKSQSQK
Viện kiểm sát quân sự quân khu
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Theo đánh giá của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
về Chiến lước Cải cách tư pháp đến năm 2020 thì: “trong những năm qua, thực
hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới", công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ
chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan
tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng
hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải
quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn
nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ
phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ còn sa sút về phẩm chất, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam
giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn
thiếu thốn, lạc hậu.
Cùng với những mặt còn hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang
đứng trước nhiều thách thức. Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất
và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp
dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài
có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân
9
và xã hội với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thực
sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh
có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”.
Chính vì vậy, để mọi phán quyết của Toà án nhân danh nhà nước được
thực hiện trên thực tế (trong trường hợp các đương sự tự nguyện thi hành) không
có cách nào khác ngoài việc cơ quan nhà nước phải tổ chức thi hành án Điều 136
Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Các bản án và quyết định của Toà án nhân
dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và
đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Thi hành án là hoạt động đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án
nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân. Hoạt động thi hành án hiệu quả thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật
và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đảng và nhà nước ta đã quan tâm
đặc biệt đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có các cơ
quan thi hành án dân sự. Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật
tương đối hoàn chỉnh, trong đó có pháp luật về thi hành án. Các quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự nói chung và các biện pháp cưỡng chế thi hành án là cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý cũng như tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thi hành án, Chấp hành viên.
Sự nghiệp đổi mới đang đặt ra cho đất nước ta một yêu cầu cấp bách là phải
đẩy mạnh hoạt động tư pháp. Thi hành án là một trong những nội dung của hoạt
động tư pháp. Do những điều kiện lịch sử nhất định, công tác thi hành án chưa
được quản lý tập trung thống nhất, có sự phân tán, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Đứng trước tình hình đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành
10
án dân sự là một việc làm rất cần thiết. Điều này đã được thể hiện trong Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 3 khoá VIII: “Kiện toàn các
tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành án đầy đủ nhanh chóng các bản án, quyết
định của Toà án, của tổ chức trọng tài ”; Đồng thời, theo định hướng của Nghị
quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020 là thống nhất việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án
về một đầu mối - chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất, để thực hiện
việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp.
Ngày 14 tháng 01 năm 2004, Nhà nước ban hành Pháp lệnh thi hành án dân
sự (PLTHADS), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004 và hàng loạt các văn
bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ liên quan đến thi hành án dân sự như: Nghị
định của Chính phủ số 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê biên, đấu giá
quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án; Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày
30/9/2004 quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi
hành án dân sự; Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài
sản; Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 về cơ quan quản lý thi hành án
dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ công chức làm công tác thi hành án
dân sự. Đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng để cơ quan thi hành án dân sự
thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm lợi ích của nhà nước, cơ quan, tổ
chức, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, nhằm bảo đảm
việc tăng cường pháp chế XHCN trong công tác thi hành án, tôn trọng quyền định
đoạt của đương sự và tạo khả năng cao nhất cho các bên lựa chọn phương thức
thực hiện quyền, nghĩa vụ kể cả trong trường hợp phải cưỡng chế. Tuy vậy, việc
ban hàn PLTHADS và các văn bản pháp luật có liên quan mới cũng chỉ là bước
đầu trong quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án. Hiện nay, nhà nước đang cho
xúc tiến xây dựng Bộ luật thi hành án.
Đặc thù của công tác thi hành án dân sự trong quân đội chủ yếu là tổ chức
thi hành án phần tài sản trong các bản án, quyết định hình sự của các Toà án quân
11
sự, đa số người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù tại các trại cải tạo,
không có tài sản để thi hành án hoặc người phải thi hành án có thu nhập thấp cơ
quan thi hành án phải để cho họ thi hành dần, mặt khác số lượng Chấp hành viên
ít, quản lý địa bàn hoạt động rất rộng cho nên kết quả thi hành án dân sự trong Bộ
Quốc phòng qua hơn 13 năm thu được không lớn nhưng đó là cả một quá trình
phấn đấu liên tục của toàn thể đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ thi hành án, là sự
đóng góp không nhỏ công sức của toàn thể cán bộ, nhân viên ngành trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ. Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của
Thủ trưởng Bộ Quốc Phòng, Tư lệnh Quân khu, Quân chủng Hải Quân, sự quản
lý, hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ của Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng cho nên đội
ngũ Chấp hành viên, cán bộ ngành thi hành án đã nhận thức được đầy đủ ý nghĩa,
mục đích, tầm quan trọng, cũng như trách nhiệm của mình đối với công tác thi
hành án dân sự. Nhìn chung đội ngũ cán bộ thật sự yêu ngành, yêu nghề, tâm
huyết với công việc được giao, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, biết vận dụng
linh hoạt các biện pháp theo luật định để tổ chức thi hành vụ việc cụ thể đạt hiệu
quả cao nhất.
Vì vậy, để nâng cao nhận thức và góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật
thi hành án dân sự, việc nghiên cứu đề tài: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự trong quân đội" mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn
là một đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án nói
chung và thi hành án dân sự trong quân đội nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu:
Thi hành án là một vấn đề quan trọng, không thể thiếu của một nhà nước
pháp quyền. Chính vì vậy, đã được một số nhà luật học, cơ quan, tổ chức quan
tâm nghiên cứu. Trong đó, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu và bảo vệ cấp nhà nước
năm 2005 đề tài: " Luận cứ khoa học và thực tiễn việc đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án của Việt Nam trong giai đoạn mới ; mã số: MSDT. 2000 - 58 -
12
198"; Một số học viên cao học cũng đã nghiên cứu đề tài Luận văn tốt nghiệp
Thạc sỹ luật học này như:
- Nguyễn Công Long Đại học luật Hà Nội: "Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện".
- Lê Anh Tuấn Đại học luật Hà Nội: "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự
Việt Nam"
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau
về thi hành án và các biện pháp cưỡng chế thi hành án, song chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về vấn đề này trong quân đội.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thi hành án dân sự nói chung và thi hành án dân sự trong quân đội
nói riêng nhằm giữ nghiêm kỷ luật quân đội, kỷ cương phép nước và bảo vệ pháp
chế XHCN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Để đạt được mục đích, tác giả luận văn đặt ra và thực hiện những nhiệm vụ
như sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc của thi hành án dân sự.
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của cưỡng chế thi
hành án dân sự.
- Khái quát về sự hình thành và phát triển của chế định cưỡng chế thi hành
án dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
13
- Tìm hiểu chế định cưỡng chế thi hành án dân sự của pháp luật một số
nước.
- Phân tích một số nội dung quy định của pháp luật hiện hành về các biện
pháp pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân
đội và một số kiến nghị.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trong quân đội.
3.4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Nghiên cứu một cách tổng quát có hệ thống chế định cưỡng chế thi hành
án dân sự hiện hành. Trong đó đi sâu vào nội dung áp dụng chế định cưỡng chế thi
hành án dân sự trong quân đội và thông qua việc nghiên cứu này để kiến nghị
những giải pháp nhằm tăng cường công tác thi hành án dân sự trong quân đội.
- Việc tổng kết, đánh giá quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở khảo sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự trong quân đội trong thời gian 3 năm (2003, 2004 và 2005).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nhĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, các phương pháp hệ thống, phân
tích, tổng hợp, lịch sử, logíc, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội học pháp luật,
điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn… đã được sử dụng để hoàn thành các nhiệm
vụ mà tác giả luận văn đặt ra.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn :
Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý
Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có
14
hệ thống về áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án trong quân đội. có thể
xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn :
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung các biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự nói chung và áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong
quân đội nói riêng.
- Phân tích đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự trong quân đội; phân tích làm rõ nguyên nhân của những thực
trạng đó.
- Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện cơ cấu, tổ chức
cũng như những quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự khi áp dụng trong quân đội.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn :
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thông về các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối
với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án. Đông thời, hoàn thiện một bước
cơ cấu tổ chức thi hành án trong quân đội. Thông qua kết quả nghiên cứu và các
kiến nghị, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về
thi hành án dân sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về cưỡng chế thi hành án
có tính nhạy cảm và phức tạp như hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy và cho cán bộ thi hành án chấp hành viên đang công tác trong ngành thi
hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn :
15
Luận văn bao gồm: phần mở đầu; 3 chương; kết luận; phần phụ lục; và danh
mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của luận văn được bố cục như sau:
- Mở đầu
- Chương 1: khái quát về thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân
sự.
- Chương 2: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam hiện hành.
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
trong quân đội và một số kiến nghị
- Kết luận
- Phụ lục
- Danh mục tài liệu tham khảo.
16
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ CƢỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thi hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự
Việc xét xử vụ án hình sự, dân sự tại Tòa án là giai đoạn quan trọng nhất
của tố tụng hình sự, dân sự, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một
nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp. Tuy nhiên, việc Toà án nhân
danh nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng là bản án, quyết định, nhưng đó
không phải là sản phẩm riêng của cơ quan xét xử, mà là thành quả của cả quá trình
tố tụng, đó là sự kết tinh của quá trình lao động, sáng tạo, mang tính khoa học cao,
công phu, chính xác, của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có liên quan.
Mặc dù vậy, mọi phán quyết của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà không được
tổ chức thi hành thì hiệu lực của bản án, quyết định đó không được thực thi trên tế.
Chính vì vậy, thi hành án là một vấn đề luôn gắn liền với xét xử, hoạt động xét xử
sẽ không có ý nghĩa khi chúng ta không chú trọng đến công tác thi hành án và
không tổ chức thi hành.
17
Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945) đến nay, quá
trình hoàn thiện bộ máy nhà nước trong đó có hệ thống tư pháp và vấn đề bảo đảm
tính hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án luôn được nhà nước ta đề cao. Với
tư tưởng nhất quán: “một bản án khi đã tuyên mà không được thi hành chu đáo,
không những không làm tăng uy tín của Toà án mà còn làm giảm đi là khác,
Thông tư số 24/BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp”. Với tầm quan
trọng của thi hành án như vậy nên ngay sau khi giành được chính quyền về tay
nhân dân, cùng với việc thiết lập bộ máy nhà nước kiểu mới, nhiệm vụ thi hành án
được Đảng, nhà nước ta đặt lên hàng đầu. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ban hành Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 quy định về việc ấn định thể
thức thi hành án. Những năm sau đó, trong hoàn cảnh gian lao, khó khăn của cuộc
kháng chiến kiến quốc, công tác thi hành án vẫn được chú trọng, hoàn thiện không
những ngày càng cụ thể về trình tự, thủ tục mà ngay cả bộ máy, con người làm
trong công tác này cũng được cũng cố và tăng cường. Để nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án, nhằm thống nhất việc thi hành án hình, án hộ và bảo đảm sự phối
kết hợp giữa hai cơ quan: tư pháp và hành chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 quy định về các cơ quan có nhiệm vụ chấp
hành, các cơ quan có bổn phận giúp sức thi hành án và các cách thức thi hành án
đối với án hình. Thông tư này còn quy định về nguyên tắc, thể thức chấp hành,
trách nhiệm của cơ quan, cá nhân giúp việc và cách thức thi hành, các biện pháp
cưỡng bức nhằm bảo đảm thi hành đối với án hộ. Tại Sắc lệnh số 85-SL ngày
22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ Cộng hoà về cải cách bộ máy tư
pháp và tố tụng, thẩm quyền về việc chấp hành án cũng như biện pháp bảo đảm
thi hành án đã được quy định cụ thể.
Khi Hiến pháp 1980, 1992 được ban hành, vấn đề bảo đảm tính hiệu lực
của bản án, quyết định của toà án đã được ghi nhận và trở thành một nguyên tắc
Hiến định, Điều 137 Hiến pháp 1980, Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định rõ: các
18
bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Trên cơ sở đó, pháp luật về thi hành án cũng ngày càng được hoàn thiện,
đánh dấu bằng các mốc son quan trọng là việc ban hành Bộ Luật tố tụng hình sự
năm 1986; Pháp lệnh thi hành án dân sự năm l989; Pháp lệnh thi hành án phạt tù
năm 1993; Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 2004 .
Hoạt đồng thi hành án ở nước ta hiện nay có thể nói đang ở trong tình trạng
rất phân tán cả về mặt tổ chức thực hiện và về quản lý nhà nước. Trách nhiệm
quản lý được phân công, phân cấp cho nhiều cơ quan khác nhau: công tác thi
hành án phạt tù do Bộ Công an quản lý và tổ chức thi hành, tuy nhiên việc ra
quyết định thi hành các hình phạt, việc xét miễn, giảm thi hành hình phạt, việc
xoá án lại thuộc thẩm quyền của Toà án. Công tác thi hành dân sự thì do Bộ Tư
pháp quản lý và tổ chức thi hành. Trong khi đó, hình phạt cải tạo không giam giữ,
quản chế hoặc trường hợp cho người bị kết án hưởng án treo thì lại không được
giao cho cơ quan nào quản lý cụ thể và thống nhất. Sự phân tán này làm cho quá
trình tổ chức thi hành án của các cơ quan chức năng thiếu đồng bộ, không có sự
phối kết hợp, đây là một trong các nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của công
tác thi hành án.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, có thể chia hoạt động thi
hành án ở nước ta thành hai mảng lớn đó là thi hành án hình sự và thi hành án dân
sự.
Thi hành án dân sự là một loại thi hành án, nên cũng có thể hiểu thi hành
án dân sự là thủ tục tố tụng tư pháp để thi hành các bản án, quyết định về dân sự
của Toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.
19
Hiện nay, có hai loại quan điểm khác nhau về khái niệm “dân sự” trong thi
hành án và có cách hiểu khác nhau về khái niệm thi hành án dân sự.
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự chỉ là việc thi hành
các bản án, quyết định của Toà án về giải quyết vụ án dân sự theo trình tự do pháp
luật tố tụng dân sự quy định. Quan điểm này căn cứ trên cơ sở quan niệm về “Dân
sự” theo nghĩa hẹp, đó là Điều 1 của Bộ Luật dân sự năm 1995, theo đó, quan hệ
dân sự bao gồm quan hệ nhân thân và tài sản trong các giao lưu dân sự. Vì vậy
khái niệm “dân sự” trong thi hành án bao gồm những vụ việc liên quan đến quan
hệ về tài sản và quan hệ về nhân thân phi tài sản như: Bản án, quyết định của Toà
án về dân sự, hôn nhân gia đình và một số loại án khác có tính chất dân sự. Các
loại bản án, quyết định khác về lao động, hành chính, quyết định về dân sự, phạt
tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự, quyết định tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, quyết định giải quyết tranh chấp kinh tế hay thương mại của
Trọng tài có thủ tục thi hành riêng, tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định loại tố
tụng thi hành bản án, quyết định cho phù hợp.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa
rộng, tương thích với cách hiểu khái niệm “dân sự” theo nghĩa rộng, đó là những
quan hệ không phải là hình phạt về nhân thân đối với cá nhân. ý kiến này so sánh
với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có
nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại,
lao động) được thực hiện theo một thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn
bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại hay lao động.
Trên cơ sở của hai quan điểm trên theo chúng tôi đồng ý với loại quan điểm
thứ hai là phải hiểu đúng từ “dân sự” trong thi hành án theo nghĩa rộng, không chỉ
là bản án, quyết định dân sự của Toà án, mà còn là bản án, quyết định khác của
Toà án và quyết định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền mà pháp luật quy định
do cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Các bản án, quyết định dân sự do cơ quan
20
thi hành án dân sự thi hành không chỉ là bản án, quyết định của Toà án về vụ án
dân sự, kinh tế, lao động, phá sản doanh nghiệp, bản án, quyết định của Toà án
nước ngoài, quyết định của Trong tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam, mà còn thi hành các quyết định về dân sự, phạt
tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự và quyết định về phần tài
sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính. Ngoài ra, cơ quan thi hành
án dân sự còn được giao thi hành quyết định của tổ chức không phải là toà án, như
quyết định của trọng tài.
Như vậy, qua các quan điểm nêu trên ta có thể rút ra được khái niệm thi
hành án dân sự:
Thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định về
dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế, quyết định về tài sản trong bản án
quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do cơ quan thi hành án
dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật.
Từ cơ sở lý luận chúng ta xem xét quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 2004 thì “Bản án, quyết định dân sự nói trong Pháp lệnh này bao gồm:
Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế;
bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định
về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản
thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án về hình sự; quyết
định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành chính; quyết
định tuyên bố phá sản; quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam; bản án,
quyết định khác do pháp luật quy định”. Do cơ quan thi hành án dân sự chịu trách
nhiệm thi hành.
21
Về phạm vi áp dụng, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự ngày càng mở
rộng. Nhiều quan hệ pháp luật khác nhau được các cơ quan tài phán (Trọng tài
kinh tế, Toà án) giải quyết theo các trình tự tố tụng khác nhau nhưng đến giai đoạn
thi hành án đều áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Từ năm 1993
đến nay, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật như: Bộ luật
dân sự năm 1995; Luật phá sản doanh nghiệp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật tố tụng hình sự ; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại
Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động; pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính. Các Pháp lệnh về thủ tục đã được nhà nước ta
tập hợp hoá, pháp điển hoá và ban hành Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu
lực ngày 01/01/2005; Bộ Luật dân sự năm 2005, có hiệu lực 01/01/2006.v.v. Theo
quy định của các văn bản pháp luật này, thì trình tự thủ tục thi hành án dân sự
được áp dụng thi hành đới với:
- Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh tế;
- Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trong
tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
- Quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà án
về hình sự;
- Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về hành
chính;
- Quyết định tuyên bố phá sản;
- Quyết định của Trọng tài thương mại Việt nam;
22
- Bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.
Có thể nói, tháng 6/1993 trở về trước, công tác thi hành án dân sự do Toà
án nhân dân và Toà án quân sự các cấp đảm nhiệm. Toà án vừa là cơ quan xét xử
đồng thời vừa chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án. Do Toà án chỉ chú trọng vào
công tác xét xử nên công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn này rơi vào tình
trạng rất yếu kém. Trong bối cảnh chung cơ sở vật chất hết sức khó khăn, đội ngũ
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án vừa thiếu vừa yếu, hệ thống pháp luật không
đồng bộ. Hơn nữa, do phải tập trung vào nhiệm vụ xét xử, nên công tác thi hành
án dân sự chưa được coi trọng đúng mức.
Thực hiện Nghị quyết tại kỳ họp thứ nhất ngày 6/10/1992 của Quốc hội
khóa IX về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các
cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày
21/4/1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Nghị định số 30/CP ngày
02/6/1993 của Chính phủ qui định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và
Chấp hành viên. Trong quân đội ngày 15/6/1993 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
ký quyết định số 247/QĐ-QP thành lập Phòng Quản lý thi hành án Bộ Quốc
phòng (nay là Cục Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng), ngày 16/6/1993 Tổng
tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ký quyết định số 430/QĐ-TM
thành lập các Phòng Thi hành án Quân khu và Quân chủng Hải Quân (nay là
Thi hành án Quân khu và Quân chủng Hải Quân). Đồng thời triển khai việc
bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án quân sự các cấp sang cơ quan
thi hành án và thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án trong
quân đội theo chỉ thị số 266/TTg ngày 02/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ.
Việc ra quyết định cũng như tổ chức thi hành án hoàn toàn do Thủ trưởng
cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm. Như vậy, về cơ chế quản lý cũng như về
23
trình tự thủ tục thi hành án dân sự đã có sự thay đổi có tính chất căn bản, liệu
chúng ta có thể đặt vấn đề:
Thi hành án dân sự hiện được xem là hoạt động hành chính - tư pháp
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm thi hành kịp thời đầy đủ
các bản án, quyết định về dân sự của Toà án và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật?
1.1.2 Đặc điểm thi hành án dân sự
1.1.2.1 Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính -
tư pháp:
Trên cơ sở lý luận, việc nghiên cứu đánh giá ý nghĩa, vị trí, tính chất của thi
hành án dân sự hiện còn đang tồn tại các quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập trong
trình tự tố tụng:
Đây là giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Việc
tách rời giai đoạn thi hành án ra khỏi tiến trình tố tụng sẽ làm mất ý nghĩa của giai
đoạn xét xử - giai đoạn có ý nghĩa quyết định trong quá trình tố tụng cũng như
toàn bộ các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Nếu hiểu theo
nghĩa rộng, thi hành án dân sự không chỉ là tổng hợp các hành vi thi hành bản án,
quyết định dân sự theo nghĩa rộng của Toà án theo quy định của pháp luật về thi
hành án, mà bao gồm cả những hành vi nhằm thi hành bản án, quyết định theo
quy định cuả các văn bản pháp luật khác. Như vậy, việc chuyển giao công tác thi
hành án từ cơ quan xét xử sang cơ quan hành chính không có nghĩa là thủ tục thi
hành án dân sự là thủ tục hành chính. Thủ tục tố tụng dân sự cũng như thủ tục tố
tụng hình sự không thể hiểu chỉ có Toà án tiến hành mà do nhiều cơ quan, tổ chức
tiến hành. Nội dung thi hành án dân sự chủ yếu mang tính tài sản, dựa trên bản án,
quyết định của toà án, nó gắn liền với việc giải quyết vụ án. Chính vì vậy, thi hành